|
Thơ mỗi ngày
Tình Buồn
Tô Hoài
Note:
Thần sầu, tuyệt cú mèo, số dách...
Ghi chú
trong ngày
NOTES ON A
VOICE: W.G. SEBALD
From
INTELLIGENT LIFE Magazine, Spring 2011
The
essential theme of W.G. Sebald’s books is memory: how painful it is to
live
with, how dangerous it can be to live without it, for both nations and
individuals. The narrators of his books—of which “Austerlitz”
and the four
linked narratives of exile in “The Emigrants” are the most
compelling—live in a
state of constant reminder. Everything blends into everything else:
places,
people, their stories and experiences, and above all different times,
which
seep into each other and blur together, often in long, unmoored
passages of
reported speech. The narrator of “Vertigo” gives a concise account of
this
method: “drawing connections between events that lay far apart but
which seemed
to me to be of the same order”.
Sebald, born
in Bavaria in 1944, spent most of his adult life as an academic in
Britain. He
died in Norfolk in 2001, after having a heart attack at the wheel of
his car.
He wrote in German, but worked closely with his English translators,
Michael
Hulse and Anthea Bell. In either language, his voice is mesmeric.
Key
decision:
To invent
his own hybrid form. Sebald’s main works blend travelogue and
meditation,
fiction with history and myth. They have a narrator who both is and is
not
Sebald himself: a spectral character who is sensitive, digressive and
restless,
compulsively peregrinating around Europe and its past.
Strong
points:
Finding a
voice to fit his preoccupations. His sentences are looping, reflexive,
moving
forward yet endlessly turning back on themselves. By the time he wrote
“Austerlitz”, the last book he published before his death, Sebald had
more or
less dispensed with paragraph breaks altogether. This fluidity creates
a
feeling, as the character Austerlitz says of his own sense of history,
that
“time will not pass away, has not passed away, that I can turn back
after
it”—clauses that are themselves part of a much longer, circular
sentence. This
is a style that tries to unbury the dead through syntax.
Golden rule:
Obliqueness,
or, as one critic put it, tact. Sebald’s prose is finely wrought yet
unflashy.
His punctuation is rarely more exotic than the comma; his vocabulary is
unadorned. Similes are uncommon: he deals instead in a sort of luminous
reality. As in style, so in content. Asked about his approach to the
horrors of
20th-century history—his work circles the Nazi Holocaust as if it were
a
mountain—Sebald once said that his aim was to intimate “to the reader
that
these subjects are constant company; their presence shades every
inflection of
every sentence one writes”, without describing the camps and
catastrophes
directly. It is loss, rather than bloodshed, that his books lament.
Favourite
trick:
Putting
pictures into the text that subtly reinforce these themes. They are
black-and-white, uncaptioned and unexplained—pictures of people, but
also train
tickets, restaurant receipts, maps and other relics. They seem to
advertise the
veracity of the stories they appear in, yet they are artful and
calculated. The
images are often poignant, at once bringing back forgotten people and
confirming
that they are irrevocably lost. They point up a question that is at the
heart
of Sebald’s work: why do we cling on to some things from the past while
the
rest of it escapes us?
Role models:
In the way
it samples and fractures different subjects and stories, Sebald’s work
is
almost post-modern. Jorge Luis Borges is cited by some as a key
influence on
him. And yet his sentences are also plangently old-fashioned, sometimes
reminiscent, for readers in English, of medieval periods. There are
echoes of Thomas
Malory and Thomas Browne and, in his dextrous weaving of complementary
tales,
of Ovid.
Typical
sentence:
Many of the
finest are too long to cite, so this, from “The Emigrants”, will have
to do:
“And so they are ever returning to us, the dead.”
Vintage
Classics reissue three of Sebald’s books this year: "The Emigrants",
March;
"Rings of Saturn", April; "Vertigo", June
Nasa warns
solar flares from 'huge space storm' will cause devastation
Exclusive:
Britain could face widespread power blackouts and be left without
critical
communication signals for long periods of time, after the earth is hit
by a
once-in-a-generation “space storm”, Nasa has warned.
TIN MỚI,
CHÍNH THỨC CỦA NASA
Người dịch:
PHẠM VIẾT ĐÀO.
Các quan chức
NASA đã chính thức thông báo, năm 2013 trái đất của chúng ta sẽ bị chấn
động bởi
một vụ nổ mặt trời do bởi nguyên nhân: mặt trời đã đạt tới cực đại của
sự vận động
nội tại của nó.
Vụ nổ này sẽ
gây nên những thảm họa điện từ cho toàn thế giới. Tất cả các vệ tinh do
con người
phóng lên vũ trụ sẽ bị tê liệt, tất các các chuyến bay sẽ bị hủy bỏ,
các máy
phát điện sẽ nóng lên và toàn thế giới có khả năng sẽ chìm trong bóng
tối.
Theo The
Telegraph, các chuyên gia của NASA đã cho biết: Một cơn bão mặt trời
siêu mạnh
có khả năng gây nên những thảm họa lớn nếu con người không chuẩn bị có
hình thức
ứng phó.
