|
Thơ mỗi ngày
Ghi chú
trong ngày
Elizabeth Taylor dead:
'Cleopatra' 'Butterfield 8' 'Who's Afraid of Virginia Woolf?' in top 10
films
G nhớ ET, là từ cái phim lần
đầu được coi, tình yêu như trái phá,
đúng như anh Tẩy mũi tẹt phán, thời con nít: Ivanhoe
Ở
Hà Nội.
*
Nhờ mấy bữa PC bị cháy, G này
không làm sao vô net, bèn đi tiệm
sách, mua mấy số báo, trong có hai số ML mới, 1 đặc biệt về Ðạo đức, và
1 về
Céline, sẽ tuần tự lèm bèm sau, và, bèn lôi sách ra đọc, vớ trúng cuốn
Prisms
của Adorno, và khám phá ra, câu phán hách xì xằng của ông, "Làm thơ sau
Auschwitz thì dã man", nằm trong Phê bình văn hóa và xã hội, Cultural
Criticism and Society, ở đoạn kết:
Cultural
criticism finds itself faced with the final stage of the dialectic of
culture
and barbarism. To write poetry after Auschwitz is barbaric. And this
corrodes
even the knowledge of why it has become impossible to write poetry
today.
Absolute reification, which presupposed intellectual progress as one of
its
elements, is now preparing to absorb the mind entirely. Critical
intelligence
cannot be equal to this challenge as long as it confines itself to
self-satisfied contemplation.
Phê bình văn
hóa ngộ ra, nó, chính nó, đối diện với giai đoạn chót của biện chứng về
văn hóa
và man rợ. Làm thơ sau Auschwitz thì dã man. Và điều này bào mòn ngay
cả tri thức
về, tại làm sao bây giờ không thể làm thơ. Vật hoá tuyệt đối, vốn
tiền-giả dụ,
sự tiến bộ trí thức, như là một thành tố của nó, bây giờ sửa soạn nuốt
trọn bộ
não, cái đầu. Trí phê bình không thể nào sánh ngang với sự thách đố
này, chừng
nào mà nó còn chỉ khoái trò tự sướng.
Tờ
NYRB, có bài Simic điểm cuốn mới ra lò của Grass. Sẽ post và dịch sau.
Vì, có
thể sẽ áp dụng 1 cách cù lần & cà chớn
[nhại Bác H, áp dụng thông minh và thiên tài Marxism...] vào
trường hợp TCS/PCT.
Nhà thơ
Simic
viết về trường hợp Grass, im tiếng trong bao nhiêu năm vì ăn nhằm,
hay, dẫm phải kít Nazi, vậy mà vưỡn đóng
vai trí thức
hậu chiến Ðức, lên án Nazi.
Magnus Carlsen, a
twenty-year-old Norwegian, first rose to
number 1 in the global chess rankings last year.
Tân Kỳ Vương
thế giới, 20 tuổi. Trông hình, tưởng một em!
Đinh Cường
TƯỞNG
NIỆM 5
NĂM NGÀY MẤT THANH TÂM TUYỀN
22.3.2006 –
22.3. 2011
Năm ngoái, 2010,
TV đã đi loạt bài tưởng niệm 5 năm ngày mất TTT!
Thơ Dịch của
TTT
Note: Tks.
NQT
I died for
beauty, but was scarce
Adjusted in
the tomb,
When one who
died for truth was lain
In an
adjoining room.
He
questioned softly why I failed?
"For
beauty," I replied.
"And I
for truth, -the two are one;
We brethren
are," he said.
And so, as
kinsmen met a night,
We talked
between the rooms,
Until the
moss had reached our lips,
And covered
up our names.
Tôi
chết vì
cái đẹp, nhưng thật khốn khổ
Tôi chết vì
cái đẹp, nhưng thật khốn khổ
phải
xoay sở
sao cho vừa trong nấm mồ của mình
Khi một kẻ nào
đó chết vì sự thực,
được đặt xuống
phòng kế bên
Anh ta nhẹ
nhàng hỏi, tại sao tôi thất bại?
