*





Chúc Mừng Năm Mới 2011


Thơ mỗi ngày

*

Chiều ngu ngơ phố thị

Cầm dương xanh (thơ)
Bụi


Nhân Ngày Tình Yêu

Blood and oil
The West has to deal with tyrants,
but it should do so on its own terms



Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan


Trang LMH


Ghi chú trong ngày

Nói đến tên thật của tôi, chợt nhớ chuyện khác: tôi có khá nhiều sách được tặng từ trong nước. Hầu hết đều có một điểm giống nhau: thay vì viết tặng NHQ, tác giả viết tặng NNT. Không phải không có lý do. Năm 1996, khi Hoàng Ngọc Hiến viết tặng tôi cuốn Văn học – Học văn, anh cũng ghi là tặng NNT. Tôi cười hỏi: “Sao anh không ghi là NHQ?” Anh cười, đáp: “Cẩn tắc vô áy náy!” Mấy ngày sau, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chở tôi đến Bát Tràng chơi, ở đó, anh vẽ cho tôi hai bức chân dung trên đĩa sứ, anh cũng lại viết trên đĩa: “Tặng NNT”. Nhớ lại câu nói của Hoàng Ngọc Hiến, tôi lại hỏi Nguyễn Huy Thiệp: “Sao không ghi tên NHQ?” Anh cười: “Ông muốn tôi chết hả?”

Lại nhớ nữa, lúc tôi còn ở Paris, một người thầy cũ từ trong nước gửi tặng tôi một cuốn sách. Lời đề tặng rất thân ái nhưng cũng thật lạ lùng: nó không nằm ở mấy trang đầu, như thường là vậy, mà lại nằm ở trang cuối cùng. Nét chữ nhỏ li ti. Như cố giấu giếm. Có lẽ cũng vì ngại.

NHQ

Đọc những dòng trên, GNV mới hiểu, thế giá của NHQ thì quá cao, mà của đám VC thì lại quá thấp.
Không lẽ một NHT, dám cho NH ra Bắc, nhét kít vô miệng tất cả sĩ phu Bắc Hà, mà cũng rét đến như thế sao?

So với GNV, thì những nhà văn VC lại quá nể NHQ. Bởi vì NHT dám ký họa chân dung GNV, đề tên đàng hoàng, còn HNH tặng bản văn, viết về vụ lãnh tiền Mẽo viết chân dung văn học Mít hải ngoại, cũng đề tặng NQT đàng hoàng!
[Mi là thứ gì mà dám so với NHQ, một đệ tử của Thầy Cuốc đã từng mail cho GNV, khi GNV nhắc tới chuyện sư phụ của chúng về, hai lần, bị VC đá đít ra khỏi cửa khẩu!]

*

NHT, khi nghe GNV kể chuyện, nhét… ông có hơi hoảng, hơi thôi, và rồi mỉm cười, phán, “ông viết như thế là tụi chúng làm thịt tôi mất”,  sau đó, lôi trong túi 1 cái giấy mời đi dự 1 lễ kỷ niệm gì gì đó, nói, chúng mời tôi đi, mà đưa giấy mời cho tên công an khu vực đưa đến tận nhà, bắt ký nhận.

Và, giải thích, về tác phẩm của ông, và về cách GNV giải thích hành động của NH của ông, “thì cũng chỉ vì thương mình, thương người mà viết, chứ có ghê gớm chi đâu” [ý muốn nói, ông trọng tôi quá, chắc thế!]

Giả như có những sự kiện như được NHQ viết ra, [giả như gì nữa, chắc chắn phải có!], thì có thể, NHQ hiểu lầm ý của những nhân vật liên quan.

HNH thì ngỏm rồi, còn NHT có thể nghĩ, sau này, chỉ còn có “thứ thiệt” là NNT. Hưng Cuốc gì nữa. Chứng cớ, đã có lần NHQ sử dụng lại cái tên cha sinh mẹ đẻ của ông thay vì Hưng Quốc.

Bất giác GNV nhớ chuyện xưa, có 1 tay khắc chữ đẹp, bị đám quan quyền ác ôn bắt khắc chữ, tạc bia, vinh danh chúng, tay này lắc đầu, “mày không khắc, ông làm thịt”, tay viết chữ đẹp đành chấp nhận, nhưng giao hẹn, khắc thì khắc, nhưng tôi đếch để tên tôi ở bên dưới, nhé?

Có thể mấy tay VC này nghĩ như vậy chăng?
Tao để tên tao, nhưng tặng NNT, thì ai biết là ai đâu!

