|
@
Subway, Toronto,
30.6.2010
Trên
đường xe điện ngầm về nhà, đọc loáng thoáng bài
điểm cuốn sách mới ra lò của Christopher Hitchens, [người đã từng hô
hào đưa
Kissinger ra tòa về tội ác chống lại nhân loại, xem bài Ngài
Henry thân mến], cuốn HITCH-22:
A MEMOIR, trên tờ London Review, 24 June, 2010; ông cho
biết, đã
từng mất trinh vì một cô gái coi ông như là thần tượng, lần cô này mời
ông về
phòng của cô, và thấy trên tường, trên bàn, xó xỉnh nào cũng có hình
của ông,
do cô gái lén chụp khi tò tò theo dõi ông từ phía xa… và kể từ đó, ông
không
làm sao làm điều gì xấu với các thiếu nữ…
Ui chao, sao giống GNV thế cơ chứ!
Cái mối tình mở đầu cho mọi mối tình của Gấu, là với một cô gái cùng
làng, đáng
tuổi chị Gấu, và như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần rồi, hồi còn nhỏ,
tuy có bà
chị, nhưng Gấu vẫn rắp tâm tìm cho mình một bà chị ‘hơn cả bà chị
ruột’, để
thay thế cho bà mẹ của Gấu, góa chồng quá trẻ, và theo lời trù eỏ của
bà nội
của Gấu, con mẹ mày thể nào cũng bỏ chúng mày!
Một bà chị như thế, sẽ thương Gấu như mẹ, như chị của Gấu, nhưng còn
‘hơn thế
nữa’, như người yêu, như người vợ, nếu nhờ trời, nhờ duyên số mà nên!
Tất cả
những mối tình của Gấu, sở dĩ thánh thiện, ấy
là vì bị ảnh hưởng của mối tình đầu quá thánh thiện!
Kissinger: Kiến trúc sư dởm.
Kissinger
đã có lần an ủi ông thầy đau khổ của mình, là tổng thống bị hạ bệ
Nixon: Lịch sử sẽ nhẹ tay hơn, đối với mi, so với mấy người cùng thời
của mi.
Gậy ông đập lưng ông: Lịch sử xem ra quá nặng tay, đối với Kissinger:
Ông trở
thành một nhân vật phản diện, anti-heros, trong tất cả những gì được
viết ra,
liên quan tới ông, chưa kể nỗ lực của Christopher Hitchens, trong một
chiến
dịch nhằm đưa ông ra tòa án quốc tế, như là một tên tội phạm chiến
tranh.
Trên tờ TLS số đề ngày 15 Tháng Bẩy, có bài điểm cuốn tiểu sử
Kissinger, mới ra
lò, và nhân đó, bàn cuộc chiến Việt Nam.
Tin Văn sẽ giới thiệu trong những kỳ tới.
NKTV
5
năm TTT ra đi
Kỷ niệm với nhà thơ
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Tue, June 29, 2010 4:57:00 AM
Kính Tiên sinh
From:
To:
Tôi cung xưng anh là tiên
sinh không phải vì anh lớn tuổi hơn tôi nhưng vì anh "vào nghề" lâu
năm hơn tôi rất nhiều. Tất nhiên là mỗi người ngay từ hồi nhỏ đã lờ mờ
ý thức
rằng mình sẽ cầm bút một ngày nào đó; tôi cũng vậy. Nhưng phải chờ tới
khi hoàn
cảnh thúc đẩy tôi mới chịu viết; trước đó, chỉ chuẩn bị và ...đe rằng
có ngày
ta sẽ!
Vài lời gọi là ra mắt tiên
sinh, thế thôi. Hy vọng có thể làm quen.
Kính,
Đặng đình-Túy (tức Ông già
hưu trí)
*
Phúc đáp:
Đa tạ.
Tôi biết tới Blog của bạn, là
qua Blog của Hải Hà. Nhờ vậy, được đọc mấy bài viết của bạn về TTT, và
về những bài thơ viết cho cô
con gái của ông.
TTT chỉ có hai anh em trai. Tôi
quen với ông em, từ hồi còn đi học. Lần ông anh mất, tôi có tới San Jose tái ngộ
ông em.
Qua ông em cho biết, thì ông anh có lần than, giá mà hai anh em mình có
một bà
chị, hay một cô em gái, thì chắc thật là đầy đủ hơn nhiều.
Phu nhân TTT là người Miền Nam,
như bà xã của tôi, cũng người Miền Nam.
Tôi suy ra là những bài thơ
viết cho cô con gái, như được bạn trích dẫn, là viết cho Miền Bắc, Hà
Nội.