“Vì cái đẹp”,
tôi trả lời.
“ Còn tôi thì
vì sự thực - cả hai thì là một;
Như vậy hai đứa
mình là anh em, đồng đạo, anh ta nói.
Và như thế đó,
như hai bà con gặp nhau trong một đêm
Hai chúng trò
chuyện giữa hai căn phòng
Cho tới khi
rêu mọc tới môi
Và phủ lấp tên
của chúng tôi
Note: Bài thơ G
tưởng dễ nhá, nhưng, khi đọc 1 trang net cãi nhau búa xua về nó, mới tá
hỏa!
Tuy nhiên, cái từ "chìa
khoá" của bài thơ, là từ "thất bại", fail:
The ending
is subtly prepared for with the question "why I failed?" The crucial
word is "failed," rather than "died." Their deaths and any
hopes of succeeding in their goals are futile. The moss covers their
lips and
their names on the grave marker; death has ended all communication and
effectiveness. With this image Dickinson shows the powerlessness of the
human
condition and the relentless indifference of nature to human beings,
who are
obliterated at death. The speakers are never named; they are anonymous.
Is it
ironic that the only life in the poem is the moss?
| Posted on
2005-12-12 | by Approved Guest
Bài thơ
trên, thiển nghĩ, TTT chọn dịch vì nó có gì tương tự với bài thơ của
Shakespeare, mà ông cũng đã từng dịch, ở đầu cuốn Một Chủ
Nhật Khác.
Cái người nằm
xuống vì cái đẹp là một nữ nhân, còn người “thất bại” vì sự thực
kia, nam nhân.
Không thể
chung phòng được, tuy cùng thất bại như nhau. Họ là bà con, là anh em,
là đồng đạo,
là vậy.
Chúng ta đọc
bài thơ rồi đọc tiếp bài thơ sau đây, ở đầu MCNK, mới đúng là
Song Kiếm Hợp
Bích.
Phượng Hoàng
và Bồ Câu
Cái đẹp,
sự
thật, sự hiếm quí
Ân sủng rất
mực giản dị
Táng tro cốt
nơi đây.
Cõi chết Phượng
Hoàng nương náu
Và ngực Bồ
Câu đoan trinh
Trong thiên
thu an nghỉ.
Không lưu
truyền tông tích
Chẳng bởi tật
nguyền
Vì chưng hôn
phối thanh khiết.
Vẻ thật
không sao thật
Dáng đẹp
phô, hão huyền
Sự thật cùng
cái đẹp đã mai một.
Trước quanh
quách đôi linh điểu
Hằng chân thật
hoặc mỹ miều
Vọng gửi
khúc kinh cầu ngưỡng mộ.
Thanh Tâm
Tuyền dịch
The Phoenix
and the Turtle
Beauty,
truth, and rarity,
Grace in all
simplicity,
Here
enclosed'd in cinders lie
Death is now
the phoenix' nest,
And the
turtle's royal breast
To eternity
cloth rest,
Leaving no
posterity -
"Twas
not their infirmity,
It was
married chastity.
Truth may
seem but cannot be;
Beauty brag,
but 'tis not she;
truth and
beauty buried be.
To this
urn
let those repair
That are
either true or fair;
For those
dead birds sigh a prayer.
