|
Happy
Birthday & Holidays
To U
Richie & Ong
10.3.2011
Fri, March
11, 2011 9:18:27 AM
Paris
Hi Ong
today
we went to the Notre Dame it was so beautiful
Sent from my
iPod
Richie I
miss u too much
Sent from my
iPod
Phạm Công Thiện qua đời, thọ 71 tuổi
Nhà văn, nhà thơ, nhà tư
tưởng, dịch giả, giáo sư, cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện vừa qua đời
ngày 8
tháng 3 năm 2011 tại Houston,
Texas, thọ 71 tuổi, theo Cáo bạch ngày 9 tháng 3,
2011 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cũng như sự xác
nhận của
gia đình.
Hang
Son Doong
Thơ mỗi ngày
Ed. Alfred
A. Knopf, NY, 2010
FIFTY YEARS
DEEP into his career, Charles Simic has created a new category of
poetry, one
that is easier to describe than name: dark and irreverent, it has an
abiding
humor, an underlying mysteriousness if not mysticism, a deceptively
plain line
and diction and often a plain subject, such as a knife, a spoon, or the
title
subject of the poem he brought in draft form to London's class in 1995,
"Official Inquiry Among the Grains of Sand."
Born in
Belgrade in 1938, on the eve of World War II, Simic lived through
bombings,
periods of hunger, the ten-year exile of his father, and the
imprisonment of
his mother. "Hitler and Stalin conspired to make me homeless," he has
said. Not until he was in his mid-teens was his family reunited,
settling in
the United States. Simic began writing poetry as a high school student
in the
Chicago suburbs.
One aim of
his poetry, Simic says, is "to restore strangeness to the most familiar
aspects of experience." To London he says that "the foundation of
poetry is based on chance," and as chance can run toward violence,
violence, too, is at an edge not far away. "Official Inquiry" and its
grains of sand run together with a snooping seagull of "a secret
government agency." But even as Simic describes line by line the making
of
the poem, he laughs when London suggests that he might have an overall
vision.
"No. No, I never had a vision," he says. "Sometimes awkwardness
is inevitable and important."
Simic was
still making "Official Inquiry Among the Grains of Sand" at the time
of his visit. "Here's a little poem I'm working on," he wrote to her
weeks earlier. "This draft will change, so I'll have another version
when
I come." The poem eventually appeared in his 1996 volume, Walking
the Black Cat, a National Book
Award finalist and one of five books of poetry he published in the
1990S.
Simic, who has taught at the University of New Hampshire since 1973,
became the
U.S. poet laureate in 2007.
Năm mươi năm
ăn nằm với thơ, Charles Simic đã tạo ra một thể loại thơ, mới, dễ miêu
tả hơn
là đặt tên cho nó: u tối, thiếu sự tôn kính, thường xuyên tưng tửng, bí
ẩn “chìm”,
nếu không muốn nói, thần bí; dòng thơ bằng phẳng đánh lừa người đọc;
lời phán,
và đề tài thường giản dị, như con dao, cái thìa, hay như tít bản nháp
bài thơ
mà ông mang vô lớp cho London coi, vào năm 1955: “Một cuộc điều tra
chính thức
giữa những hạt cát”
Sinh tại
Belgrade 1938, đêm trước Đệ Nhị Chiến, Simic ‘đau đáu’ kinh qua bom
đạn, đói khát,
và 10 năm lưu vong của ông già và bà mẹ đi tù. “Hitler và Stalin, hai
thằng khốn
này đã âm mưu làm cho tôi thành 1 kẻ không có nhà ở”, ông đã từng nói.
Phải đến
khi ông được 15, 16 tuổi thì gia đình mới được đoàn tụ, và tái định cư
ở Mẽo.
Simic bắt đầu làm thơ khi học trung học ở vùng ngoại ô Chicago.