Kính
NQT
Thanh Tâm
Tuyền: Thơ ở đâu xa
*
Ba tập thơ tôi
đang giữ trong tay có tựa hǎ̉n hòi (tức là không có chỉ dấu hợp
chung
với các bài thơ khác của cùng tác giả), điều này chứng tỏ
chúng
đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tác giả, một giai đoạn
mà
tác giả đã phải chịu những hệ lụy nặng nề nhưng lại không nhất
thiết
đen tối cǎn cứ theo những gì được viết ra : tập “Thơ ở đâu xa”
của Thanh
Tâm Tuyền, tập “Hoa xương rồng” củạ Trần Minh-Hải và tập “Ác
mộng” của
Hoàng Hưng. Ở Thanh Tâm Tuyền, đối với những kẻ đã quen biết
thơ ông
hǎ̉n sẽ khám phá ra một khuôn mặt khác không giống khuôn mặt
người thơ
trẻ “nǎng nổ” kiêu kỳ phá phách thời “Tôi không còn cô độc” khi
ông còn
là một trong những nhà thơ tiên phong của nhóm Sáng Tạo. Thanh
Tâm Tuyền
trong thơ tù hiền lành như triết gia, tình cảm tự nhiên (vì
tình cảm
của ông hồi xưa lạ lǎ́m, nó mãnh liệt thật nhưng gần như bất
thường –hay
nói khác đi, vì mãnh liệt nên bất thường !) trầm tĩnh, lǎ́ng
đọng. Tôi
đặc biệt xúc động khi đọc những bài thơ ông viết cho con gái, cô
Th -viết
tǎ́t tên người, trịnh trọng như viết thư tình lần đầu cho người
yêu- nhân
ngày sinh nhật của cô (tôi ao ước viết được như vậy cho con gái
tôi). Nếu
không có những ghi chú ngày tháng cùng nơi chốn, nhiều bài thơ
của
ông đọc lên nghe như thơ Đường, nếu không thể là Đường của
Lý Bạch
được thì cũng Đường Vương Xương-Linh , mà nếu có giọng xã hội
một chút
thì là Đường của Đỗ Phủ , Đỗ Mục. Thí dụ bài Thức sớm
có
khác chi với một bài đường thi hay ít ra là một bài đường thi
được
phỏng dịch ? Kẻ ở ngoài song sǎ́t chưa chǎ́c có được những
ý tưởng
trong lành như vậy. Hóa ra tâm tình chàng T3 thời Sáng Tạo còn
khúc
mǎ́c hục hặc với đời hơn là khi nǎ̀m trong trại tù Long Giao !
Nguồn
Note:
Mấy nhận xét của tay
này, về thơ tù TTT thật giống.... Gấu. Gấu cũng đã từng viết ra những
điều
trên, và đã từng scan, đoạn TTT viết về cô con gái, và dẫn thơ Beckett,
nhưng theo
Gấu, cô con gái ở đây, tượng trưng cho.. Hà Nội, được mô tả trong Liên
Đêm, thí
dụ những dòng, “Nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang”.
Có thể
đã từng có cảnh này,
có một người yêu như vậy, nhưng khi mất nó, tất cả nhập vào Hà Nội.
đâu phải một thứ mưa ô
buy vào thành phố
năm cửa ô hồi sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng cùng rủ nhau xuống Sinh Từ ngõ Hội Vũ
bao nhiêu đường tình tự ga Hàng Cỏ
nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang.
Liên
Volkov, trong khi trò
chuyện với nhà thơ Brodsky, đã nhắc tới một tiểu luận về Stravinsky,
của Auden,
qua đó, nhà thơ Anh này cho rằng, chính cái gọi là sự tiến hóa
[evolution],
phân biệt nghệ sĩ lớn với thứ nhỏ con. Nhìn hai bài thơ của ông nhỏ
con, không
làm sao biết bài nào làm trước.
Theo nghĩa đó, một khi đạt được một tí thành tựu nào đó, nhà thơ bé bèn
ngưng lại,
không chịu lớn thêm nữa. Anh ta hết chuyện nói [He has no more
history]. Trong khi,
nghệ sĩ lớn, chẳng bao giờ bằng lòng với thành tựu, cứ muốn lớn thêm tí
nữa, tí
nữa.
Và Auden phán: Chỉ nhìn vào những tác phẩm sau cùng của một đại nghệ
sĩ, chúng
ta mới có thể đánh giá những tác phẩm đầu tay của người đó.
Theo Gấu, phải lấy câu trên, làm chuẩn, khi đọc Thơ Ở Đâu Xa.
Bởi vì có hơn một người cho rằng Thơ Ở Đâu Xa thua nhiều, so với Liên
Đêm Mặt
Trời Tìm Thấy. "Liên Đêm... " mới là đỉnh cao của thơ tự do, của
Thanh Tâm Tuyền.
*
Và Brodsky, bèn la lớn, Trời hỡi Trời! Lẽ dĩ nhiên! Đúng ngay boong!