Cơn bão mặt
trời tạo nên những cơn song điện từ đến một cách bất ngờ như những tia
chớp, có
khả năng phá hủy bất cứ dụng cụ điện nào. Như vậy sẽ dẫn tới hệ thống
an ninh của
các quốc gia sẽ bị tê liệt trong một thời gian không xác định, hệ thống
ngân
hàng sẽ không hoạt động.
“ Chúng tôi
biết thảm họa này đang tới gần nhưng không lường được hậu quả xấu của
nó gây ra
đến đâu. Tất cả các hệ thống thong tin liên lạc vệ tinh sẽ bị phá hủy
hoàn
toàn; các vệ tinh thám không sẽ bị hư hại và hệ thống máy tính toàn thế
giới sẽ
bị phá hỏng. Nhiều vùng đất sẽ không có điện…” Đó là tuyên bố của Giám
đốc Cơ
quan nghiên cứu mặt trời của NASA: Tiến sĩ Richard Fisher.
Trong cơn
bão mặt trời, nhiệt độ của mặt trời sẽ vượt quá 5.500 độ bách phân…
TIN KINH KHỦNG:
CHÂU ÂU CÓ KHẢ NĂNG SẼ BỊ HỦY DIỆT VÀO NĂM 2013
Telegraph vừa
đưa tin: Các nhà khoa học vừa dự đoán về một thảm họa có thể xảy ra:
một vụ nổ
của mặt trời vào năm 2013 tại khu vực châu Âu.
Trong một cuộc
họp báo Tiến sĩ Richard Fisher đã thông báo: sẽ có vụ va chạm của những
tia
sóng điện từ với một mức độ không thể lường định được. Rất nhiều nhà
nghiên cứu
cho biết ‘ “ “ vụ nổ mặt trời “ sẽ xảy ra vào năm 2013 khi mà trái đất
có thể bị
tiếng nổ cực mạnh này xô vào.
“ Khu vực xảy
ra vụ nổ sẽ dẫn tới bị mất điện kéo dài. Sóng điện tử này sẽ lan tỏa
điên cuồng
như ánh chớp…” Đó là ý kiến của Tiến sĩ Richard Fisher.
Theo các nhà
khoa học Anh, vụ nổ mặt trời sẽ rất mạnh có thể phá hủy toàn bộ hệ
thống thông
tin và gây hậu quả khủng khiếp đối với con người; nó có sức công phá
mạnh tương
đương với 100 quả bom Hidrogen…
Theo các nhà
khoa học thì nếu vụ nổ mặt trời này gần quả đất thì rất nhiều quốc gia
sẽ bị hủy
diệt. Trong một cuộc họp báo Tiến sĩ Liam Fox đã thông báo: Nước Anh,
Bắc Triều
Tiên, Iran có thể có khả năng hứng chịu thảm họa này.
Vào năm 2013
vụ nổ mặt trời sẽ va chạm với trái đất và rất khủng khiếp; nó sẽ hủy
diệt toàn
bộ các vệ tinh do con người phóng lên vũ trụ và các con tàu thám hiểm
không
gian.
Theo các
chuyên gia NASA thì toàn bộ máy móc điện tử sẽ bị hủy hoại, hệ thống
ngân hàng,
bệnh viện sẽ bị tê liệt, các trạm kiểm soát không gian chỉ còn là những
cục gạch…
Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng Anh vừa tuyên bố tuần tới sẽ sang gặp các chuyên gia NASA
trong một
cuộc hội thảo để bàn cách hạn chế thấp nhất những sự phá hoại do vụ nổ
mặt trời
gây ra vào năm 2013.
“Chúng tôi
biết chắc rằng thảm họa này sẽ xảy ra nhưng không lường trước được sự
tàn phá của
nó đến đâu”- Đó là ý kiến của Tiến sĩ Richard Fisher , Giám đốc của cơ
quan
hàng không vũ trụ Mỹ NASA khi đề cập tới cơn bão mặt trời này…
Hơn 1 vạn
con cá mập quây kín thành một lòng chảo khổng lồ trên biển
Hình ảnh đàn
cá mập hơn 1 vạn con nhìn từ trên cao xuống
Một chuyên
gia về cá mập tại Florida, James Abernethy, đã chứng kiến và ghi lại
được hình ảnh
đàn cá mập khổng lồ này. Ông cùng đoàn chuyên gia của mình đã sử dụng
trực
thăng và tàu bay để chụp lại những hình ảnh hiếm có này.
Blog 360 plus
TTT
22.3.2006 – 22.3. 2011
Ba Mươi
Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền
Đầu năm 78 ở
Lào Kay lần đầu tiên nhận được thư nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi
viết:
"Bố nuôi của Thái đã về quê ngoại sống, không còn ở Sài Gòn nữa"),
tôi như chợt tỉnh sau giấc hôn thụy. Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc ấy đề
tặng một
thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc
không còn
ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ
anh.
Thanh Tâm
Tuyền: Trong Đất Trời Nhau
Tưởng niệm
Mai Thảo, tạp chí Thơ số Mùa
Xuân 1998].