Thơ tôi nhắm
tái lập lại cái “kỳ kỳ cho hầu hết những sắc thái quen thuộc của kinh
nghiệm”. “Cơ
bản của thơ dựa trên cơ may, tình cờ”, và bởi vì cơ may thường chạy tới
bạo động,
thành thử bạo lực thì cũng ngay mép bờ, chẳng ở đâu xa. Và mặc dù ông
làm thơ từng
dòng, từng dòng, khi được hỏi, liệu ông có 1 viễn ảnh lớn, bao trùm lên
nó, nhà
thơ lắc đầu. Nô, tớ chẳng bao giờ có một viễn ảnh. “Đôi khi, cái sự lớ
ngớ thì
không thể tránh được, và nó thì quan trọng”
Ghi chú
trong ngày
The New
American Pessimism
Charles
Simic
A
protester
at a march and rally at the Wisconsin State Capitol in Madison, March
5, 2011
I can’t remember
when I last heard someone genuinely optimistic about the future of this
country. I discount politicians, investment bankers and generals since
their
line of work requires that they offer upbeat assessments of everything
from our
deteriorating economy to our suicidal wars, and assorted narcissists
accustomed
to shutting their eyes to the plight of their fellow Americans. The
outright
prophets of doom and gloom among our friends and acquaintances tended
to be a
rare breed until recently. They were mostly found among the elderly,
whose
lives had an inordinate share of tragedies and disappointments, so one
didn’t
take their bleak outlook as applicable to the rest of us. One
encountered
inveterate optimists, idealists, or even Niebuhrian realists in the
past; now,
one finds people of all ages and backgrounds eager to tell you how
screwed up
everything is, and, on a more personal note, what a difficult time they
are
having—not just making ends meet, but understanding why the country
they
thought they knew has become unrecognizable.
Just look at
the assault on the rights of state workers that Wisconsin’s new
governor Scott
Walker and a group of state senators have rammed through a rump
legislature
without any debate. The same approach is now spreading to several other
states
in the heartland. In the new USA, teachers, union workers, women,
children, the
unemployed and the hopeless are the cause of unsustainable deficits,
and a
dog-eat-dog philosophy that is supposed to make us great again prevails.
It must be
difficult for any hostess nowadays to stop her dinner guests from
reciting to
each other over the course of an evening the endless examples of lies
and
stupidities they’ve come across in the press and on TV. As they get
more and
more wound up, they try to outdo each other, losing all interest in the
food on
their plates. I know that when I get together with friends, we make a
conscious
effort to change the subject and talk about grandchildren, reminisce
about the
past and the movies we’ve seen, though we can’t manage it for very
long. We end
up disheartening and demoralizing each other and saying goodnight,
embarrassed
and annoyed with ourselves, as if being upset about what is being done
to us is
not a subject fit for polite society.
In an
atmosphere of growing anxiety and hysteria, in which the true causes
and the
scale of our dire national predicament are deliberately concealed and
obfuscated by our political establishment and by the corporate media,
no wonder
there’s confusion and anger everywhere. As anyone who has traveled
around this
country and talked to people knows, Americans are not just badly
informed, but
downright ignorant about most things that affect their lives. How nice
it would
be if our President leveled with us and told us that our deficit is
caused in
significant part by the wars we are fighting in Afghanistan and
Pakistan, the
hundreds of military bases we are maintaining around the world, the
huge tax
breaks for the rich, and the bailout of Wall Street. As we know, we are
not
about to hear anything of the kind.
By the
president’s calculation, telling the truth to the American people would
doom
his reelection campaign, since he would not be able to raise the
billion
dollars he needs this time around. The kind of people who have that
kind of
money and will agree to contribute to his campaign know very well what
informed
voters in a working democracy would to do to them once they understood
just who
has depleted the national treasury to line their own pockets. No doubt,
he and
his political party will do anything to avoid the truth and will
propose
outwardly attractive solutions—like the health care bill that not only
expands
coverage but greatly benefits insurance companies and does little to
reduce
healthcare costs. They hope that these kinds of measures will lure the
majority
of voters who won’t bother to learn the details, but they will also
send a
clear signal to the moneyed classes that they won’t be inconvenienced
in the
least.