Thiên hạ có hằng hà NNT, nhưng chỉ có 1 NHQ!

*

Note: Hình này, GNV mới lấy từ hồ sơ cũ ra,
không phải cái mà Bi Bì Xèo chôm!

Lúc tôi học ở Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh, thầy Hoàng Văn Thung, từ Hà Nội vào thỉnh giảng, mới in cuốn sách về Ngữ âm học Tiếng Việt. Thầy tặng tôi một cuốn. Sau đó, tôi vượt biên; về, bị đuổi dạy, có lúc thiếu tiền để sống, tôi bèn lấy một số sách ra chợ trời bán. Trong đó có cuốn Ngữ âm học. Mắc cỡ, tôi lấy bút sửa lại cái tên được đề tặng ở trang đầu cuốn sách: Nguyễn Ngọc Tuấn thành Nguyễn Ngọc Thuấn. Chỉ cần thêm chữ “h” vào chút khoảng trống sau chữ “T”. Mười mấy năm sau, khi tôi sang Úc dạy, một người bạn của tôi về Việt Nam mua được một số sách về ngôn ngữ học. Nhìn, tôi nhận ra ngay cuốn sách của mình ngày trước, ở đó, chữ “Tuấn” được sửa lại thành chữ “Thuấn” với chữ “h” nằm khá chênh vênh. Như thẹn thùng.

NHQ

Đọc, bất giác GNV lại nhớ tới bài sau đây, đã đăng trên Văn Học, từ hồi Diễm ơi, xưa rồi!

Những người muôn năm cũ...

Trong một truyện ngắn của Tâm Thanh, trên tạp chí Văn Học (Hoa-kỳ), nhân vật chính, một nhiếp ảnh viên chuyên chụp hình lãnh tụ: cuối cùng anh thợ chụp phát điên.

Tác giả Đêm giữa ban ngày, (Vũ Thư Hiên), hình như cũng đã gặp cùng nỗi khổ tâm, khi ngưng camera chụp cảnh ông Hồ ôm dép qua chỗ lội.

Kundera kể chuyện, chủ tịch nước đứng trên bao lơn phủ dụ nhân dân. Trời lành lạnh, ông quên đem khăn, ông số hai bèn lấy khăn của mình choàng lên mình lãnh tụ; khi ông bị thủ tiêu, người ta bôi bỏ hình ông đứng kế bên chủ tịch nước, nhưng cái khăn thì vẫn còn đó!

Tưởng chuyện đùa, nhưng cuộc truy tìm những nhân vật mất tích sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, không ngờ là một đề tài cho nhiều tác giả. Sau đây là tóm lược bài viết của Tatyana Tolstaya, đăng trên The New York Review of Books, số tháng Giêng, 1998, về hai cuốn Chính Uỷ Biến Mất: Ngụy Tạo Hình Ảnh và Nghệ Thuật ở Nga thời kỳ Stalin (David King, 192 trang, nhà xb Metropolitan Books, 1997), và Nhìn Tận Mắt Lịch sử: Những Bức Hình của Yevgeny Khaldei (96 trang, nhà xb Aperture, 1997).

Trẻ con, lúc này lúc nọ, thường tự dưng nổi hứng thêm một bộ ria, hay cặp kính, vào một tấm hình cô/cậu vớ được. Cuốn lịch sử đời tôi (Tolstaya) trông cứ như một ngày hội hóa trang! Rồi năm tháng trôi đi, cô/cậu lớn dần, bỗng một ngày, tỏ ra nghi ngờ, hoặc giật mình về mối liên hệ giữa ta bây giờ, và ta trong hình: Lạ nhỉ, không lẽ mình hồi đó lại mập đến thế? Thôi, tốt nhất là giấu biến tấm hình này đi! Con bạn đứng kế mình là con nào? Phải rồi, hai đứa hồi đó cùng quen anh A. Hình này mà đến tay ông xã, cộng thêm chút mắm muối của một đệ tam nhân nào đó, là phiền lắm, tốt nhất cắt phăng nó đi!

Tất cả chuyện đời thường. Chúng ta là ai, nói cho cùng? Con người thôi. Nhưng chuyện gì xẩy ra, nếu một thường nhân chúng ta, một bữa trở thành bạo chúa?