William
Shakespeare
Ai Lao - Sông Núi
Chân Tình
Thích Đồng Văn
Người Về
Người về
bóng ngả trên đường phố
Phố đổi màu
theo mỗi bước chân
Mười năm ở lại
cùng muông thú
Mây đã thành
mưa rụng mấy lần
Chén rượu
quan hà chưa uống cạn
Hương nồng
ngây ngất vẫn còn đây
Người ơi!
trăng vẫn tròn trong mộng
Sao chẳng chờ
nhau một kiếp nầy
Người về một
tấm thân hoang phế
Ngơ ngác bên
đường lạc dấu vui
Chiếc áo
phong trần xin gửi lại
Mười năm đi
quên mất tiếng cười
Vẫn tạ ơn đời
khi sống sót
Mười năm máu
chảy đọng thành thơ
Lòng ai muôn
dặm còn thao thức
Có biết rằng
đây vẫn đợi chờ
Người về
thương bóng mây qua núi
Núi đứng
muôn đời nhớ tiếc mây
Cứ tưởng một
lần quay trở lại
Cùng nhau
vui hết cuộc sum vầy
Ngụm khói
lam chiều thôn Việt Bắc
Như màu khói
thuốc thuở quen nhau
Bài thơ xưa
viết mừng em lớn
Vẫn giữ làm
tin chẳng nhạt màu
Người về ngồi
lại thềm soan cũ
Cỏ mọc điêu
tàn trên lối xưa
Xin khóc một
lần cho thảm thiết
Cho sóng triều
dâng mở hội mùa
Ngôi mộ ven
đường ai chết đó
Đi tìm tung
tích của cha anh
Đâu những
oan hồn xưa lạc bước
Về đây nghe
lại khúc quân hành
Người về cúi
nhặt bài thơ cũ
Nhặt trái
tim mình trong khói tro
Mười năm đá
cũng mềm như lệ
Chẳng trách
ai quên một chuyến đò.
Trần Trung Đạo
[Trích: http://www.lebichson.net]
Lời
giới thiệu:
Thú thực Gấu vốn không mê thơ ông này. Nhưng bài này thì... được.
Gấu khoái những
câu:
Người ơi!
trăng vẫn tròn trong mộng
Sao chẳng chờ
nhau một kiếp nầy?
Người về cúi
nhặt bài thơ cũ
Nhặt trái
tim mình trong khói tro
Mười năm đá
cũng mềm như lệ
Chẳng trách
ai quên một chuyến đò.
Nhưng câu
"Về đây nghe lại khúc quân hành", thì quá hỏng!
NKTV
Đọc thử chơi
thi phẩm mới “Một ngày” của nữ sĩ Trần Mộng Tú tôi thấy nό… tuyệt vời
quá! Tuyệt
vời quá… sức tưởng tượng của một kẻ không quá… nghèo tưởng tượng. Nào
là “trời
ong ong sáng… cái sáng mơ màng như câu hỏi bâng quơ…” Nào là “một ngày
ngoài cửa
nghe lạ lắm / tiếng động nghe như tiếng trẻ thơ …” Và “tiếng chim trưa
sao nghe
rất lạ / tiếng ngân rơi vào trong mặt trời hồng…” Rồi bài thơ kết thúc
với “câu
hỏi bâng quơ”: “ai thả vó xuống hồ vớt mặt trời bềnh bồng trên nước /
hứng đời
từng mảng chảy qua tay”
Chắc đây là
cái Xứ Thần Tiên của cô bé Trần Mộng Tú? Bởi lẽ cái Xứ Thần Tiên của cô
bé
Alice nό… kinh khủng nhiều hơn!
Thiển nghĩ:
Một ngày của của đại đa số nhân loại bây giờ, hôm qua, hôm nay, hay hôm
sau hầu
như thảy đều hệt nhau và đều một “màu tro xám xịt”, nên bọn phàm phu
khi thức dậy
là phải lo làm vệ sinh, ăn sáng hay nhịn đόi, rồi tất tả ra đi kiếm
sống, chẳng
cό thì giờ để mà… bâng quơ các chuyện nọ kia vớ vẩn. Thử hỏi: Trên trái
đất nhiễu
nhương này, trái đất như một nấm đất/nấm mồ đang cό những người hy sinh
để cό
được tí tự do, tranh đấu chịu đựng chịu khổ từng phút từng giờ cho con
cái họ
được no cơm ấm áo, và nhứt là sau thiên tai ở nước Nhựt Bổn, thì tìm
đâu ra “những
chiếc xe lại quay xuống dốc / để lại trên đồi một câu thơ…” nhỉ? Nếu
như xe cό
để lại thơ thì… thơ gì? Chắc phải là… thơ Trần Mộng Tú?