As for those
who continue to insist that there’s something fundamentally wrong with
a
democracy that doesn’t address the ever-growing income inequality the
sheer
madness of our open-ended military ventures in Afghanistan, the
miseries of the
sick and unemployed, the suffering of the near destitute and of the
children
and the old, they’ll be dismissed as being unrealistic in present
circumstances
and reminded that with the other party in power things would be even
worse. The
reason pessimists are multiplying is that we dishonor the intellect and
the
knowledge of history in this country by refusing to admit that
corruption is
the source of our ills. It takes no great mental effort to realize that
there’s
no effective political forces either in Washington or locally that are
able to
do anything serious to correct our self-delusions about being the
world’s
policeman, because any sensible solution would seriously cut into
profits of
this or that interest group.
They say the
monkey scratches its fleas with the key that opens its cage. That may
strike
one as being very funny or very sad. Unfortunately, that’s where we are
now.
March 10,
2011 11:45 a.m.
Simic Interview
Ông nghĩ sao
về tình hình ở Yugoslavia?
Chẳng có gì
tốt để mà nói về cái đám dân chúng ở đó, chúng thù ghét nhau, và hở ra
là làm
thịt lẫn nhau. Và bây giờ thì có 1 cuộc nội chiến, và tôi nghĩ, bên nào
thì
cũng nhảm, và đều đáng đem ra đánh đòn. Tất cả cái đám CS đổi thành Dân
Chủ, đổi
thành Tân Quốc Gia Phát Xít, và tất cả đám còn lại. Tôi nghĩ những
người dân
Yugoslavia bị khùng bởi chính những kẻ ngày hôm qua, thời kỳ trước đây,
[tức là
trước ngày 30 Tháng Tư 1975 !] đã từng làm cho họ trở thành khùng, và
khủng bố
họ. Chẳng có thằng đéo nào dám vỗ ngực tự hào "tôi là người
Yugoslavia" cả! Tôi chứng kiến quá nhiều điều quỉ ma, ngu ngốc và tất
nhiên, có cái gọi là bi kịch ở xứ đó. Những con người có thiện tâm, và
vô tội
thì luôn luôn đau khổ, như họ vẫn từng đau khổ.
TCS_2011
Tôi cũng mê
nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được.
Lth
Theo tôi, những
người "mê chết đi được", nhạc TCS, phải là… VC!
Đây là hiện
tượng "phản ứng ngược", trong vật lý, contre-réaction, và nó đã xẩy
ra với bài thơ Tẩu Khúc của Thần Chết của Paul Celan.
Hay, 1 thứ
khôi hài đen, “Người Đức sẽ không bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì
vụ Lò
Thiêu”!
Chúng ta mê
nhạc TCS khác với VC mê nhạc TCS. Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris, "hình
như" cũng đã ngửi ra được điều này, khi phán, chỉ có ở Miền Nam, mới có
thứ
nhạc sĩ như TCS.
*
Nhạc
TCS đã giúp đám bỏ chạy bợ đít VC, đám
VC chính hiệu nuốt được nỗi đau 3 triệu con người chết vô ích, và nỗi
nhục về
tình trạng băng hoại như hiện nay ở trong nước.
Bản thân Trịnh
cũng đậm nỗi đau đó, chính vì thế mà ông viết ra thứ nhạc đó!
Tình Yêu như
Trái Phá, 1 cách nào đó, còn là nỗi mong mỏi của họ Trịnh. Ông thèm
được “chọn
bên” [chọn VC trong cuộc chiến, và khi nó chấm dứt, chọn đi cải tạo như
bạn bè
Miền Nam của ông, chọn đi vượt biển, như cả Miền Nam], và bất cứ 1 chọn
lựa
nào, thì ông cũng không thể!
Đau thật.
Nơi em về trời
xanh không em?
TCS hỏi, đau
thương như thế, chính là vì ông đếch có một nơi nào để về.
PXA chẳng đã
từng than, địa ngục chật cứng, đếch có chỗ cho tớ!
Đau thật
Gấu
có, chỉ một kỷ niệm với TCS, như đã kể ra trong bài viết, thật ngắn,
ngay khi
ông vừa nằm xuống.