[It's
absolutely true!]. Bạn biết không, người Nhật quan niệm như thế đấy. Họ
có một
cái nhìn thật là khoẻ mạnh, đối với những nghệ phẩm, theo tiến trình
sáng tạo,
creative evolution. Khi một ông nghệ sĩ chín muồi, đạt được tiếng tăm,
trong một
văn phong nào đó, là ông ta bèn đổi văn phong khác, và cùng với nó, là
cái tên
của ông ta. Hokusai, theo tôi biết, có cỡ chừng không dưới ba chục thời
kỳ.
Nhìn theo cách đó, có thể nói, có tới hai đỉnh cao của thơ Thanh Tâm
Tuyền. Một,
với thơ tự do, Đêm Liên. Và một, với thơ tù, Thơ Ở Đâu Xa.
Về sự tuyệt vời của Thơ Ở Đâu Xa, của "đề tài" thơ tù.
Brodsky cho rằng, thơ tù của Nga, nhức nhối nhất, the most stunning, là
từ ngòi
viết của Zabolosky. "Somewhere in the field, down Magadan way... ".
Có một dòng, mà nó làm cho bạn, dù có tưởng tượng tới cỡ nào thì cũng
không thể
làm bật ra được, khi muốn mầy mò vào cõi thơ tù [in connection with
this
topic].
Đó
là một câu rất ư là giản dị sau đây:
"So they went
walking in their peacoats - two old men,
unlucky Russians".
Ôi chao, đọc câu trên, rồi nhớ lại những dòng thơ tù của một nhà thơ,
gốc Bắc Kỳ,
bị đầy trở về quê cũ, vào một buổi chiều cuối năm, cùng bạn tù, vác bó
cuốc nặng,
đi qua một thôn nghèo, tránh sao cũng không khỏi lũ trẻ lem luốc, co ro
đứng coi
tù qua thôn, cảm khái cho chúng, cho cái thôn nghèo của chúng, cho một
buổi chiều
cuối năm xa gia đình, xa vợ con, ở mãi tít Miền Nam, nhưng cái lạnh lẽo
không
đèn lửa của nhà ai kia làm át nỗi nhớ nhà, làm ảm đạm lòng ta.
Chiều
cuối năm qua xóm nghèo
Mưa bay lất phất gió
căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng coi tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng
bước loạng choạng
Về trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
78
Ảm
đạm lòng ta chiều cuối năm!
Đây có lẽ là dòng thơ tuyệt vời nhất của thơ tù, của mãi mãi, về sau
này.
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt
hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
Tôi muốn tình tôi....
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình Gấu
chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu
Samuel
Beckett, một thoáng
nhớ...
Beckett
Beckett 2
Fri, 24 Mar 2006 01:14:44 -0800
(PST)
[…]
xin chia buồn với anh về sự ra đi của ông Thanh Tâm Tuyền, một người
dường như
đã mang một phần đời của anh.
Hay, anh mang một phần đời
của ông ấy?
Một
độc giả
Đúng thế. Gấu có Gấu Cái, Nam
Kit, ngoài ra còn có BHD, Bắc Kít, Hà
Nội sống mãi qua BHD!
TTT
viết cho con gái, mà như viết cho Hà Nội, là vậy
Th: Cô
con gái
của TTT, cùng tên Mít với Jennifer Tran
*
Buộc
vào quê hương phải là
những người ruột thịt, máu mủ, câu văn đóng lại Bếp Lửa là cũng theo
nghĩa đó.
Nhưng phải là Benjamin thì mới đẩy cái ý trên đến cực điểm, khi nhận ra
buổi
sáng hôm đó, Samsa thức giấc thấy mình biến thành một con bọ, ở trong
căn phòng
của mình, trong nhà của mình.
Nên nhớ Samsa là một anh chàng ‘bán hàng dạo’, đi lang thang khắp thế
giới như
một tên Do Thái, bị án giết Chúa!
Nhân vật chính trong Người đàn bà
ngoại tình, của Camus, cũng là một kẻ làm công cho
chủ,
chuyên đi bán hàng dạo.
Nhưng,
bằng cách nào Benjamin
nhận ra điều trên?