Đό là chưa kể
thi nhân đời xưa sáng suốt hơn Trần nữ sĩ vì họ đã “bừng con mắt dậy
thấy mình
tay không”!
Thi sĩ ta vẫn
còn… lãng mạng, vẫn còn… sống trong tháp ngà hay sau
nhỉ?
Thơ thẩn cái
kiểu này… nếu không để cho xe thì để cho ai nhỉ?
NDT/DM
Note:
-Lãng mạn.
Không phải lãng mạng, hay văng mạng! Hay sao, không phải hay sau.
-Ðọc thử, rồi
còn ‘chơi’ nữa, tếu thật.
Cô bé TMT
này chưa ngây thơ bằng thiền sư “tệ lắm” cũng ba vợ, [có thể hơn, vì
theo bài
viết của Thi Vũ, chúng ta thấy hai bà túc trực bên giường, khi chàng
sắp đi.
Bây giờ thấy có thêm 1 bà nữa].
PCT, suốt 71 năm một cuộc đời, “chưa đi hết một đêm hoang vu”, chẳng hề
biết đến
thiên hạ sự là cái chi chi.
Nhưng cũng chính thiền sư đã từng phải hỏi ông Chánh Tổng An Nam, đưa
tao mấy Fờ
Răng về mua sữa cho mấy đứa nhỏ.
Ðọc tâm sự của Bà Ba hay Bà Nhất, trên trang nhà của Bà, thì thấy bà
cũng cô
đơn lắm, làm sao ông chồng không nhận ra?
Thơ TMT, ngây thơ đến như
vậy, nhưng
vẫn lọc ra được nỗi đau của thiên hạ, và của chính ‘cô bé’, theo G.
Vấn nạn
"Trăng Ơi [tại sao] Thơ Ấu Mãi", liên quan tới PCT/TMT, thí dụ, một
cách nào đó, lại mắc mớ tới vấn nạn “Céline”, như ông này đang gây xôn
xao trên
văn đàn thế giới: Tại sao một thằng nhà văn đầy hận thù, và nhất là,
thù Do
Thái đến mức khủng khiếp như thế, mà lại đẻ ra toàn những tác phẩm độc
nhất vô
nhị?
Philippe
Sollers, qua Steiner trích dẫn trong bài viết của ông trên TLS,
số12.2.2010, Le Grand Macabre [đúng ý NDT, nhe, “màu
tro xám xịt” sao bằng “Ma Kiếp, Khùng Ðiên, Ba Trợn..
Lớn”?], ngỡ ngàng tự hỏi: Làm sao chúng ta nắm
bắt được sự kiện, rằng, cái lòng thù hận màu da [da màu, thì cũng rứa]
của
Céline lại không làm mất đi, phủ nhận [negate] thiên tài văn chương của
ông ta?
Với TMT, vấn
nạn, nhẹ thôi, nhưng với PCT, mới căng, vì liên quan đến Thiền, đến
Phật, và lại
một câu hỏi nhức nhối hơn nhiều: Liệu, một khi đạt đến vô ngã, thì đếch
thèm để ý đến Cái Ác Làm Thịt Người, [lý thuyết về vô ngã không nhìn
thấy cái
ác làm thịt người, the “doctrine of no-self sees no evil of killing”]?
Bởi thế Tây
Phương không làm sao hiểu nổi cái cảnh Hòa Thượng TQD nhờ người đổ xăng
lên người
ông, rồi [làm ơn xin tí lửa], bật cây quẹt “xoẹt” 1 cái!