Có thể nói, bài của Gấu là bài đầu tiên trong những bài ai điếu TCS.
Ông "trúng đạn" [có được cái vé đi chuyến tầu suốt], chưa kịp té xuống
tới đất, là đã có bài ai điếu rồi!
Sau này, Gấu vẫn thường tự hỏi, tại sao mà mình bắn nhanh như vậy !
Mãi mới hiểu ra, đó là nhờ cái cảm giác bực mình, trong cái lần gặp gỡ
đầu tiên
và cũng là độc nhất tại Quán Chùa.
Subject:
Ve TCS
To:
Chào
Ông,
"...cái ông nhạc sĩ hát rong,
nói
"Không" với chiến tranh đó, được cả thế giới trân trọng đó, chẳng là
cái thá gì cả!"
Ông
phán một câu như...Thánh Thán!
Tôi
vẫn nghĩ từ lâu nhạc của TCS cũng xoàng như những nhạc phổ thông khác.
Nhưng
các ông gọi là Văn Nghệ Sĩ trong và ngoài nước cứ xúm lại ca ngợi ...
lời hát của
TCS. Quả là buồn cho cái cách phê bình thiếu tính chuyên nghiệp.
Kính,
PS:
Xin đừng post Email của tôi làm gì. Gây tranh luận vô ích!
Đành
phải mạn phép bạn post cái mail lên đây, coi như của một độc giả nào
đó. Vì Hai
Lúa này cũng muốn viết thêm về TCS nhân "vụ án" PD, và những chấn động
tiếp theo mới đây ở trong nước, và cũng nhận được vài cái mail về TCS.
Nguồn
Thực
sự mà nói, quả có quá nhiều người theo đóm ăn tàn, viết về TCS, để được
hưởng tí
xái, nói theo 1 tay trong nước trên talawas đã có lần phạng Gấu, nhằm
nhắc khéo
tới những ngày GNV hầu hạ Cô Ba. Nhưng cái mail trên, của 1 độc giả TV,
quả là
1 gợi ý thật thú vị để mở ra 1 bài viết mới về TCS.
Mấy
đấng hót TCS nhằm hưởng tí xái, xào đi xào lại hoài mấy cái ‘tem’
[theme], nào
vô thường, nào thiền, nào tính Phật, nào đã ngộ kiếp tử sinh… nhưng nếu
đúng như
thế thì áp dụng vô bất cứ ông văn nhân nghệ sĩ Mít nào cũng đặng.
Một
ông thi sĩ chuyên môn làm thơ tán gái, làm thịt không biết bao nhiêu là
em con
nhà lành, là “bạn thân của GNV”, vậy mà cũng có kẻ tìm ra chất thiền ở
trong thơ
của ông!
Tuy
nhiên, chưa từng ai giải thích cách sử dụng tiếng Việt của TCS, cách để
những hình
ảnh, chưa từng có ai nghĩ, chúng có chút liên hệ, kế bên nhau.
Thí dụ, hai
hình ảnh
này:
Trời
buồn, gió cao.
GNV
đố mấy đấng chuyên hót TCS giải thích, chỉ hai hình ảnh trên:
Trời
buồn gió cao.
Thường
thì người ta nói, trời cao, ở đây trời buồn, thành thử gió phải cao?
Hình
ảnh ‘bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa’, để giải thích nó, Gấu
này phải
viện đến Borges, và ông này, chiều Gấu, phải viện thêm Byron,
Baudelaire, chỉ để
vinh danh BHD!
Từ vườn
khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
TCS
She walks in
beauty, like the night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm
Baudelaire
writes, in "Recueillement":
"Entends, ma chère, entends, la
douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who
walks]. The silent walking of the night should not be heard.
Baudelaire
viết, trong "Recueillement": “Nghe nè, nghe nè, em thân yêu,
Đêm
ngọt ngào bước.”
Cái bước đi lặng lẽ của Đêm đừng nên nghe!