Có thể coi những dòng sau đây, của Coeztee, như là một gợi ý:
"Trưởng
giả" là
một từ nguyền rủa đối với ông, và nó có nghĩa là chạy theo vật chất,
thờ ơ, ích
kỷ, giả hình, và trên tất cả, hoàn toàn tự mãn về mình – và ông tỏ ra
rất thù
nghịch, do bản năng. Tự coi mình là Cộng Sản là một hành động chọn bên,
vừa về
mặt đạo đức vừa về mặt lịch sử, nhằm chống lại giai cấp trưởng giả và
luôn cả
dòng dõi trưởng giả của chính ông. "Một
điều không thể khá được, đó là quên không chạy trốn cha mẹ", ông viết
như
vậy trong "Đường Một Chiều", một tuyển tập những mẩu nhật ký, những
nghi thức của cõi mơ, những châm ngôn, những tiểu luận bỏ túi
(mini-essays), và
những nhận xét chì chiết về nước Đức thời cộng hoà Weimar. Với cuốn
sách đó,
ông tự tuyên bố về mình, vào năm 1928: một trí thức tự do (freelance
intellectual). Do chạy trốn cha mẹ không sớm sủa cho lắm, ông bị
kết án phải
chạy xa [cha mẹ là] Emil và Paula Benjamin trong suốt quãng đời còn
lại: trong
khi phản ứng ngược lại ý muốn của cha mẹ muốn hội nhập vào giai cấp
trung lưu
Đức, ông giống nhiều người Do thái nói tiếng Đức cùng thế hệ, kể luôn
cả Kafka.
Điều gây bối rối, ở nơi bè bạn của ông, về chủ nghĩa Marx của ông: hình
như có
một điều gì gượng gạo, một điều chi giống như là thù đáp (reactive).
Cũng
theo nghĩa đó, có thể,
TTT coi ông và những tên Bắc Kít di cư là những đứa con ‘tư sinh’ của
một miền đất!
Tuổi
thiên tài
Kỷ niệm, kỷ
niệm
ZEPPELIN
Herta Muller
TRANSLATED
BY PHILIP BOEHM
Behind
the factory is a place
with no coke ovens, no extractor fans, no steaming pipes, where the
tracks come
to an end, where all we can see from the mouth of the coal silo is a
heap of
rubble overgrown with flowering weeds, a pitiful bare patch of earth at
the
edge of the wilderness, criss-crossed by well-trodden paths. There, out
of
sight to all but the white cloud drifting far across the steppe from
the
cooling tower, is a gigantic rusted pipe, a discarded seamless steel
tube from
before the war. The pipe is seven or eight metres long and two metres
high and
has been welded together at the end closest to the silo. The end that
faces the
wilderness is open. A mighty pipe, no one knows how it wound up here.
But
everyone knows what purpose it has served since we arrived in the camp.
It's
called the Zeppelin.
This Zeppelin may not float
high and silver in the sky, but it does set your mind adrift. It's a
by-the-hour hotel tolerated by the camp administration and the bosses,
the nachalniks - a trysting place where the
women from our camp meet with German POWs who are clearing the rubble
in the
wasteland or in the bombed-out factories. Wildcat weddings was how
Anton Kovacs
put it: open your eyes sometime when you're shovelling coal, he told me.
As late as the summer of Stalingrad,
that last summer on the veranda at home, a
love-thirsty female voice had spoken from the radio, her accent
straight from
the Reich: Every German woman should give the Fuhrer a child. My aunt
Fini
asked my mother: How are we to do that? Is the Fuhrer planning to come
here to
Siebenburgen every night, or are we supposed to line up one by one and
visit
him in the Reich?
We were eating jugged hare;
my mother licked the sauce off a bay leaf, pulling the leaf slowly
through her
mouth. And when she had licked it clean, she stuck it in her
buttonhole. I
thought they were only pretending to make fun of him. The twinkle in
their eyes
suggested they'd be more than a little happy to oblige. My father
noticed as
well: he wrinkled his forehead and forgot to chew for a while. And my
grandmother said: I thought you didn't like men with moustaches. Send
the
Fuhrer a telegram that he better shave first.
Since the silo yard was
vacant after work and the sun still glaring high above the grass, I
went down
the path to the Zeppelin and looked inside. The front of the pipe was
shadowy,
the middle was very dim and the back was pitch dark. The next day I
opened my
eyes while I was shovelling coal. Late in the afternoon I saw three or
four men
coming through the weeds. They wore quilted work jackets like ours,
except
theirs had stripes. Just outside the Zeppelin they sat down in the
grass up to
their necks. Soon a torn pillowcase appeared on a stick outside the
pipe - a
sign for occupied. A while later the little flag was gone. Then it
quickly
reappeared and disappeared once more. As soon as the first men had
gone, the
next three or four came and sat down in the grass.
I also saw how the women work
brigades covered for each other.
While three or four wandered
off into the weeds, the others engaged the nachalnik in
conversation. When he asked about the ones that had
stepped away they
explained it was because of stomach cramps and diarrhoea. That was
true, too,
at least for some - but of course he couldn't tell for how many. The nachalnik chewed on his lip and listened
for a while, but then kept turning his head more and more frequently in
the
direction of the Zeppelin. At that point I saw how the women had to
switch
tactics; they whispered to our singer, Loni Mich,
who began singing loud
enough to shatter glass - drowning out all the noise made by our
shovelling:
Evening silence on the vale
Except
a lonely nightingale
- and suddenly all the ones
who had disappeared were back. They crowded in among us and
shovelled away as if nothing had happened.