Bài nhớ thi
sĩ
Nhớ Già Ung
*
Gửi MT
Sáng nay thức
giấc trong nhà giam
Anh nhớ những
câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy
trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh
quẽ
Ánh lửa mênh
mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì
rào
Gió náo nức
mù tối
Trễ muộn mùa
xuân trên miền cao
Đang lay thức
rừng núi biên giới
Đã qua đã
qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn
khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn
nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái
gở
Từng thiêu đốt
anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh
đớn đau
Từ bao giờ
anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời
sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời
thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh
về tận nẻo nguồn
chốn bình
minh lẩn lút
(Bình minh
bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa
Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm
nay)
Em, em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang
cố quận
Xao xuyến
ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa
ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng
em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh
gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú
1/79
Thanh Tâm
Tuyền, Thơ Ở Đâu Xa
Ghi chú của
tác giả:
Già Ung:
Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý.
Ghi chú của
người sao lục:
Bài Nhớ Thi
Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải
tạo, đã được
nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.
Độc giả
[Thính giả?] đầu tiên của bài thơ, là trại viên Nguyễn Chí Kham, như
tác giả Nắng
Hồng Phương Nam cho biết.
Trong đất trời
nhau, là từ thơ Mai Thảo: Trong đất trời nhau mình vẫn gần. Biết tin
anh đi xa,
là để chỉ Mai Thảo đã vượt thoát. Quê ngoại là hải ngoại.
Hôn thụy, ngủ
mê, như Gấu tôi được biết, là chữ của Tô Thuỳ Yên, khi chuyển từ "coma"
[hôn mê] sang tiếng Việt. Trong một lần hai anh em ngồi Quán Chùa, TTT
tâm đắc
với từ này, và gật gù, 'luý' dịch từ này, hay thật!
*
Tại sao lại bỏ Hà Nội?’
“Tôi chán đây rồi. Sang bên ấy ở ẩn cho qua ngày.”
“Có chắc ẩn được hay không?”
“Không biết. Nhưng chắc được, ở ngay trong trường với các linh mục. Bên
này nó
nghi ngờ những liên lạc và hành vi của mình quá rồi.”
"Những liên lạc hành vi nào?” Đại hỏi ngạc nhiên.
“Một vài chỗ quen biết hoạt động nội thành, một vài chỗ các đảng phái
khác, thư
từ, sách đọc, công việc làm cũng đủ nó khó chịu, còn gì hơn?”
Tôi ngồi trên bực gạch. Đại trông thẳng mặt tôi nghiêm trang. Hắn móc
túi lấy
đưa cho xem một lá thư.
“Thư của người bạn ở chiến khu Trình Minh Thế.”
Tôi nhìn qua rồi trao trả Đại. Hắn vừa cất lá thư vừa nói:
“Tôi nghĩ rằng cho đến bây giờ không thể đi khác hơn được. Nó còn đúng.
Mình
còn phải nhắm mắt nhận lấy thân phận của giai cấp mình.”
Nó - Đại muốn nói về chủ nghĩa cộng sản. Tôi cầm lên cuốn sách của Đại
để sang
bên và trông vào tấm hình. Tôi nói:
“Tôi cũng nghĩ như thế nhưng tôi lại muốn nghĩ thêm chút nữa. Tôi không
nghĩ
đến thân phận giai cấp mình, tôi muốn nghĩ đến thân phận giai cấp khác,
thân
phận ngay chính giai cấp vô sản”
“Làm thế nào được khi đế quốc còn đủ nanh vuốt. Tôi không tin lực lượng
thứ
ba.”
“Tôi cũng không tin.”
Câu chuyện ngưng ở đấy như thường lệ.
Bếp Lửa
Chúng ta tự hỏi, cụm từ 'lực
lượng thứ ba', chiến khu TMT, ở đâu
ra?
Với Greene, tác giả Người Mỹ Trầm Lặng,
là trên chiếc thuyền của Hùm Xám Bến
Tre, trên đường về Sài Gòn.
Với TTT, tác giả Bếp Lửa?
Mẩu đối thoại trên, ở Hà Nội.
Như thế chiến khu Trình Minh Thế, như được nhắc tới trong Bếp Lửa có lẽ
chỉ là một cái tên phịa ra cho một vùng hậu phương, vùng kháng chiến,
do Vẹm
kiểm soát, so với vùng Tề?
Nhưng Trình Minh Thế, còn là
một cái tên đại diện cho cái gọi là
'lực lượng thứ ba', trong Người Mỹ Trầm Lặng.
TMT là người, là đầu mối, để
Pyle liên lạc. Theo Greene, TMT là
người trách nhiệm vụ nổ bom trên đường Catinat. Mìn, thuốc nổ, Pyle
cung cấp.
*
Ảnh hưởng của TMT là trung tâm điểm của cái cú tạo nên tác phẩm Người Mỹ Trầm Lặng.
Ông là chất xúc tác làm bật ra những "nhiệm vụ đặc biệt" của Pyle.
Greene xác nhận, cả trong giả tưởng lẫn không-giả tưởng, Xịa đã ngoéo
tay với
Thế, cung cấp cho Thế vật liệu thực hiện những hành động đen tối, ma
quỉ. Điều
này khiến Liebling của tờ Người Nữu Ước bực mình, "Có sự khác
biệt
giữa... gọi nhân vật không ưa, tuy rất nổi cộm của mình, là một tên
khốn kiếp,
với cái sự kết án anh ta là một kẻ sát nhân."
Greene, trong bức thư mở ra tác phẩm, nhắc tới sự kiện TMT bị bắn sau
lưng,
điều này cho thấy, có thể ông đã thay đổi cái nhìn đối với TMT.