Borges
Simic
giải thích thơ của ông, “tái lập cái kỳ lạ cho cái rất ư bình thường,
quen thuộc
của kinh nghiệm”, "to
restore strangeness to the most familiar aspects of experience." câu này có thể áp dụng cho lời nhạc TCS.
* Nhân 10
năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sắp tới, nhóm có những hoạt động gì
để tưởng
nhớ một thành viên của nhóm?
- Gia đình
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có làm nhiều chương trình rồi nên nhóm không làm
thêm gì
nữa. Bên gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng không đặt vấn đề với anh
em nên
anh em chúng tôi không tham gia.
Nguồn
Note: Đếch
chơi với tụi mi, được không?
Kundera kể
chuyện, chủ tịch nước đứng trên bao lơn phủ dụ nhân dân. Trời lành
lạnh, ông
quên đem khăn, ông số hai bèn lấy khăn của mình choàng lên mình lãnh
tụ; khi
ông bị thủ tiêu, người ta bôi bỏ hình ông đứng kế bên chủ tịch nước,
nhưng cái
khăn thì vẫn còn đó!
Source
Đoạn trên,
GNV viết theo trí nhớ. Nguyên tác, sau đây, qua bản tiếng Anh, và là
đoạn mở ra
Cuốn Sách của Tiếng Cười và Sự Lãng Quên, The
Book of Laughter and Forgetting
1
In February
1948, the Communist leader Klement Gottwald stepped out on the balcony
of a
Baroque palace in Prague to harangue hundreds of thousands of citizens
massed
in Old Town Square. That was a great turning point in the history of
Bohemia. A
fateful moment of the kind that occurs only once or twice a millennium.
Gottwald was
flanked by his comrades, with Clementis standing close to him. It was
snowing
and cold, and Gottwald was bareheaded. Bursting with solicitude,
Clementis took
off his fur hat and set it on Gottwald's head.
The
propaganda section made hundreds of thousands of copies of the
photograph taken
on the balcony where Gottwald, in a fur hat and surrounded by his
comrades,
spoke to the people. On that balcony the history of Communist Bohemia
began.
Every child knew that photograph, from seeing it on posters and in
schoolbooks
and museums.
Four years
later, Clementis was charged with treason and hanged. The propaganda
section
immediately made him vanish from history and, of course, from all
photographs.
Ever since, Gottwald has been alone on the balcony. Where Clementis
stood,
there is only the bare palace wall. Nothing remains of Clementis but
the fur
hat on Gottwald's head.
2
It is 1971,
and Mirek says: The struggle of man against power is the struggle of
memory
against forgetting
*
Như vậy,
không phải cái khăn mà là cái nón!
Đoạn tiếp
theo bắt đầu bằng câu có thể coi như "thương hiệu" của K:
Cuộc chiến
đấu của con người chống lại quyền lực là cuộc chiến đấu của trí nhớ
chống lại sự
lãng quên.
Thú vị nữa,
là cái đoạn mở ra tác phẩm, thì lại được lập lại ở nửa phần sau.
1
In February
1948, the Communist leader Klement Gottwald stepped out on the balcony
of a
Baroque palace in Prague to harangue hundreds of thousands of citizens
massed
in Old Town Square. That was a great turning point in the history of
Bohemia.
It was snowing and cold, and Gottwald was bareheaded. Bursting with
solicitude,
Clementis took off his fur hat and set it on Gottwald's head.
Neither
Gottwald nor Clementis knew that every day for eight years Franz Kafka
had
climbed the same stairs they had just climbed to the historic balcony,
because
under Austria-Hungary the palace had housed a German school. Nor did
they know
that on the ground floor of the same building Hermann Kafka, Franz's
father,
had a shop whose sign showed a jackdaw painted next to his name, kafka meaning jackdaw in Czech.
Gottwald,
Clementis, and all the others were unaware even that Kafka had existed,
but
Kafka had been aware of their ignorance. In his novel, Prague is a city
without
memory. The city has even forgotten its name. No one there remembers or
recalls
anything, and Josef K. even seems not to know anything about his own
life
previously. No song can be heard there to evoke for us the moment of
its
birth
and link the present to the past.