I liked the name Zeppelin: it
resonated with the silvery forgetting of our misery, with the quick,
catlike
coupling ... I realized that these unknown German men had everything
our men
were lacking. They had been sent by the Fuhrer into the world as
warriors, and
they were also the right age, neither childishly young nor overripe
like our
men were. Of course they, too, were miserable and degraded, but they
had seen
battle, had fought in the war. For our women they were heroes, a notch
above
the forced laborers, and offered more than evening love in a barrack
bed behind
a blanket. The evening love remained indispensable. But for our women
it
smelled of their own hardship, the same coal and the same longing for
home. And
it always led to the same give and take. The man provided the food; the
woman
cleaned and consoled. Love in the Zeppelin was free of every worry
except for
the hoisting and lowering of the little white flag.
Anton Kovacs was convinced I
would disapprove of the women going to the Zeppelin. No one could have
guessed
that I understood them all too well, that I knew all about arousal in
pulled-down pants, about stray desires and gasping delight in the alder
park
and the Neptune baths. No one could
imagine
that I was reliving my own trysts, more and more often: Swallow, Fir,
Ear,
Thread, Oriole, Cap, Hare, Cat, Seagull. Then Pearl. No one had any
idea I was
carrying so many cover names in my head, and so much silence on my back.
Even inside the Zeppelin,
love had its seasons. The wildcat weddings came to end in our second
year,
first because of the winter and later because of the hunger. When the
hunger
angel was running rampant during the skin-and-bones time, when male and
female
could not be distinguished from each other, coal was still unloaded at
the
silo. But the path in the weeds was overgrown. Purple-tufted vetch
clambered
among the white yarrow and the red orache, the blue burdocks bloomed
and the
thistles as well. The Zeppelin slept and belonged to the rust, just
like the
coal belonged to the camp, the grass belonged to the steppe and we
belonged to
hunger. _
GRANTA,
Spring, 2010
Sex
Note:
Tờ Granta, số mới nhất,
sex, có truyện ngắn trên.
Làm Gấu nhớ một truyện ngắn
của Thảo Trường, viết về cuộc tình qua hàng rào giây kẽm gai, ở trong
tù, giữa
một nữ và nam tù nhân. Làm nhớ Nhà Hội của Amis.
Và nhất
là, làm nhớ
cú "sex" ở trại tù Đỗ Hòa!
Nhưng
cái xen, hàng đêm Đức Quốc
Trưởng phải hì hục tiếp các cháu gái ngoan, đứng xếp hàng chờ tới lượt,
mới
thú!
Nó làm nhớ đến mệnh lệnh của Bắc Bộ Phủ, gởi tới đám tập kết, năm 1954,
mỗi anh
phải làm một em Miền Nam
mang bầu, trước khi ra Hà Lội trình diện Bác!
Nhớ
nhắc Bác cạo râu đấy nhé:
Send
the
Fuhrer a telegram that he better shave first.
*
Ở VN, hồi nhỏ đi tàu nhiều
nhất là HàNội-HảiPhòng, nhưng ấn tượng nhất là ga Cẩm Giàng. Mới năm
kia cùng
TQ đi qua ga xép đúng ngày giải phóng thị xã, cờ đỏ chăng treo khắp
nơi, y như
câu thơ của Trần Dần.
Blog NL
Nhân
tiện, GNV cũng xin đi ké
tàu, và đi một đường về tàu.
GNV có nhiều kỷ niệm về tàu
hoả, trong số đó, có 1 liên quan đến tuyến đường HN-HP, trên.
Thời kỳ 1954, Hà nội đã được VC
từ rừng về tiếp quản, Hải Phòng có 300 ngày ân huệ. Gấu ở lại Hà Nội
tiếp tục đi
học, nhưng thèm coi phim của tụi tư bản quá, cứ lén xuống HP hoài, coi
phim
xong là về lại Hà Nội, sau cùng là chuồn hẳn.
Những lần đi tầu hoả như thế,
chứng kiến cảnh nhân dân ta kéo ra đường tầu, nằm trên đường ray, ngăn
chặn tầu
không cho chạy, khóc như ri, kêu gọi chồng con đừng bỏ Bác, Đảng, đất
Bắc, vào Nam
theo giặc làm
Việt gian!
Càng những ngày về sau sắp sửa hết ân huệ, dân Bắc
bỏ chạy càng nhiều.