Hòa Thượng
TQD còn phải nhờ người đổ xăng, bật quẹt. Bạn có nghe nói tới thiền sư
Vakkali,
vô Niết Bàn bằng cách tự cưa cổ mình? [TLS
1.10.2010. Bài điểm hai cuốn Chiến Tranh
Phật Giáo, Buddhist Warfare, [Michael
K. Jerryson và Mark Juergensmeyer , editors, 257 trang, Oxford
University
Press], và cuốn The Six Perfections,
của Dale S. Wright, nhà xb Oxford University Press].
V/v Làm
thơ sau Auschwitz thì dã man.
OK. Nhưng, làm
thơ ngay khi ở Auschwitz, thì sao?
Ðây là trường
hợp xẩy ra với H.G. Adler, mà TV đã giới thiệu, qua bài viết trên tờ
The New
Yorker, The Long View.
Cái nhìn dài.
Cách đọc TMT của NDT, G này sợ rằng, phải xếp vào loại "cái nhìn ngắn",
chăng?
THE LONG
VIEW
A
rediscovered master of Holocaust writing.
BY RUTH
FRANKLIN
In the spring of 1950,
the philosopher and cultural critic Theodor Adorno, who was then
teaching at
the University of Frankfurt, received a letter from H. G. Adler, an
unknown
scholar living in London. Adler informed Adorno that he had reviewed
the
professor's "Philosophy in Modern Music" for the BBC, and mentioned
that he happened to be the author of an academic study of
Theresienstadt, a
concentration camp in what is now the Czech Republic. Adorno wrote
back, and a
friendly correspondence sprang up between the two men, despite a
fundamental
conflict in their viewpoints. A year earlier, Adorno, a core member of
the
Frankfurt School of Marxist social theorists, had written an essay
titled
"Cultural Criticism and Society," setting the terms for the debate over
the literary representation of the Holocaust in a single famous dictum:
"To write a poem after Auschwitz is barbaric." By contrast, Adler, a
survivor of the camps, had started writing poems about them while he
was still
a prisoner, and went on to address his experiences during the war both
in
novels and in scholarly accounts.
In Adorno's ideologically driven
view, no
kind of sense could be drawn from the victims' fate; to try to impose
an
artistic coherence upon such a monstrosity was an inherent
falsification, and
to write poetry in its shadow epitomized the decadence of bourgeois
culture.
For Adler, the attempt to assimilate the horror of the camps into art
was a
necessity-not only an essential aspect of his life's work but also a
means of
recapturing his own humanity after the catastrophe.
Dịch…
thoáng: Vào mùa xuân 1950 triết gia và nhà phê bình văn hóa
Adorno lúc đó
đang dạy tại Ðại học Frankfurt, nhận được 1 cái thư của H.G. Adler, một
học giả
vô danh sống tại London. Adler báo cho Adorno biết, ông "đọc lại" tác
phẩm âm nhạc của Adorno, "Triết học trong âm nhạc hiện đại" cho BBC,
và nhân đó, nói tí về mình, tớ là tác giả một nghiên cứu có tính khoa
bảng về
Theresienstadt, một trại tập trung ở 1 nơi bây giờ có tên là Cộng Hòa
Czech.
Hai người sau đó thư từ qua lại, mặc dù chẳng ai chịu ai về quan điểm.
Một năm
trước đó, Adorno, thành viên gạo cội của Frankfurt School of
Marxist
social theorists, viết tiểu luận "Phê bình văn hóa và Xã hội", xác dịnh
cái nhìn của ông về vị trí Lò Thiêu trong văn học, trong đó có câu phán
để đời:
Làm thơ sau Lò Thiêu thì dã man.
Ngược lại, Adler, một kẻ sống sót Lò Thiêu, đã khởi sự làm thơ về nó,
ngay từ
khi ông còn là tù nhân, và tiếp tục viết về kinh nghiệm của mình trong
thời kỳ
chiến tranh trong những cuốn tiểu thuyết...
- Primary
Sources: An excerpt from H. G. Adler’s “Panorama.”