The time of
Kafka's novel is the time of a humanity that has lost its continuity
with
humanity of a humanity that no longer knows anything and no longer
remembers
anything and lives in cities without names where the streets are
without names
or with names different from those they had yesterday, because a name
is
continuity with the past and people without a past are people without a
name.
Prague, as
Max Brod said, is the city of evil. When the Jesuits, after the
defeat
of the
Czech Reformation in 1621, tried to reeducate the people in the true
Catholic
faith, they swamped Prague with the splendor of Baroque cathedrals. The
thousands of petrified saints gazing at you from all sides and
threatening you,
spying on you, hypnotizing you, are the frenzied occupation army that
invaded
Bohemia three hundred fifty years ago to tear the people's faith and
language
out of its soul.
The street
Tamina was born on was called Schwerinova Street. That was during the
war, when
Prague was occupied by the Germans. Her father was born on
Cernokostelecka
Avenue. That was under Austria-Hungary. When her mother married her
father and
moved in there, it was Marshal Foch Avenue. That was after the
1914-1918 war.
Tamina spent her childhood on Stalin Avenue, and it was on Vinohrady
Avenue
that her husband picked her up to take her to her new home. And yet it
was
always the same they just kept changing its name, brainwashing it into
a
half-wit.
Wandering
the streets that do not know their names are the ghosts of monuments
torn down.
Torn down by the Czech Reformation, torn down by the Austrian Counter-
Reformation, torn down by the Czechoslovak Republic, torn down by the
Communists; even the statues of Stalin have been torn down. In place of
those
destroyed monuments, statues of Lenin are nowadays springing up in
Bohemia by
the thousands, springing up like weeds among ruins, like melancholy
flowers of
forgetting.
2
If Franz
Kafka is the prophet of a world without memory, Gustav Husak is its
builder.
After T. G. Masaryk, who was called the Liberator President (every last
one of
his monuments has been destroyed), after Benes, Gottwald, Zapotocky,
Novotny,
and Svoboda, he is the seventh president of my country, and he is
called the
President of Forgetting.
The Russians
put him in power in 1969. Not since 1621 has the Czech people
experienced such
a devastation of culture and intellectuals. Everyone everywhere thinks
that
Husak was merely persecuting his political enemies. But the struggle
against
the political opposition was instead the perfect opportunity for the
Russians to
undertake, with their lieutenant as intermediary, something much more
basic.
I consider
it very significant from this standpoint that Husak drove one hundred
forty-five Czech historians from the universities and research
institutes.
(It's said that for each historian, as mysteriously as in a fairy tale,
a new
Lenin monument sprang up somewhere in Bohemia.) One day in 1971, one of
those
historians, Milan Hubl, wearing his extraordinarily thick-lensed
eyeglasses,
came to visit me in my studio apartment on Bartolomejska Street. We
looked out
the window at the towers of Hradcany Castle and were sad.
"You
begin to liquidate a people," Hubl said, "by takking away its memory.
You destroy its books, its culture, its history. And then others write
other
books for it, give another culture to it, invent another history for
it. Then
the people slowly begins to forget what it is and what it was. The
world at
large forgets it still faster."
"And
the language?"
"Why
bother taking it away? It will become a mere folklore and sooner or
later die a
natural death."
Was that
just hyperbole dictated by excessive gloom?
Or is it
true that the people will be unable to survive crossing the desert of
organized
forgetting?
None of us
knows what is going to happen. One thing, however, is certain. In
moments of
clear-sightedness, the Czech people can see the image of its own death
near at
hand. Neither as a fact nor as an inescapable future, but nonetheless
as a
quite concrete possibility. Its death is right there with it.