Câu nói của Đại, và Tâm lập
lại, "Tôi không tin lực lượng thứ
ba", "Tôi cũng không tin", trong Người
Mỹ Trầm Lặng cũng có, và
cũng trong một cuộc đối thoại, giữa Pyle và Fowler. Anh già Hồng Mao
nghi ngờ
Pyle lậm nặng với Thế, cảnh cáo:
- Chúng tôi đám thực dân thuộc địa già, Pyle, chúng tôi cũng học được
một tị,
về thực tại, chúng tôi học được điều này, chớ đùa với diêm quẹt. Cái
gọi là Lực
Lượng Thứ Ba đó, nó bò ra từ một cuốn sách, không phải từ thực tại,
Tướng Thế
này chỉ là một tên tướng cướp với một vài ngàn đệ tử: ông ta không phải
là một
nhà dân chủ quốc gia....
-Tôi không hiểu anh định nói gì, Thomas...
-Ba cái xe đạp cài bom. Chúng là một trò tiếu lâm, ngay cả đã làm cụt
giò một
con người. Nhưng, Pyle, đừng tin những người như Thế. Họ làm gì được,
trong cái
việc kéo Đông Phương ra khỏi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Chúng tôi rành mấy thứ
đó quá
mà.
-Chúng tôi?
-Đám thực dân thuộc địa cũ.
-Tôi lại nghĩ, anh không chọn bên.
-... Hãy mang Phượng về Mẽo. Quên Lực Lượng Thứ Ba đi.
Rừng [Kinh Dương
Vương], Nguyễn Ðình Thuần, Gấu, Ðặng Phú Phong
@ Phong's [2005]
“Tôi cũng thấy
vui vì tác phẩm văn chương của tôi viết trong thời chiến
được
những người ở thế
hệ hậu chiến thưởng thức và lấy làm phim”.
@ Văn Hóa
Magazine, 2005
Lúc đầu tưởng
phim Đường kiến (đạo diễn
Thiều Hà Quang Nghĩa) vi phạm bản quyền
truyện Đường kiến (tác giả
Kinh Dương Vương). Té ra không phải. Không phải chuyện
bản quyền,
vì chuyện bản quyền vừa được xí xoá bằng một ly bia nóng giữa tác giả
truyện và
đạo diễn phim.
Nhân vật
chính trong truyện Đường kiến
là một anh lính Việt Nam Cộng Hoà, nhưng
trong
phim Đường kiến, anh lính
Việt Nam Cộng Hoà bị xoá, thay vào đó là một
anh lính
Mỹ.
Và tại sao
là Mỹ mà không phải Việt Nam Cộng Hòa?
Vì nếu để
nhân vật chính trong phim là một anh lính Ngụy như trong truyện thì
không ổn,
tôi chưa thấy điều này xảy ra trong văn học và phim ảnh tại nước Cộng
Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhà Ngụy, dinh thự Ngụy thì rất tốt, nhưng văn hoá
phẩm của
Ngụy thì vẫn bị cấm. Còn nếu được sử dụng thì bị cắt đầu cắt đuôi cho
khớp với
quan điểm chính trị của Đảng, rằng đã là Ngụy, nếu không đồi trụy thì
nợ máu với
nhân dân. Mà nhân vật trong truyện Đường
kiến không đồi trụy, không gây
nợ máu
với nhân dân thì… không thể chấp nhận được?
Trong khi Hồ
Chí Minh đã thúc giục: “Đánh cho Mỹ cút / đánh cho Ngụy nhào”, thì có
nghĩa là
bộ đội CSVN đánh nhau vừa với Mỹ vừa với Ngụy, chứ đâu phải chỉ đánh
nhau với Mỹ. Hay là vì thằng
Mỹ sắp trở lại, còn thằng Ngụy phải vĩnh viễn biến mất,
cho nên
nhân vật Ngụy trong văn học của thằng Ngụy không có lý do gì láng cháng
trong
phim?
Nếu có nhân
vật thằng Ngụy láng cháng trong phim, chẳng hạn trong phim Sống trong
sợ hãi (đạo
diễn Bùi Thạc Chuyên, kịch bản Nguyễn thị Minh Ngọc và Bùi Thạc
Chuyên), thì
nhân vật thằng Ngụy biến thành công cụ thảm hại để khẳng định sự tất
yếu cao cả
của thằng Cộng. Sau khi thằng Ngụy quỳ xuống tự xỉ vả mình trước thằng
Cộng,
thì cuộc hoà giải giữa thằng Ngụy và thằng Cộng mới được chấp nhận?!
Còn chuyện tại
sao tác giả truyện Đường kiến lại vui vẻ với phim Đường kiến, thì Thận
Nhiên
nói: “Thật là kẹt, vì đây là trường hợp nhà văn phản bội nhân vật!”
Có phải khi
nhà văn phản bội nhân vật là khi nhà văn tự xoá vai trò nhà văn của
mình?
Đạo diễn
phim và Ban tổ chức/Ban giám khảo Cánh Diều Vàng sử dụng một tác phẩm
của Ngụy
rồi thay nhân vật Ngụy bằng nhân vật Mỹ. Tôi gọi đây là một thái độ
thôn tính
hay một kiểu chính trị du kích: phủi Ngụy bợ Mỹ.