Một lần Gấu nhìn thấy một gia
đình thoát được lên tầu, nét mặt mừng rỡ như tái sinh, người đàn ông
chủ gia đình
tháo đôi giầy ra, cậy đế giầy, lôi ra mớ tiền bạc, giấy tờ, đưa lên
miệng hôn,
nước mắt chảy ròng ròng. Sau Gấu đọc một nhà văn nữ, Mẽo gốc Hàn, cũng
tả cảnh
y chang! (1)
Vào Nam,
vẫn được hưởng
thú đi xe lửa, Bắc gõi tàu hoả, khi còn đi học. Lần được đi xe lửa ra
Nha Trang cùng
với bạn C.
nhờ vậy viết được Những con dã tràng, Gấu đã kể nhiều lần rồi.
Rồi thời gian bạn Cẩn làm thư
ký ga Long Khánh còn hưởng thêm cái thú phụ bạn làm ông ký ga!
Nhưng khủng nhất, phải là câu
hát, ‘xe lăn trong tim khuất xa dần biết đâu tìm’, trong bài ‘Chuyến
tàu hoàng
hôn’, nghe tại trại tù Đỗ Hòa!
GNV cũng kể đại khái rồi,
nhưng chưa đi hết một đường hoài niệm, xin khất lại kỳ tới!
Nhưng viết về tàu hoả, làm
sao bỏ qua “Một câu chuyện trên tần thuỷ” của
Thế Lữ?
Cũng tàu!
(1)
Viết tới đây, tình cờ giở qua
số báo Điểm Sách Nữu Ước vừa mới nhận được, tôi thấy có bài viết của nữ
văn sĩ
Mỹ gốc Đại Hàn, Suki Kim, viết về chuyến trở về của bà, vào ngày 16
tháng Hai,
năm 2002:"... thật là một tình trạng kỳ cục, đối với một người viết
tiểu
thuyết, đến từ East Village thuộc Nữu Ước, một kẻ chẳng phải nhà hoạt
động nhân
quyền, hay diễn viên. Tôi sinh ra là Đại Hàn, và sau đó, là người Mỹ di
dân từ
khi mười ba tuổi. Cái phần Mẽo ở trong tôi chối đây đẩy xứ sở này, chốn
đèo heo
hút gió, đứa con hoang của chiến tranh lạnh. Nhưng tôi thường xuyên bị
ám ảnh,
bởi cơn đói của nó, trên màn hình TV vào mỗi buổi chiều. Khi bạn bè hỏi
tôi,
liệu có khi nào, hai phần Đại Hàn sẽ hợp làm một, tôi không biết làm
sao trả
lời. Tôi biết nhiều như họ, và cũng ít như họ. Nhưng có một điều làm
tôi lẻ loi
ra, giữa đám bè bạn của mình, đó là, tôi chắc chắn một điều, cho dù
miền đèo
heo hút gió đó - tôi muốn nói Bắc Hàn - tà ma ác quỉ tới mức nào, tôi
chẳng thể
thù ghét nó." ("... I am certain, no matter how evil North Korea
is
supposed to be, that I could never hate it". Suki Kim: A Visit to North Korea,
NYRB, số đề ngày 13 tháng Hai, 2003)
Nguồn
*
Sunday, January 11,
2009
11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau
mấy năm rồi, cũng vẫn câu
hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa chăm cháu ngoại, vừa nói
chuyện với
bạn bè được, hay quá. K thì chỉ đọc (internet) và xem là nhiều. Vừa
xem lại
"The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay
nhất, dù không vĩ đại. Chỉ có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi
chưa coi phim đó.
Tks.
Chỉ
có tình là vĩ đại thôi.
Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN
tôi có đọc một cuốn sách dịch chuyện
tình Tầu. Chuyện nào cũng hay. Có một
chuyện, về một anh học trò nhà quê, lên thành đô học, mê một em trong
xóm, chuộc
em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một anh lái
buôn. Anh này
thấy cô vợ đẹp quá bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp,
phải bán
vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác, bèn mở mấy cái rương bạn bè trong
xóm tặng
ra, hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ thả xuống sông, rồi
thả mình
theo.
Có
một lời bàn, đẹp thế, sao
ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà theo!
Chuyện
hơi giống chuyện nàng
Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục. Nhưng chuyện TK
có hậu hơn, anh
chồng hối
hận, lo nuôi con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng,
tất nhiên,
khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện
tình Mít
kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc
sản
Miền Nam”,
là Một Mối
Tình
Truyện ngắn mới nhất, Có con
thuyền đã buông bờ [Lâu
rồi mới viết chuyện tình] mà
chẳng hay ư?
Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong
chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi,
và mối
tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ
bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối
Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận, nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa
con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết
như thế, thì Gấu này phải chịu là Nữ Sư Phụ!
Đặc
sản Miền Bắc
thì có em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi
tẹt,
mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay….
Hay em trong Trăng Goá, do
sặc sụa
mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam
chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ
Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
"Chẳng
còn đêm nào như đêm nay
đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự
nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó
trong
cuộc chiến này".