Bộ album của David King mở ra bằng bức hình mầu Stalin, thời còn Lênin; do Andreyev chụp vào năm 1922. Nhà nghệ sĩ nhân dân hình như đang phải đánh vật với những đường viền: một phần trán sao âm u như chết rồi, mấy sợi tóc sao dính bết vào nhau như vậy, cái đầu sao không cân xứng chút nào! Nhưng làn da, những vết nhăn, bộ râu Caucasus nặng chình chịch như vậy đạt lắm, sếp lớn không nghĩ là mình nịnh bợ đâu, chỉ là vấn đề lịch sự, nhã nhặn của bầy tôi đối với chúa thôi! Còn Stalin ở đây coi bộ già hơn tuổi 42. Người chưa nắm quyền, nhưng bạn có thể nhận ra, đằng sau cặp mắt đó, cái miệng kia là những tham vọng ngấm ngầm, và sự thận trọng. Không biết nhà độc tài có thích tấm hình không nhỉ? Nhìn hình, như nghe văng vẳng lời bình phẩm của Lênin: Gớm, tay Georgian kỳ tài này!

Nhưng sao có những khoảng trống kỳ kỳ. Toàn bộ sưu tập, ngay từ trang đầu, như đang trao đổi một mẩu chuyện khôi hài đen với người coi: xuyên qua thời kỳ Xô-viết, đặc biệt dưới thời Stalin, lịch sử nhập thân vào những bức hình, đã được tẩy xóa, vặn vẹo, đánh bóng, làm sạch, chỉnh huấn, cho đi cải tạo... đến nỗi không sao nhận ra được nữa. Bộ sưu tập cho thấy từng người một, đã biến mất như thế nào, theo nhu cầu chính trị, để lại một cái hố, một khoảng trống, giữa những đồng chí của họ; làm phiền biết mấy cho những nghệ nhân, chỗ này phải dậm thêm một chút mây, chút khói, chỗ kia cài vào một chậu bông. Đôi khi, kẻ biến mất như cố tình bám chặt lấy người bạn đồng chí đứng kế, không muốn nhạt nhòa vào hư không, và một cái nhìn chăm chú, cộng thêm cặp kiếng ngoại, vậy là bạn nhận ra chỗ này là vai của kẻ đã ra đi, chỗ kia là chân trái, cái tay chắc là quàng phía sau người đồng chí có thể là nguyên nhân đầu tiên của tai họa... Đâu có cần nhắc nhở bạn, những con người bị xé ra khỏi những bức hình như thế đã bị ném vào Gulag, biến thành bụi trại (camp dust). Cũng đâu cần, vợ chồng con cái, cha mẹ anh em họ hàng của họ, cũng đã biến thành bụi...

Nhìn bộ sưu tập chúng ta nhận ra một sự thực: Trotsky chưa từng hiện hữu, cùng với ông là một danh sách dài: Zinoviev, Kamenev, Radek, Bukharin, Belinski... Đấy là người. Con ó hai đầu ở tiền đình Nhà Hát Lớn, Bolshoi Theater cũng biến mất. Hai năm cuối đời của một Lênin ngắc ngoải, liệt bại, với nụ cười ngây ngô, khờ khạo cũng biến mất, thay vào đó là một Lênin mạnh khỏe cho tới hơi thở cuối cùng, với Stalin luôn luôn ở kế bên, trên con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa, trong những chuyến đi, vào những thời điểm quyết định quan trọng. Như một cậu học trò ngỡ ngàng, hay một bậc cha chú đáng yêu, ông lắng nghe những lời vàng ngọc của Stalin, với một sự quan tâm và ngưỡng mộ, lúc nào cũng như đang uống từng hớp thiên tài người Georgia. Có những bức hình cho thấy một Stalin không hề già đi, ngày một thêm khôn ngoan ra. Cũng cần có một tí chút mệt mỏi nữa chứ: Người vừa bẽ gẫy sống lưng Phát-xít, tóm gọn một nửa Âu-châu, chỉ với hai bàn tay. Nụ cười của Người, trong lễ sinh nhật lần thứ 70 sao rạng rỡ, sao bất tử, sao nhập thế, như của Phật!

Rồi hàng triệu triệu con người biến mất, như chưa từng hiện hữu. T. Tolstaya tự hỏi, tại sao không xây dựng một viện bảo tàng, trưng bầy đầu lâu, mà phải làm như triệu triệu kẻ thù chưa từng hiện hữu? Và bà tự trả lời, ngoài những lý do hiển nhiên, còn những nguyên nhân kỳ bí, ngoại lý; chúng làm vẩn đục tâm hồn vốn đã u tối của vị bạo chúa. Có một lề luật cổ xưa về huyền thuật: kêu tên quỉ, quỉ tới liền! Tín đồ nói đến quỉ ma một cách gián tiếp, tránh gọi thẳng tên. Đó cũng là lý do tượng Chúa, nhà thờ tất cả đều bị triệt hạ, huỷ diệt. Như đã chưa từng hiện hữu. Như sẽ chẳng bao giờ hiện hữu.