NQC
VC có thể bắt
tay với Mẽo, nhưng không thể với Ngụy, nhà văn không biên giới, nhưng
Ngụy đâu
phải là người, thì làm gì có nhà văn.
Ðây là chính sách của nhà nước. Không phải du kích chính trị.
Ðúng như NQC viết: Hay là vì thằng Mỹ sắp trở lại, còn thằng Ngụy
phải vĩnh
viễn biến mất, cho
nên nhân vật Ngụy trong văn học của thằng Ngụy không có lý do gì láng
cháng
trong phim?
Mấy anh Mẽo phản chiến phải từ Mẽo qua VN bắt tay nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo, thí
dụ, rồi chụp vài pô hình kỷ niệm, chứ đâu có thì giờ mời Phan Nhật Nam
cuối tuần
ghé nhà tụi này chơi!
Cuối tuần ghé chơi, thì chỉ có đám WJC, và đám nhà văn VC lãnh tiền Xịa
viết về
Mít lưu vong!
Cái sự VC vờ nhà văn Ngụy phải được coi là cái nhục của VC, chứ đừng
có nghĩ là Ngụy nhục, cũng như cái sự mê nghe nhạc Trịnh của VC, vậy.
Ðây là điều
Heidegger viết ra, để xin lỗi triết gia bạn ông là Gabriel Marcel nếu
Gấu không
nhớ lộn: Tôi không dám đến nhà ông, vì không dám gặp bà vợ Do Thái của
ông, vì
cảm thấy nhục quá!
Thành thử không
thể nào trút cái vụ đạo này, lên cá nhân đám làm phim, và lại càng
không thể viết
về thái độ của nhà văn KDV, “nhà văn phản bội nhân vật” như Thận Nhiên
nhận xét
được.
Tôi nghĩ KDV thật đạt, trong khi quyết định, nếu tớ có về, và nếu tớ có
tình
cờ gặp mấy em thì làm ly bia, là xong.
Cái “mô típ”
chủ đạo của truyện ngắn của KDV đã được rất nhiều nhà văn sử dụng, nhất
là mấy
tay viết trinh thám, [nhờ kiến tìm ra xác chết giấu sau bức tường, thí
dụ].
Liệu
có thể lấy câu nói của Steiner để “trói voi bỏ rọ”: Cái sự sống sót
thật đáng tởm, the unmerited scandal of survival [xì căng đan không thể
xoa đầu của sự sống sót], trong đó có cả ông,
nhờ ông
bố khôn tổ cha, mà kịp xuống chuyến tầu chót rời Âu Châu, trước khi
Nazi xâm lăngTẩy
mũi lõ.
Giả như mấy
tay làm phim thực sự “đạo”, thì đã không giữ nguyên cái tên truyện.
KDV bảnh thật,
vì đã nhìn ra điều này, bởi vậy mà anh nói, thằng anh này phải cám ơn
mấy chú
em.
Chửi VC, OK,
nhưng đừng chửi quá, tới cả những người có thiện tâm, thực sự mong muốn
điều hòa
giải.
Chúng ta cứ
thử hỏi, nếu như đám làm phim không đổi tên Ngụy thành tên Mẽo, liệu có
phim Ðường
kiến?
NQT
Khi thực hiện
phim Cuốn Theo Chiều Gió, David O. Selznick, nhà sản xuất phim tài hoa
nhưng
khó tính đã không hài lòng với bất cứ siêu sao nào của Hollywood đương
thời để
mời đóng vai Scarlett O’Hara. Hãng phim của ông đã tuyển lựa cả ngàn cô
gái Mỹ
cho đóng thử nhưng cũng không có kết quả. Cuối cùng vào phút chót, may
thay và
kịp thời (vì không thể chờ đợi thêm nữa) có người giới thiệu Vivien
Leigh một nữ
diễn viên Anh sống tại Luân Đôn chưa nổi tiếng, để vào vai Scarlett.
Chọn diễn
viên ngoại quốc đóng vai một nhân vật đã nổi tiếng trong một cuốn
truyện
best-seller về cuộc nội chiến Mỹ là một hành vi táo bạo và liều lĩnh,
thậm chí
khiêu khích, có thể đưa đến tình trạng phim bị tẩy chay. Nhưng vì nghệ
thuật và
muốn thực hiện một cuốn phim xứng đáng ngang bằng với biến cố lịch sử
và cuốn
tiểu thuyết nặng ký của Margaret Mictchell, nên D. O. Selznich—người
chồng
tương lai của Jennifer Jones—đã không ngần ngại. Kết quả, Cuốn Theo
Chiều Gió
đã trở thành tuyệt tác của điện ảnh thế giới chỉ có một không hai.
Ashley
Wilkes, chàng trai phong nhã Scarlett si tình, cũng do một tài tử Anh,
Leslie
Howard, đóng. Trong phim này cũng có cô gái điếm da trắng ở Atlanta tên
Belle,
một gái buôn hương có trái tim vàng.
NDT
Bạn NDT viết
hơi bị nhảm về trường hợp Viven Leigh được chọn.
Trước đó, có 1 người giới thiệu
em, nhưng không được chú ý. Ðến giờ chót, vẫn không tìm ra người đóng
vai Scarlett
O’Hara, và
đành cho
quay, với 1 nhân vật tạm, đóng vai em.