Gấu
đọc War
Sadness
Trong Nỗi Buồn cũng có cảnh
ga Thanh Hóa ăn bom Mẽo, và trong lúc khói lửa tơi bời, em Phương bị bộ
đội Cụ Hồ làm thịt
*
Note:
To K,
Coi The Road Home, rồi. Moi
ra từ cái kho phim thời tiền sử mà Gấu đã nói tới.
Sẽ đi một đường về phim tuyệt cú mèo này, hy vọng như vậy.
Phim có
cảnh tàu hoả thì có From
Russia With Love. Cái xen Bond bị KGB đưa vô bẫy, và làm thịt hụt ở
trong truyện,
khác. Trong Casino Royale, truyện, có xen Bond vận nội công, đánh vào
chiếc ghế đang
ngồi đánh bạc, làm nát bấy, lộ ra cây gậy trong có khẩu súng đang gí vô
lưng, bắt
phải thua canh bạc, y chang chưởng Kim Dung.
Hãy yêu
người bằng một thứ
tình yêu cũ xì, cằn cỗi vì thương hại, cáu kỉnh và cô đơn.
"Aimer les hommes d'un vieil amour usé par la pitié, la colère, et la
solitude".
C. Milosz: Hành Trình qua Tây Phương.
Tuyệt cú!
Tưởng
niệm Hoàng Cầm
Tribute to
Koestler
As for
Darkness at Noon, it
was not just a popular book, it was one of the primary reasons that the
Communist Party never came to power in France , a real possibility
at the
time. Hard though it is for us now to imagine, it was not at all
obvious, in
1946 or even 1956, that Western Europe and the United States
would remain solidly
united for fifty years. Nor did it seem at all inevitable that the West
would
win the cold war. Along with Orwell’s Animal Farm and Victor
Kravchenko’s I
Chose Freedom, Darkness at Noon was one of the books that helped turn
the tide
on the intellectual front line, and ensured that the West prevailed.
Applebaum: Yesterday's Man?
Về cuốn Đêm giữa Ngọ, nó
không phải chỉ là một cuốn
sách phổ thông, mà là một trong những lý do hàng đầu cho thấy Đảng CS
chẳng
bao giờ lên cầm quyền ở Pháp. Đến bây giờ, chúng ta còn khó mà tưởng
tượng ra được
- nói gì vào năm 1946, và ngay cả vào năm 1956 - Tây Âu và Hoa Kỳ sẽ
chen vai sát
cánh, ‘một lòng một dạ bên nhau’, trong suốt 50 năm.
Ngay cả ông Trời thì cũng
không tin được chuyện Tây Phương sẽ thắng trận chiến tranh lạnh!
Cùng với Trại Loài Vật của Orwell, và Tôi Chọn Tự
Do của Victor Kravchenko, Đêm giữa Ngọ là một trong
những cuốn
sách làm con nước đổi chiều trong giới trí thức tiền phương, và bảo đảm
ra một điều,
rằng Tây Phương sẽ lấn lướt, vượt lên chủ nghĩa CS.
Vụ Án
Cái
thứ thơ Huế buồn chi, may, là nó không hay, chứ
nếu nó hay thì thật là bỏ mẹ.
Nó sẽ chứng tỏ một điều thật là khốn nạn, Mậu Thân kệ cha Mậu Thân, Huệ
vẫn cứ
buồn chi, vẫn cứ chỉ buồn.
Notes.
Đây là vấn
nạn TTT đụng phải, và ông không làm sao giải ra được, và đành im lặng,
không làm thơ nữa, khiến nhà phê bình lớn hoạnh họe:
TTT khi ra tù,
cũng bầy đặt làm thơ gửi ra hải ngoại, ký tên là Trần Kha, vậy mà khi
ra được
ngoài này, tại sao không làm thơ nữa, để cho ông ta đọc vài bài chơi!
(1) Après ma libération,
sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me
replier
et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention. Je suis un
survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant
souhaité
depuis toujours. J'ai écrit dans
ma mémoire au camp : « II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne
s'était
passe, comme si rien n'était modifié. »
Et maintenant je
me dis : « Quand serai-je capable d'une telle chose ? » Pour re-écrire.
Khi ra khỏi trại
tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những
bài thơ
lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống
sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu
vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như
chẳng
có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự
hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Lại viết?
Thơ giữa chiến
tranh và trại tù
Ngay từ
lúc vừa trình diện làng
văn, tập tành viết phê bình, điểm sách, Gấu đã đụng vấn nạn trên, khi
đọc Mây
Bay Đi, tập truyện ngắn của Nguyên Sa, và Gấu đã nhận ra, ông là một
nhà văn dễ
dãi và hạnh phúc.
