|
Do trục
trặc kỹ thuật, trang TV homepage bị mất, không recover được.
Chẳng biết mất những bài nào nữa!
Sorry abt that
Trang này là lấy từ Nhật
Ký TV
Chúc
Mừng Năm Mới 2011
Thơ mỗi ngày
Charles
Simic
Against
Winter
The truth is
dark under your eyelids.
What are you
going to do about it?
The birds
are silent; there's no one to ask.
All day long
you'll squint at the gray sky.
When the
wind blows you'll shiver like straw.
A meek
little lamb you grew your wool
Till they
came after you with huge shears
Flies
hovered over your open mouth,
Then they,
too, flew off like the leaves,
The bare
branches reached after them in vain.
Winter
coming. Like the last heroic soldier
Of a
defeated army, you'll stay at your post,
Head bared
to the first snowflake.
Till a
neighbor comes to yell at you,
You're
crazier than the weather, Charlie.
The Paris
Review, Issue 137,1995
Chống Đông
Sự thực thì
mầu xám dưới mi mắt anh
Anh sẽ làm gì
với nó?
Chim chóc nín
thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày dài
anh lé xệch ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió
thổi, anh run như cọng rơm.
Con cừu nhỏ,
anh vỗ béo bộ lông của anh
Cho tới bữa
họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ
trên cái miệng há hốc của anh
Rồi chúng cũng
bay đi như những chiếc lá
Cành cây trần
trụi với theo nhưng vô ích.
Mùa Đông tới.
Như tên lính anh dũng cuối cùng
Của một đạo
quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng
về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi
người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng
hơn cả thời tiết, Charlie.
Cái cú dịch
thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu, khi
đọc
Steiner! Sướng mê tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản thì
nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít ngộ
độc nặng
với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít ăn
cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.
[Thế còn cái
Cô Mai Cô Mốt của Thầy đâu rồi? Ghi tạm ở đây, tính sau].
Những dòng
thơ giết người Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm, là từ đó mà ra, và còn từ
giấc mơ
tuyệt vời có từ khi có giống Mít, nhằm giải trừ lời nguyền BHD là giống
Tiên, Gấu
là giống Rừng, [Rồng], không thể ăn đời ở kiếp mí nhau được.
Bài viết này,
mới manh nha bắt đầu, nhưng sẽ có cái tên là Ngợi ca cho cái vụ dịch
thơ, để ‘phản
biện’ K!
Hà, hà!
Egypt: The
Cultural Revolution
Tác giả bài tiểu luận này,
Robyn Creswell, là
biên tập viên thi ca của tờ The
Paris Review. Ông coi cuộc cách mạng Ai Cập là
cách mạng văn hóa.
Mít không có thứ cách mạng này!
VC đừng lo!
Nhân
Ngày
Tình Yêu
Cả 1 dòng sông đứng lại chờ
[nhạc]
Thơ TMT không
‘tục lụy’, như thơ DTL. Thí dụ, DTL có những câu như “tôi hôn người,
hôn môi, rất
tham” [?], TMT, không:
Môi
tôi mùi
thuốc còn thơm hơi
Tuyệt!
Thơ TMT
gần với cõi thơ Bà Huyện Thanh Quan, nhưng lâu lâu, cũng “hạ
trần”, nhất là hai câu này, quái thay, lại làm nhớ đến 1 thần nữ trong
văn học
Tầu:
Tôi xa người
như xa cơn mưa
Tóc tôi còn
ướt đến bây giờ
Đến bây giờ,
đến bao giờ, đến hoài hoài, đến mãi mãi!
Ngày tình
nhân
Love me
TMT
Chiều
ngu ngơ
phố thị
Bài thơ này,
mở ra cõi thơ của Gấu, làm, đúng những ngày vừa tới xứ lạnh, gặp lại cô
bạn ngày
nào, nhưng đầu óc thì vẫn ở trại tị nạn!
Thành thử cô
bạn cũng bực, và có lần hỏi, thế còn cái cô ‘còn chút mồ hôi’ đâu rồi?
Đọc, thì cũng
nên đọc thêm cái mẩu Bụi, và cái câu thơ thần sầu, chúng
mình chỉ là hai hạt bụi
lỡ thương nhau, rồi sau đó, hát 1 khúc TCS, ngày sau sỏi đá cũng cần có
nhau,
thì mới đủ bộ!
Sikiew nổi
tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những
giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Chúng mình
chỉ là hai hạt bụi lỡ thương nhau.
Người xưa
thèm nắm áo đề thơ.
Có lần anh mơ thấy em.
Và sau đây là bài thơ nắm áo:
Chiều ngu ngơ phố thị...
*
Môi
tôi mùi thuốc còn thơm hơi
Trong Yêu của Chu
Tử, có xen, sau cơn mưa, thằng đàn ông với
gói thuốc, rút 1 điếu, làm 1 hơi, mắt lim dim, mặc xác em nằm tê hê, và
tác giả,
kẻ kể chuyện, thay mặt người đàn bà, mọi người đàn bà, chửi toáng lên,
nó coi
mình không bằng hơi thuốc lá của nó!
Già quá rồi,
quá đát rồi, nói chuyện ngày tình nhân, không sợ con nít nó cuời cho ư….
Bất giác nhớ
đến bài thơ sau đây, do Czeslaw Milosz tuyển chọn.