Source
Một Ngày
TMT
Bừng mắt dậy
trời ong ong sáng
cái sáng mơ
màng như câu hỏi bâng quơ
nắng hôm nay
nắng già hay trẻ
trời hôm nay
mây trắng hay vàng
mây có màu
xanh hay mầu tím
đặt bàn chân
nghe đất thở nồng nàn
một ngày
ngoài cửa nghe lạ lắm
tiếng động
nghe như tiếng trẻ thơ
cây lá xôn
xao như bàn tay chạm
những chiếc
xe mang lên dốc nỗi mong chờ
những chiếc
xe lại quay xuống dốc
để lại trên
đồi một câu thơ
một ngày
không biết ai gõ cửa
có lá thư
nào đến từ bên kia sông
có chút tình
nào quàng trên vai núi
cho con chim
đứng hót mãi trong lồng
tiếng chim
trưa sao nghe rất lạ
tiếng ngân
rơi vào trong mặt trời hồng
một ngày nắng
vừa đi vừa rơi từng vốc
gẫy nhánh thời
gian trên những thân cây
ai thả vó xuống
hồ vớt mặt trời bềnh bồng trên nước
hứng đời từng
mảng chảy qua tay.
TMT
3/2011
Bài thơ thần
sầu, đúng là trận gió mát, đúng vào ngày Tận Thế Sóng Thần Japan!
Cái kiểu, buổi
tối nghe tin người thân tử trận, buổi sáng ra vườn, thấy bông hồng thật
đẹp, thật
tươi.
Liệu, đây là
ý của Steiner khi phán: The nearing shadow of Hitler made me?
Hay, the
unmerited scandal of survival?
PCT ra đi
Thơ
Hoàng Trúc Ly :
Mưa
chiều thứ bảy tôi về muộn,
Em ngủ một mình đêm gió mưa.
Thơ
Phạm Công Thiện :
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết
bông.
Nội
dung thì khác « chiều thứ bảy » trong thơ H.T.L.
là một ngày trong tuần, trước chủ nhật. Còn « chiều thứ bảy » trong
P.C.T. là lấy
ý tự kinh Phật. « Cây khế » cũng vậy.
Dạo
ấy, Thiện đi tu ở Nha Trang với thầy Trí Thủ,
pháp danh Ngươn Tánh. Một hôm xuống chơi nhà Võ Hồng – mà anh rất thân
–
khi về
chùa thì làm câu thơ này mà về sau anh tự dịch ra tiếng Pháp :
Je
suis le Retour / il fait tard sur le Chemin
Sept
jours après la pluie tombe
En haut du Temple
L’arbre est le Défleuri (1)
*
Nhờ bài viết
của DT, chúng ta mới hiểu được nguồn gốc câu thơ của PCT.
Từ HTL, nhưng
qua PCT
nó lại mang hình ảnh khác. Có thể nói, câu thơ của HTL đã sống lại, và
có 1 đời
sống khác, “nhiễm mùi Thiền”, qua của PCT.
Ðây là trường
hợp bản dịch hay hơn bản chính, nói theo Borges.
Và đây là
cái điều mà một độc giả DM chê nhà thơ NDT, khi ông nhại lời nhạc TCS. (1)
(1)
Tôi nhận thấy
ông Nguyễn Đăng Thường cũng có văn tài, thi tứ hùng hậu. Ước chi ông
dùng “tài
năng” ấy mà sáng tác thì tôi tin sẽ thành công hơn là ngồi chọn chữ để
nhại lời
bài hát a, b, c, d… Nhại lời như vầy làm thấp hẳn đi giá trị câu chữ
ông nặn
ra; dù ý nghĩa ông gửi gấm trong đó có cao thấp, sáng tối thế nào đi
chăng nữa.
TYB [DM]
Sáng tạo từ
cái cũ.