Ðúng trong cái đêm quay phim đầu
tiên đó, thì VL lọt vô tầm ngắm của đám săn người, vì em tò mò đến coi
“thử, chơi”!
Giai thoại này
thú vị lắm, G mới đọc trên tờ Ðiểm Sách London hay TLS, để lục coi,
post cho độc
giả TV “đọc thử, chơi”!
… dù bạn bè
vẫn muốn in một cuốn thơ NĐT chơi nhưng tới nay tôi vẫn chưa gật.
NDT
Gấu nghi,
NDT chưa gật, là vì biết tỏng, thơ của mình chẳng ra cái chó gì!
Chứng cớ:
Nhà
thơ viết về 1 nữ thi sĩ như TMT, tuổi không thua NDT là mấy, mà kêu là
“cô bé”,
rồi “đọc thử chơi!”
Thi
sĩ gì mà
dùng từ nhảm như thế? NQT
*
Tham khảo:
… Cuối cùng, đề nghị ông
Trụ nên có thái độ đúng đắn hơn khi tranh luận. Kiểu viết của ông:
«không liên
quan liên kiếc gì hết» vừa thiếu bình tĩnh vừa kém tự tin.
Lần sau, nếu ông tiếp tục
như vậy, sẽ không ai trả lời ông.
DCT
Phúc đáp: Cụm từ
"không liên quan liên kiếc" quả là bậy thật. Thành thật xin ĐCT bỏ
qua cho.
NQT
Source
Những sai sót
như “đọc thử chơi”, hay “một ngày”, ở một tay biên tập nhà nghề, rành
rẽ tiếng Việt, thì đều nhận ra, và sẽ biên tập trước khi post. Clint
Eastwood rút
phim có cảnh sóng thần của ông ra khỏi Japan là vậy. Bài thơ Một Ngày đăng
vào lúc này quả là một “bad taste”, nhưng 1 cách nào đó, lại gây ấn
tượng mạnh
hơn là giả đò đau khổ!
Hoặc đau khổ… quá chậm, như với NDT: Trước 1975, ông đâu
có thèm để ý đến thời cuộc, VNCH, số phận Miền Nam như cả đám Trình Bày
vốn
như thế.
Liệu nhà thơ có cảm thấy tí ti ân hận, sau khi... "đi hết một đêm hoang
vu"?
Về thơ.
Borges có 1 câu thật tuyệt, Gấu, mỗi lần đọc thơ của 1 tay lạ, là đều
nhớ tới nó:
Thơ được trao cho thi sĩ. Ðọc mấy đấng Mít Butor, NDT… toàn thứ tăm
tiếng, nổi cộm của Miền Nam, G chưa tìm
thấy, chỉ 1 câu của
họ làm bật ra cái ý của Borges.
Ngài Mít Butor đa tài, nào sáng tác, y
chang
Butor, nào dịch, nào vẽ, nào làm thơ, nhưng
xin thử đưa ra một bài ngửi được!
Quái đản nhất,
là, Mít Butor rất thù G. Vậy mà G chẳng biết gì hết, mỗi lần gặp ở Quán
Chùa là
mừng mừng rỡ rỡ, chỉ đến khi ra hải ngoại, viết cho 1 tờ báo của một
tay cựu
giáo sư và, vì cái chuyện Gấu về VN bắt tay với VC, khiến tay này giận,
bèn xì
ra, mi tưởng mi là bạn thân, bạn quí của Mít Butor ư, tao hỏi xin bài
cho báo,
ông ta nói, ta không hề viết báo nào có thằng khốn Gấu cộng tác!
Chỉ đến lúc
đó, G mới ngớ người ra, và, sau đó, được 1 văn hữu cho biết, ông Mít
Butor này
là dân Trung Kít, có thể còn vì vậy, nữa.
Trung Kít làm sao ưa Bắc Kít ?
Ðâu phải tự
nhiên mà VP viết cả 1 bộ VHTQ chỉ để “ai điếu” nhóm Sáng Tạo!
Chỉ đến lúc
đó, G mới biết ông ta là Trung Kít, vì dù quen biết lâu, nhưng không để
ý đến
điều này!
Mà để ý làm
chó gì cơ chứ!
*
Cảm đề “Ði
cho hết một đêm hoang vu”, của… GNV & Borges:
EPILOGUE
Through the
years, a man peoples a space with images of provinces, kingdoms,
mountains,
bays, ships, islands, fishes, rooms, tools, stars, horses, and people.
Shortly
before his death, he discovers that the patient labyrinth of lines
traces the
image of his own face.
-Jorge Luis
Borges
Qua năm
tháng, con người phủ lên một miền không gian, với hình ảnh của những
thành thị,
xứ sở, sông núi,… người ngợm.
Chỉ đến khi
nhận chiếc vé đi chuyến tầu suốt, thì
người đó mới hiểu ra rằng, cái mê cung chậm rãi, chằng chịt những đường
nét đó,
vẽ nên bộ mặt của chính mình.
[Trong “Nói
chuyện với Borges”, Conversations
with Jorge Luis Borges, của Richard Burgin,
nhà xb Avon Books]
Với NDT, có
thể là bộ mặt của một ông chống VC hơi bị muộn?