Tận Mắt Nhìn Lịch Sử như muốn trả lời câu hỏi: Nghệ thuật nhiếp ảnh là gì, hay rõ hơn, đâu là độ nói dối được cho phép, đối với một nhiếp ảnh viên, khi thực tại, và nghệ thuật gặp nhau ở ống kính?

Cuộc đời Khaldei thật là bi thảm, và khác thường. Là con, trong một gia đình Do-thái nghèo tại Ukraine. Mẹ chết trong vụ thanh trừng vào năm 1918, viên đạn xuyên qua thân thể bà nằm luôn trong đứa con trai mới gần năm. Cả gia đình, hai thập niên sau đó bị lính Đức giết hết, còn trơ mình ông. Học tới lớp tư phải bỏ, lo kiếm sống. Thiên tài bẩm sinh, máy hình đầu tiên là do ông tự làm lấy, và vào nghề thợ chụp ngay từ khi còn nhỏ. Vác máy hình, đi trọn cuộc chiến, làm cho thông tấn TASS và nhật báo Pravda. Bức hình chụp tấm băng đỏ gói trọn vẻ ngạo nghễ của Tòa Nhà Quốc Hội Đức, Reichstag, là của ông. Tuy trọn đời hiến dâng cho nghệ thuật Xô-viết, nhưng ông mất việc hai lần. Ông mất tháng Mười 1997, sau khi bộ sưu tập của ông được in ra. Có một số hình trong đó chưa hề được biết đến, và chúng cho thấy một điều là những cái trước, và sau cuộc chiến như thuộc hai con người khác nhau. Những tấm sau là những thí dụ tồi tệ nhất, về Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng không phải những tấm trước đó không có điều khác thường. Tolstaya cho biết về bức hình nổi tiếng nhất của ông, trang 60-61, chụp người lính Xô-viết giương cao tấm băng đỏ trên đỉnh Reichstag: một người sĩ quan phải giữ chân người lính, cho anh ta khỏi té. Tay viên sĩ quan đeo đồng hồ. Sau khi rửa hình, người ta nhận ra viên sĩ quan không phải chỉ đeo có một, mà tới hai cái đồng hồ lận! Lại phải cạo sửa lịch sử! Còn tấm băng đỏ, ở đâu mà có sẵn, nhanh như vậy? Hóa ra là, nhiếp ảnh viên Khaldei, vốn đã sửa soạn sẵn cho tấm hình nổi danh của đời mình, ngay từ Moscow, và đã cẩn thận mang theo, không phải một mà tới ba tấm băng đỏ! Người viết nghe nói bức hình lịch sử chụp cảnh xe tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải chụp tới hai lần. Ủi sập rồi, lại phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn tin rất đáng tin, nhưng vì không tận mắt chứng kiến (lịch sử), cho nên đành ngưng tại đây. 

NQT

Chú thích

Người viết sau đó được biết, Bùi Tín đã xác nhận chuyện này. Ông cho biết thêm, cả tấm hình lịch sử cờ CS phấp phới trên đỉnh Điện Biên Phủ, cũng được "làm lại".)


*

Bộ mặt đen của nước Nga của Putin:
Tương Lai nước Mít thì sẽ như cái nôi của Cách Mạng Vô Sản thôi!


Alexandre Đại Đế!

Alexandre Soljenitsyne, Lioudmila Saraskina. traduit du russe par Marilyne Fellous, éd. Fayard, 938 p., 39 €.

Par Veronika Dorman

Quelle est la tâche du biographe d'Alexandre Soljenitsyne, le mémorialiste du goulag dont la destinée ne se distingue guère de l'œuvre, en grande partie autobiographique? Le Chêne et le Veau, Le Grain tombé entre les meules: sur fond de xxe siècle, Soljenitsyne se raconte, s'explique et se confesse, ne laissant cette charge à personne. Hautement littéraires, ses romans et nouvelles n'ont de fictif que les noms des personnages. Ivan Denissovitch est né au goulag; Kostoglotov, l'exilé au Pavillon des cancéreux, ou le taciturne Nerjine, prisonnier du Premier Cercle, déguisent à peine leur prototype.