Một cách nào đó, GNV đã dính
cú đánh của cái rìu phá băng của Kafka, khi ông chưa ra đòn, nghĩa là,
khi chưa
đọc những dòng sau đây, (1) mà chỉ đọc được cái định nghĩa của ông về
nhà văn,
một thứ dê tế thần bouc-émissaire. NS nhận cú đánh, đến già cũng không
làm sao
quên được là vậy.
Kafka,
trong một
bức thư gửi cho bạn, viết:
“Nhà văn là một
bouc-émissaire của nhân loại. Nhờ hắn mà nhân loại có thể vui hưởng tội
lỗi một
cách ngây thơ vô tội”. Chính niềm hoan lạc ngây thơ vô tội này là sự
đọc. Sự
viết mang trong nó mầm bất hạnh, nhưng sự đọc lại là hân hoan, lại là
ân sủng.
Một nhân xấu cho một quả tốt. Viết là một sự vật ai oán (chose
nocturne), là
cái ngậm đắng, nuốt cay, là cái nghiệp, là cái sầu thảm. Nhưng đọc lại
là ân
huệ, là an hưởng tội lỗi một cách không tội lỗi, (một cách thơ ngây vô
tội).
Viết là một tác động xấu (activité mauvaise) nhưng đọc lại là cái bất
động, cái
tiêu cực sung sướng. Cái hữu của sự viết là bất hạnh trong khi bản tính
của sự
đọc lại là hạnh phúc, mặc khải…
Nguyễn Du giữa chúng
ta
(1) Kafka viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904:
"Tôi nghĩ
chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn
sách mà
chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó
giáng
một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh
phúc? Cám
ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn
sách làm
chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần,
chúng
đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái
chết của
một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm
chúng ta
cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con
người,
giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng
băng ở bên
trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A
History of
Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
*
Jean Améry phải bặt tiếng
trong 20 năm.
Trong
lời tựa cuốn Vượt quá tội ác và hình phạt,
ông viết: Thật sai lầm khi cho rằng trong thời gian câm lặng dài như
thế, tôi
vờ đi, hay quằn quại, refoulé, với cái số phận của mình, và của người
Đức, ròng
rã trong 12 năm. Hai thập niên câm lặng đó, tôi sử dụng vào việc truy
tìm thời
gian bất khả mất, à la recherche du temps impossible à perdre, nhưng
thật khó
nói ra đối với tôi, mais il m’avait été difficle d’en parler.
Đọc văn, thơ, phê bình hải ngoại, điều đập vào mắt chúng ta, là, nó quá
nghèo
nàn cái phần hội nhập với văn học thế giới.
Huế buồn chi thì chỉ có Huế buồn chi mà thôi.
Do không đau, không đọc, để mà đồng cảm với thế giới, cho nên đành vờ
đi số phận
Huế của mình, và của những người dân Huệ khác
Cả một cuốn viết về Thơ của NHQ không hề nhắc tới một nhà thơ mũi lõ
nào. Ông
ta hình như cũng chưa từng viết về, giới thiệu, hay dịch thơ nước ngoài?
Chính là từ những nguyên nhân như trên, mà những ông Mít nhà văn nhà
thơ, đa số
đều rất ư là kênh kiệu, kiêu ngạo… khi nói về họ: Mấy lời, đã đành
với cách
viết hờ hững…
Họ đều không học được bài học của Brodsky: Lưu vong dậy chúng ta bài
học khiêm
tốn.
Gấu đọc thơ văn Mít, không làm sao thấy thế giới, trong khi đọc thế
giới, thì
lại thấy Gấu, và qua Gấu, Mít!
Đọc Brodsky, ra Bắc Kít. Đọc Milosz, ra Cái Ác Bắc Kít, đọc Steiner, ra
Lò
Thiêu.
Thí dụ
*
V/v Thiếu 1 ngày lính
Cái này
thì chỉ coi như là một
giai thoại: Gấu nghe một ông bạn nói về NS, khi được hỏi về 30 Tháng
Tư, và lưu vong xứ Mẽo, thi sĩ than, chúng lấy mẹ mất cái nhà và cái
trường to kềnh của
tớ!
Còn cái
chuyện ông bị gọi khi
xẩy ra vụ tổng động viên, ông hốt quá đến bị xì-trét, và sau chạy được
một chân
canh xác chết, nhờ vậy mà sáng tác được cái truyện ngắn, hay truyện dài
‘10 ngày
ở chung sự vụ”.
Bảnh
hơn Gấu, cứ 3 tháng là 1
lần trình diện Trung Tâm Tuyển Mộ Nhập Ngũ, rồi về.
Mục Tin
Văn trên tờ Văn ngày
nào, ký Thư Trung, tức TPG, đáp lễ NS qua loạt bài ‘Một bông hồng cho
văn nghệ’
|
|