Với PCT,
theo GNV, là phát giác của ông về một giấc hôn thụy, như là bộ mặt của
chính mình!
Có thể vì vậy
mà ông mới thách nhà phê bình BVP, như sau đây cho thấy:
Anh lại vừa
lên đường rồi, phải không? Lại làm một màn somnambule ballad mà anh
từng thách
tôi dịch ra tiếng Việt theo thể điệu của Federico García Lorca. Và tôi
đã dịch
cái tựa đề này thành "Rong khúc mộng du". Bây giờ thì chính anh lại
đang thực hiện một cuộc đi chơi rong đầy tính cách mộng mị như vậy!
BVP/DM
TTT, phải đến
khi đi tù VC, và, đúng vào lúc nghe tin Mai Thảo đi thoát, thì mới bừng
tỉnh giấc
hôn thụy.
Ruth
Franklin viết, trong The Long View: Theo
cái nhìn ý thức hệ của Adorno, “ăn theo” số phận nạn nhân thì thật đại
nhảm, cố
gắng áp đặt hài hòa nghệ thuật lên Lò Thiêu là mạo hóa, ngụy tạo, làm
thơ dưới bóng
của nó là biểu dương sự suy đồi của văn hóa trưởng giả. Nhưng với
Adler, một kẻ
sống sót Lò Thiêu, bắt đầu viết văn, làm thơ khi bị đầy vô LT, toan
tính đưa [assimilate]
sự ghê rợn của trại tù vào nghệ thuật, thì cần thiết – không phải chỉ
vì đây là
một sắc thái thiết yếu, cơ bản của tác phẩm của cuộc đời của ông, nhưng
nó còn là
một cách tái nắm bắt trọn kiếp nhân sinh của riêng ông, sau cơn đại
họa.
“Cái bóng kế
cận Hitler làm nên tôi”. Sở dĩ Steiner viết như thế, là vì xém 1 tí là
ông bị
Hitler tóm được và đẩy vô Lò Thiêu!
Bất cứ 1 anh
chị Mít Nam nào, thoát ra được hải ngoại sau ngày 30 Tháng Tư, thì đều
có thể
phán như Steiner.
TMT lại càng có quyền phán như thế. Cái “tâm sự” “cưới vừa
xong là anh đi”, là của TMT. Bà có quyền làm thơ ca ngợi cuộc đời thứ
nhì này,
nhờ quê hương thứ nhì mà có, được lắm chứ. Cái sự bực mình của NDT có
cái gì bất
thường, bởi vì ông không thấy gai gai khi đọc bài thơ Một Ngày, vào
những ngày
Sóng Thần, mà có vẻ như ông bực, vì sao bà này hạnh phúc quá! Y chang
lũ đàn ông
đã từng quen biết Marilyn Monroe: Men,
perhaps
jealous of her fame, said unkind things.
Chán thật
Ðọc đoạn BVP
viết, trên đây, GNV này không hiểu, PCT thách ông ta dịch cái tít, hay
là cả một
bài ballad [của ai?], qua tiếng Việt, theo điệu Lorca?
Không lẽ dịch,
chỉ cái tít, gồm hai từ, thành 1 điệu thơ Lorca?
Cái tít, như
thế, dịch “mot-à-mot”, như thế, thì đâu có gì để khoe?
*
Theo Gấu, có
một cái gì đó nối kết nhà thơ và nhà phê bình, đó là, cả hai nhìn ra
cái khác
thường trong cái bình thường, cái giống nhau giữa hai sự vật tưởng
không chút
liên hệ, và đây là điều mà Koestler nhìn thấy ở những nhà khoa học, qua
tnhững
khám phá, phát minh này nọ.
Michel
Foucault phân biệt, Kẻ Vẫn Thế và Kẻ Khác, Le
Même, LAutre, và đưa ra nhận xét:
Nhà thơ nhìn
ra cái giống nhau giữa sự vật, mà “kẻ vẫn thế”, là thường nhân chúng
ta, không
thấy; còn Kẻ Khác, hay tên điên, là kẻ nhìn cái gì cũng giống cái gì
hết!
Archimedes nhìn ra liên hệ
giữa "bỏ 1 vật
vô trong nước", thì, "nước dềnh lên", và từ đó khám phá ra luật tỉ
trọng.
Einstein
nhìn ra vật chất là 1 dạng của năng luợng, và từ đó ra công thức e =
mc2, và từ
đó, ra bom nguyên tử.
Hai đấng phê
bình Mít hải ngoại, một, Thầy Cuốc, mỗi lần phê bình là đưa ra 1 lời
phán khủng.
Lời phán khủng này, là 1 định luật giống như bên vật lý vừa nói ở trên,
nhưng tội
thay, đếch có chứng minh, để bảo chứng cho nó.
VP là nhà văn thế kỷ 20. Chấm hết.
Nhà
văn lưu vong viết như 1 thằng cha bị bịnh bạo dâm, hành lạc trong bất
lực gì gì
đó.
Nhưng
Thầy không trình ra 1 đấng như thế để chúng ta chiêm ngưỡng!
Còn Thầy
Phúc, mỗi lần viết phê bình là mỗi lần Thầy làm... thơ xuôi!
Thầy viết về
TMT, những dòng kiệt tác, nhưng khó mà coi là “phê văn”:
Có sự trộn lẫn
của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé với những mộng tưởng thanh
xuân.
Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động của cuộc đời. Nhưng
cũng
có, trong những dòng văn chân thật ấy, những khoảng thinh lặng cần
thiết và ấm
áp của tình người.
Về TCS:
Những sự mất
mát trong đời sống đã mở mắt cho Trịnh Công Sơn thấy được cái vô thường
của đời
này. Nỗi ám ảnh về cái chết, về sự mất mát, về tính vô thường của đời
sống,
luôn luôn là một ám ảnh theo sát Trịnh Công Sơn từ những ngày anh còn
khá trẻ.
Có lẽ vì là một người sống ngay trong một thành phố mà lúc nào bom đạn
cũng bủa
vây tứ phía, được nhìn tận mặt chiến tranh, nghe và thấy cái chết một
cách quá
rõ nét trong cuộc đời, Trịnh Công Sơn đã có những cảm nhận sâu xa về
những cái
mất còn của đời sống. Cuộc chiến đã dựng lên những cận ảnh tang tóc và
kinh
hoàng ngay trong những thành phố mà anh đã từng sống với. Cái còn hay
mất của tất
cả mọi thứ, kể cả tình yêu, trong chiến tranh, cũng là một điều mà con
người phải
kinh nghiệm và chấp nhận. Hạnh Phúc hay Bất Hạnh. Nỗi Buồn hay Niềm
Vui. Khổ
Ðau hay Hoan Lạc. Tất cả chỉ là hai mặt sấp ngửa của Cuộc Ðời. Từ đó,
người nhạc
sĩ nhận ra rằng….
BVP
Những câu
văn theo kiểu huề vốn, áp dụng cho bất cứ một ai ở Miền Nam vào thời
gian đó,
cũng đặng, vậy mà cũng có kẻ bắt chước, để bị nghi là đạo văn.
Chính những
câu văn như vậy, có thể đã là lý do khiến Ngài Roland Barthes phán, hỡi
mấy ông
mấy bà tác giả huề vốn kia ơi, hãy chết hết đi cho rồi, để cho cái tên
độc giả
xuất hiện!
Về PCT :
Và rồi mặt trời
hôm ấy đã rớt trên hồ nước sóng sánh hơi thu trước mặt anh và tôi ở
Newport
Beach. A, Le soleil cou coupé.* Anh nói, nhớ lại một câu thơ loang máu
hiện đại
của Apollinaire. Một câu thơ tàn bạo trong hình ảnh và ấn tượng, và
xuất sắc
trong diễn tả tâm trạng. Còn tôi thì nói, đó là một thứ "L’Isolé
Soleil" ** của Daniel Maximin mang đầy âm điệu jazz ngẫu hứng. Cái tên
tiểu
thuyết này, "L’Isolé Soleil" cũng tạo một hiệu ứng âm học thật đặc
biệt:
những âm [l] chòng chành, lung linh sóng sánh, bọc lấy những âm [z]
(trong
"L’Isolé" ) và [s] (trong "Soleil" ). Nó tạo nên một ấn tượng
rung, một hình ảnh nhảy múa sóng sánh của mặt trời. Cuốn sách chứa đựng
bi kịch,
huyền thoại, lịch sử, chính trị, v.v… của các đảo xứ vùng West Indies.
Nhưng,
trên hết, đó là âm nhạc. Mặt trời kia, nó đang sóng sánh trên dòng nước
đỏ. Đó
chính là một sự điên dại dịu dàng. Và chúng ta cùng cười phá lên vì
những liên
tưởng đầy chất man dại của mình.
Mây vẫn đang
bay ngỗ ngược trên trời. Và chim, quá nhiều chim, cũng còn bay xao xác
trong mầu
chiều hồng thẫm.
BVP
Ðọc, đã con
ráy, điếc con tai, mặt trời phê quá, chặt cụt luôn cái cổ của nó, và
cùng những
đám mây ngỗ ngược rớt xuống trên mặt hồ sóng sánh hơi thu… ơ mà không phải, vưỡn còn ông mặt trời riêng lẻ
kia kìa!
*
Gấu này đâu
có gì hận thù với Thầy Phúc, và luôn cả Thầy Cuốc, độc giả TV cũng nhận
ra điều
này, [viết bằng cái giọng tưng tửng, mắc cười, có 1 vị còn viết mail,
cho biết, đọc,
không làm sao không bật cười!]
Thù hận chi
đâu.
Nhưng phải
viết ra, may còn kịp!
Không phải cho Gấu, tất nhiên!
Ngược hẳn lại,
là cái giọng thật thâm thù, thật vô học, của những kẻ thù của Gấu, nào
"có
mấy NQT”, “cho xin tí xái”, “mấy lời”,
“nằm gầm giường hay sao mà biết”, “thằng già bướng bỉnh, tên gấu chó… “
Lại
làm một màn somnambule ballad mà anh từng thách tôi dịch ra
tiếng Việt
theo thể điệu của Federico García Lorca.
BVP
Một
màn thì làm sao dịch ra tiếng Việt được, mà phải là từ “somnambule
ballad”.
Và,
nếu là cái từ này, thì làm sao dịch ra tiếng Việt theo thể điệu Lorca?
PCT ra đi
Mémoirs
|
|