L'homme Soljenitsyne lui-même disparaissait derrière le message que l'on attendait ou entendait de lui. Articles, essais, mémoires de ceux qui l'ont connu ou non, ont tour à tour porté aux nues ou traîné dans la boue sa pensée, sa vision de l'histoire, ses convictions. Mais, de l'homme, on ne savait vraiment que ce qu'il voulait livrer lui-même, et ce qu'il connaissait et comprenait des rouages de son destin. À l'heure où la Russie lui ouvre les portes de son panthéon en lui offrant des funérailles nationales (août 2008), l'ouvrage de Liouddmila Saraskina se charge de restituer Soljenitsyne dans la vérité circonstanciée de sa vie. Historienne de la litttérature russe et spécialiste de Dostoïevski, Lioudmila Saraskina, devenue une proche de la famille, s'est sentie investie d'une charge supérieure: laver des mensonges et de la calomnie la biographie de Soljenitsyne, dissiper les légendes accumulées au fil des années, par désinformation volontaire ou erreur fortuite.

Les caprices de la Providence (identifiée par Soljenittsyne lui-même: « Je ne suis qu'un olaive bien affûté, brandi contre la force impure ", Le Chêne et le Veau), qui oscille entre échecs cruels et victoires inespérées, ont forgé une trame toute romanesque à la vie de l'écrivain. En racontant l'arrestation, l'instruction, l'expérience concentrationnaire, l'exil, le premier mariage avec Natalia Rechetovskaïa, puis le second avec Natalia Svetiova, le dur labeur clandestin, puis la percée triommphale, les années de résistance au pouvoir, suivies de l'expulsion, l'historienne suit la narration formée par l'ensemble des œuvres de Soljenitsyne. Mais, en chercheur assidu, elle va plus loin, brassant des masses extraordinaires de documents privés et d'archives, de lettres et de journaux. Elle confronte ce “que tout le monde sait” avec ce que l'écrivain autobiographe ignoorait lui-même. Dans un essai d'investigation biographique, Lioudmila Saraskina dirige un chœur polyphonique et dissonant de voix qui se mêlent à celle de son personnage principal, génie ombrageux et implaacable lutteur, mais aussi mari amoureux, ami passionné, père attentif. Elle fait dialoguer l'homme privé et la figure historique, tantôt citant Soljenitsyne dans le texte, tantôt rapportant ses paroles recueillies lors de leurs longues conversations. Elle donne le mot aux amis et aux détracteurs, aux premiers camarades de jeunesse et aux invisibles complices dans son combat contre le système; et elle étoffe le récit à la lumière des archives du KGB, inaccessibles auparavant. Jouissant de la confiance de la famille et des proches, Lioudmila Saraskina a eu accès à un corpus immense de documents inconnus. Les carnets et les cahiers de l'enfant, de l'adolescent et de l'étudiant Soljenitsyne permettent de retracer la genèse de l'écrivain et de disssiper un mystère: Une journée d'Ivan Denissovitch n'est pas un « premier roman », ce n'est pas l'œuvre miraculeuse d'un écrivain débutant, mais un texte mâture rédigé par une plume avec trente ans d'expérience littéraire. La biographe consacre une centaine de pages au capitaine Soljenitsyne, artilleur dans l'arrmée rouge, chapitre méconnu, déprécié par l'écrivain car antérieur à sa « naissance» en tant que membre de la nation zek (les détenus du goulag). En le restituant en détail, souvenirs et carnets de guerre à l'appui, Lioudmila Saraskina balaie les rumeurs encore tenaces sur la désertion prétendue de Soljenitsyne. Elle puise avec délicatesse dans la trentaine de carnets de Natalia (Svetlova) Soljenitsyne, tenus pendant les années d'exil aux États-Unis, et dresse un tableau intimiste et vivant du quotidien studieux dans l'ermitage vermontais. Absorbée par sa mission apologétique, qu'elle définit « au sens premier du terme grec apologia, l'intercesssion, le devoir endossé en toute conscience de justifier son objet aux yeux de l'histoire, le défendre devant le jugement injuste de la société» (début du premier chapitre), étourdie par la destinée kaléidoscopique qu'elle cherche à fixer, Lioudmila Saraskina s'éprend de son sujet et livre un ouvrage aussi documenté et précis qu'exalté et militant. Son noble désir de rétablir la vérité et sa sensibilité affectueuse lui ont permis de dresser une fresque vigoureuse et captivante de la vie d'un géant infiniment humain. Mais ces mêmes qualités semblent l'avoir empêchée d'apprécier objectiveement les dernières décennies de la vie de son personnage, les relations tourmentées, tissées de malentendus, de Soljenitsyne et de la troisième vague de l'émigration russe, les retrouvailles manquées entre le héraut de l'anticommunisme et les démonteurs du système communiste dans la Russie postsoviétique. Elle s'est contenntée, dans ces derniers chapitres, de regarder ces événements avec les yeux de Soljenitsyne, sans prendre de distance critique.