*
Trong cuốn
sách của ông, K cũng đã tưởng tượng ra được, trường hợp .. TCS bỏ nước
ra đi,
sau khi bị VC hành hạ, bị lũ bạn quí, cũ, thân… như HPNT, như TC, hay
Hồ Tôn Hiến
làm nhục:
In 1972,
when Karel Klos, a Czech pop singer, left the country, Husak became
fearful. He
immediately wrote a personal letter to him in Frankfurt, from which,
inventing
not a word, I quotE; the following:
"Dear
Karel: We want nothing from you. Please come back, we will do for you
whatever
you wish. We will help you, you will help us .... "
Think about
it: without batting an eye, Husak allowed the emigration of doctors,
scholars,
astronomers, athletes, stage directors, filmmakers, workers,
engiineers,
architects, historians, journalists, writers, painters, but he could
not bear
the thought of Karel Klos leaving the country. Because Karel Klos
represented
music without memory, the music under which the bones of Beethoven and
Ellington, the ashes of Palestrina and Schoenberg, are forever buried.
The
President of Forgetting and the Idiot of Music were two of a kind. They
were
doing the same work. "We will help you, you will help us." Neither
could manage without the other.
Vào năm
19...82, TCS rời bỏ xứ Mít. Sáu Dân Hồ Tôn Hiến sợ quá. Ông liền lập
tức
viết thư
riêng cho TCS:
TCS thân mến,
“Chúng tớ
không muốn gì ở nơi cậu. Làm ơn trở về với Đất Mẹ, Đất Mít. Chúng tớ sẽ
làm bất
cứ gì mà cậu muốn. Chúng tớ sẽ giúp cậu, cậu sẽ giúp chúng tớ..."
Hãy nghĩ đến
chuyện này:
Sáu Dân Hồ Tôn Hiến vờ
cho đám
trí thức Ngụy vượt biên, đứa nào lỡ
bị địa
phương bắt thì ông đích thân lái xe hai bánh, đi trong đêm, tới hiện
trường ra
lệnh thả...
Vậy mà ông VC học lớp 1
này không thể nào chịu nổi TCS rời bỏ xứ Mít!
Bởi vì TCS đại
diện cho âm nhạc không có hồi ức, thứ âm nhạc bên dưới nó, xương cốt
của
Beethoven, Ellington, tro than của Palestrina, Schoenberg
được chôn vùi vĩnh viễn!
Đâu có phải
tự nhiên Trần Long Ẩn... lũ VC nằm vùng thứ thiệt, đếch thèm chơi với
TCS.
Và ngược lại!
Chủ Tịt Lãng
Quên và Tên Ngu Si Âm Nhạc thì mắm xốt kít. Cả hai làm cùng một công
việc.
“VC giúp TCS; TCS giúp VC.”
Thiếu 1 thằng là bỏ mẹ!
Thiếu 1 thằng là đếch có ngày 30 Tháng Tư 1975!
Gọi
Người Đã Chết
Văn
Chương Ai Điếu
Mémoirs
Đây là cái
note của KT, kèm cuốn sách của anh. Sau đó, là chuyến đi Tây đầu tiên,
cũng thời
gian đó, bạn quí HPA đang ở Tây.
Có 1 kỳ niệm thật tếu, là,
khi đến phi trường
chẳng làm sao nhận ra KT, thế rồi có một bà tiến tới gần, hỏi, có phải
Gấu
Đực & Gấu Cái đó không.
Bà xã KT.
Bà nói, tôi đã nói với ông KT, là khó nhận ra nhau lắm, vì anh ở Canada
qua, xa
nhau bao nhiêu năm, dễ gì nhận ra nhau. Bà nói thêm:
Nhưng khi
HPA qua, thì nhận ra ngay.
GNV ngạc nhiên quá, hỏi, tại sao. Bà trả lời, cứ thấy ai gầy nhom,
trông như đang
đói ăn, là biết liền.
Ui chao, đám Việt Minh,
khi về Hà Nội, thời kỳ đánh Tây, bị bắt, đúng là do cực khổ
quá mà ra.
Anh nào
cũng
ốm nhom, xanh lét, và nhất là, đều thèm phở.
Thế là đám mật thám Tây chờ sẵn ở
mấy tiệm phở, tóm thằng nào là y chang vừa ở rừng về!
|
|