Xin phép cho
tôi được nόi thêm đôi lời: Với “Diễm nay”, “Một ngục tù không da vàng”,
thậm
chí “Trở về cái chuồng xưa?”, tôi không nhại/diễu nhại ca từ của Trịnh
Công Sơn,
Phạm Duy, mà chỉ… đặt lời mới. Ca sĩ, hay bất cứ ai đều cό thể hát các
lời này
mà không cảm thấy ngượng miệng. Mong rằng tôi không chỉ xây ảo mộng…
hope
against hope/hy vọng trong tuyệt vọng?
NDT
(1)
Mấy câu thơ
tiếng Tây này, “lệch pha” so với tiếng Việt. Dữ dằn hơn:
G tạm dịch [múa
rìu qua ông Chánh Tổng]:
Tôi là Sự
Trở Về/ muộn trên Ðường
Bảy ngày sau
cơn mưa rơi
Ở trên cao Ngôi
Chùa
Cây là Trổ Hết Bông
Ðộng từ
Être, To Be, rất quan trọng trong tiếng Anh, cũng như tiếng Tây.
To be or not
to be.
Bữa nào rảnh,
G sẽ đi một đường về cú này!
Hiện tượng say
mê PCT của một thời thanh niên Miền Nam, có gì giống như thanh niên ở
trong nước
bây giờ, khi tìm đọc sách dịch. Chẳng có gì là khó hiểu cả, ở PCT, khi
ông giới
thiệu những hố thẳm, ý thức mới… Ðó đúng là cái thanh niên cần, trước
khi được đi
lính, bị ném vào cuộc chiến.
Tờ Văn, sở dĩ được đọc
nhiều, vì cái thương hiệu rất
ăn khách của nó, "tập san của những người ham đọc, ưa suy nghĩ".
Cái khó hiểu nhất,
là 1 tâm hồn rất ư thơ mộng, qua những vần thơ rất ư là con nít, theo
cái nghĩa
ngây thơ trong sáng tạo, the inventive innocence, the somnambular
immediciaty,
tức thời mộng du, du ca buồn ngủ, khúc thụy du gì gì đó (1), nhưng cũng
vẫn con
người đó, suốt đời trẻ thơ, lại thấm nhuần tư tưởng của những bực đại
sư như
Heidegger, hay Thiền, và ngây thơ đi hết 1 đêm hoang vu chẳng hề biết
đến Lò
Thiêu, Lò Cải Tạo, cái đó mới kỳ! (2)
TCS_2011
Nov
11, 2003
You
are a real
Kafka in
strenght, health, appetite, voice,
rhetorical skill, self-satisfaction, superiority, stamina, quickness,
insight,
generosity, and of course you have all the errors and weakness that go
with
that qualities.
Kafka
Thư gửi ông thân sinh.
Thầy mới là một ông Bắc Kỳ thứ
thiệt. Dẻo dai, mạnh khỏe, ăn uống, yêu
đương,
làm việc... mới thấy ham, giọng nói mới ngọt ngào, nói năng mới khéo
léo làm
sao! Rất ư hài lòng về chính mình, rất ư tự mãn về cái vị thế gia
trưởng của
mình, rất ư là chịu đựng gian khổ, nhanh nhẹn, có đầu óc sáng tạo, rất
ư đại
lượng với kẻ dưới, nhưng than ôi, Thầy có tất cả những cái lầm lẫn,
những cái
yếu đuối: Như những con đỉa, chúng bám chặt lấy Thầy, không
làm sao rứt ra.
[Trích thư của một ông con Bắc
Kỳ, từ hải ngoại gửi về cho một ông bố ở
Hà Nội]
NKTV
*
Nhạc
TCS đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám
VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi
nhục về
tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.
Khi viết ra
những dòng trên, G chỉ mơ mòng tưởng tượng ra mình, nếu là 1 anh VC Bắc
Kít, và
được gợi hứng từ kinh nghiệm của Paul Celan, khi bị đám Nazi vồ lấy bài
thơ Tẩu
Khúc của Thần Chết của ông.