Malgré cet écueil- prévisible dès lors que Soljenitsyne a accepté de cautionner sa biographie -, on ne peut reprocher à Lioudmila Saraskina d'avoir succombé à la tentation de battre le fer à chaud, sans se donner le temps d'approcher un phénomène si monumental qu'on le discerne mal de près; pas plus que d'avoir usé à mauvais escient de ses relations personnelles avec l'écrivain. Sa partialité inaugure plus de pistes de réflexion et de débat qu'elle ne ferme de portes. Ce livre, même polémique, deviendra un ouvrage de réféérence. Le mystère Soljenitsyne, lui, reste entier.

Le Magazine Littéraire Novembre 2010


Andrei Makine

*

Thư độc giả:
Trung thành với Đọc, mua dài hạn từ lâu lắm, ta rất ư ngạc nhiên khi thấy báo chẳng bao giờ nhắc tới những cuốn tiểu thuyết của Andrei Makine? Trong khi, đây là 1 nhà văn đương thời rất bảnh. Báo cũng chẳng thèm nhắc tới cuốn mới ra lò của ông ta: Cuộc đời 1 gã cà chớn, đếch ai thèm biết đến.
Hãy giải thích cho ta biết, lý do của sự im lặng này!
GNV


Kundera: Gặp gỡ

*


Gọi Người Đã Chết

**

Smiley tới đó, ngay sau tám giờ sáng, sau khi để xe hơi tại đồn cảnh sát, chừng 10 phút đi bộ.
Mưa thật lớn, thật nặng, và thật lạnh, phủ đầy mặt.

[Bản tiếng Anh: … so cold it felt hard upon the face. Bản tiếng Tẩy: mưa lạnh, như những ngọn roi quất tàn bạo vào mặt, si froid qu’elle vous fouettait cruellement le visage. Bản tiếng Tây còn lược bỏ những đoạn không cần thiết, theo dịch giả, chắc hẳn!]

Cảnh sát Surrey chẳng có tí quan tâm gì thêm về trường hợp này, nhưng Chim Sẻ cũng gửi xuống một sĩ quan thuộc Ngành Đặc Biệt, gốc thuộc đồn cảnh sát, xử sự như 1 tay liên lạc, nếu cần thiết, giữa An Ninh và cảnh sát. Chẳng có chi nghi ngờ về cái chết của Fennan. Anh ta bị bắn, xuyên qua má, trực diện, bởi một khẩu súng lục do Pháp chế tạo ở Lille vào năm 1957. Khẩu súng nằm kế ngay tử thi. Toàn cảnh cho thấy, đây là một vụ tự tử.

Căn nhà số 15 Merridale Lane thấp, theo kiểu Tudor, với những phòng ngủ được xây cất ở khu đầu hồi, và một nhà để xe vách bằng gỗ. Dáng nhà rất cẩu thả, bê bối, gần như bỏ hoang. Smiley có ý nghĩ, nhà của đám nghệ sĩ. Fennan có vẻ không hợp với nơi này. Fennan phải là khu Hampstead và những cô gái ngoại quốc au-pair [cặp đôi].
Anh nhắc then ngang mở cánh cửa vườn, và bước chầm chậm theo lối đi, lên tới cửa trước căn nhà, cố gắng một cách vô ích nhận ra một dấu hiệu nào đó động đậy ở phía bên trong những cánh cửa sổ kính dầy, khung chì. Lạnh. Anh nhấn chuông.
Elsa Fennan mở cửa.
“Họ có điện thoại, liệu có phiền cho tôi không. Tôi cũng chẳng biết nói sao. Xin mời…”
Giọng có tí “Huệ” [tí Đức, sorry K/0]




DTL vs ST


Mémoirs

GNV tính thu gom ba bài viết có tính kỷ niệm, hồi ký, chuyện nghề... vô đây, thong thả sẽ edit, thành 1 cuốn kiểu như của mấy tay VC Nguyễn Khải, Tô Hoài... “Đi tìm cái ác đã mất"