Ui chao quả đúng
đây là tâm trạng của VC thực. Qua kinh nghiệm thực được khoa học chứng minh, qua những dòng dưới đây, từ 1
bài viết trên tờ Người Kinh Tế Mới
Thanh tẩy bằng nỗi đau
Purification by pain
The masochism tango
Religion got it right:
pain seems to assuage guilt
CATHOLIC theology says
that heaven awaits the pure of
heart while hell is reserved for unrepentant sinners. For the sinful
but
penitent middle, however, there is the option of purgatory-a bit of
fiery
cleansing before they are admitted to eternal bliss. Nor is inflicting
pain to
achieve purification restricted to the afterlife. Self-flagellation is
reckoned
by many here on Earth to be, literally, good for the soul.
Surprisingly, the idea
that experiencing pain reduces
feelings of guilt has never been put to a proper scientific test. To
try to
correct that, Brock Bastian of the University of Queensland, in
Australia,
recruited a group of undergraduates for what he told them was a study
of mental
acuity. At the start of the study, 39 of the participants were asked to
write,
for 15 minutes, about a time when they had behaved unethically. This
sort of
exercise is an established way of priming people with feelings
associated with
the subject written about. As a control, the other 23 wrote about an
everyday
interaction that they had had with someone the day before.
After the writing, all 62
participants completed a
questionnaire on how they felt at that specific moment. This measured,
among
other things, feelings of guilt on a scale from one (very slightly
guilty or
not at all) to five (extremely guilty).
Participants were then
told they were needed to help
out with a different experiment, associated with physical acuity. The
23 who
had written about everyday interactions and 20 of the 39 who had
written about
behaving unethically were asked to submerge their non-dominant hand
(i.e.,
left, if they were right-handed, and vice versa) into a bucket of ice
for as
long as they could. The remaining 19 were asked to submerge their
non-dominant
hand into a bucket of warm water for 90 seconds, while moving paper
clips one
at a time between two boxes, to keep up the illusion of the task being
related
to physical capabilities. That done, participants were presented with
the same
series of questions again, and asked to answer them a second time.
Then, before
they left, they were asked to rate on a scale of zero (no hurt) to five
(hurts
worst) how much pain they experienced in the warm water and the ice.
Dr.
Bastian reports in Psychological Science that those who wrote about
immoral
behavior exposed themselves to the ice for an average of 86.7 seconds
whereas
those who had written about everyday experiences exposed themselves for
an
average of only 64-4. The guilty, then, either sought pain out or were
inured
to it. That they sought it out is suggested by the pain ratings people
reported. Those who had written about immoral behavior rated the
ice-bucket
experience at an average of 2.8 on the pain scale. The others rated it
at 1.9.
(Warm water was rated 0.1 by those who experienced it.)
Furthermore, the pain was,
indeed, cathartic. Those
who had been primed to feel guilty and who were subjected to the ice
bucket
showed initial and follow-up guilt scores averaging 2.5 and 1.1
respectively.
By contrast, the "non-guilty" participants who had been subjected to
the ice bucket showed scores averaging 1.3 and 1.2most no difference,
and
almost identical to the post-catharsis scores of the "guilty". The
third group, the guilt-primed participants who had been exposed to the
warm
bucket and paper clips, showed scores averaging 2.2 and 1.5. That was a
drop,
but not to the guilt-free level enjoyed by those who had undergone
trial by
ice.
Guilt,
then, seems to behave in the
laboratory as theologians have long claimed it should. It has a
powerful effect
on willingness to tolerate pain. And it can be
assuaged by such pain. Atonement hurts. But it seems to work-on
Earth at
least. •
Note: Bài
này thú vị thực. Brodsky không tin chân lý, nhà văn phải đau khổ mới có tác phẩm lớn, nhưng đau khổ quả là
liều thuốc thanh tẩy tâm hồn.
Thảo nào VC
bắt Ngụy phục hồi nhân phẩm qua Lò Cải Tạo!
Gọi
Người Đã Chết
Mémoirs
|
|