ANNA SWIR
1909-1984
Poems about
an old woman are rare, as if there were a tendency to relegate her to
the realm
of half-existence. But Polish poet Anna Swir returns to that subject
several
times with love and compassion.
Thơ về bà già
thì hiếm, như thể, có khuynh hướng coi bà già thuộc ‘nửa cõi’, [chân
trong chân ngoài,
huyệt; hay, giường?].
Tuy nhiên nhà
thơ nữ Ba Lan,
Anna Swir, trở
lại với đề tài này vài lần, với tình yêu và cảm thông
THE GREATEST
LOVE
She is
sixty. She lives
the greatest
love of her life.
She walks
arm-in-arm with her dear one,
her hair
streams in the wind.
Her dear one
says:
"You
have hair like pearls."
Her children
say:
"Old
fool."
Translated from the Polish
by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
Mối tình vĩ đại nhất
Nàng sáu bó,
sống mối tình
lớn lao nhất của nàng.
Nàng dạo bước,
tay trong tay với người tình
Tóc nàng chảy dài theo gió
Người yêu nịnh
nàng:
“Tóc em như
ngọc trai”.
Mấy đứa con
của nàng thì gật gù:
“Đúng là bà
già khùng!”
*
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
*
THE VOICE AT 3:00 A.M.
Who put canned laughter
Into my crucifixion scene?
Charles Simic
*
Last Meal
The waiter was dressed in black
and wore a hood
and when we told him we needed a little more time,
his pencil froze in
the air above his pad.
And later when he came back
to ask if we were finished, we shook our
heads no,
our forks still raised over our empty plates.
BILLY COLLINS
TLS JANUARY 21 2011
Note: Hai
bài thơ trên, thật tình cờ, cùng đề tài! Một nặng, một nhẹ, và đều,
khôn kham!
In the
company of ghosts
DAVID EVANS
Andrei:
Makine
THE LIFE OF
AN UNKNOWN MAN
Translated by Geoffrey Strachan
256pp.
Sceptre. £16.99. 978034099878 6
There is a
Chekhov story in which a young woman joins a friend for a ride on a
toboggan.
As they rush through the snow, she hears him whisper in her ear: "I
love
you, Nadenka". Did he really say those words? Or did she just imagine
it?
They grow apart, settle down, have children. Two decades pass. Then one
day
they meet again, and board a toboggan together. As they pick up speed,
the
woman hears her old friend confide once more: "I love you, Nadenka".
At least,
that is how Shutov, the protagonist of The Life of an Unknown Man,
remembers
the story. As the novel begins, we find him reciting the tale from
memory,
recalling with fondness its old-fashioned romance. But the version he
tells
differs exquisitely from Chekhov's tale. Shutov has forgotten that the
story is
called "Shutochka" or "A Little Joke"; that whispered
declaration of love was a cruel prank, and the happy reconciliation
never
occurred in the ·original.
It is a
beautifully subtle piece of characterization; the mistake reveals
Shutov's tendency
to fall back on comforting illusions. A middle-aged, moderately
successful
Russian novelist settled in Paris, he idealizes the country of his
birth but
hasn't visited it in twenty years. He prefers the company of characters
in
books ("faithful ghosts . . . the creatures brought into being by
writers") to that of his flesh-and-blood girlfriend. When she leaves
him,
he experiences something like a midlife crisis, and decides to return
to Russia
to track down Yana, an old flame.
He finds her
in St Petersburg, but she shows little interest in him. Disheartened,
he
wanders Nevsky Prospekt, bewildered by the "frenzied materialism" of
the New Russia. He encounters Volsky, an elderly man who reminisces
about his
wartime experiences. Shutov listens, humbled, as Volsky speaks of the
siege of
Leningrad and the privations of Stalin's gulags. The man's tale has a
luminous,
didactic quality, like a fable, and it leads Shutov to an epiphany; he
will give
up his bourgeois fiction and write a new kind of book, a tribute to the
"unvoiced" men and women of his country's past.
Like his finest
work, Le Testament Francais (which was awarded the Prix Goncourt in
1995),
Andrei' Makine's latest novel is about memory, both personal and
historical.
Although he lives in exile and writes in French, Makine grew up in the
Soviet
Union, and his novel examines and dramatizes attitudes towards the
Communist
period in present-day Russia, He criticizes the blithe
"forgetfulness" of the country's youth, who have "turned the
page of history" with "vigorous indifference", But he also
satirizes the nostalgia of an older generation who cling pathetically
to
"the wretched vestiges of those days". Is Shutov any different? Or
does his decision to write about the Soviet era at the end of the book
represent a retreat into a romanticized Russian past? One suspects that
his new
project may just be another exercise in self-deception, like the
bowdlerized
Chekhov story.
In any case,
this masterful novel resists easy answers. It finds Makine at the
height of his
powers: in the book's latter stages, he alternates dazzlingly, between
the
intimate Shutov narrative and the more expansive Vol sky saga, spinning
a
compelling, Beckettian vision of history as a "whirligig absurdity".
Rich, artful, and affecting, The Life of an Unknown Man secures
Makine's place
in the first rank of European novelists.
Kẻ Lạ Lạ
Người đầu tiên
giới thiệu LD với độc giả Mít, "hình như" là GNV, qua bài viết về "Vu
Khống", trên mục Tạp Ghi của báo Văn Học, của NMG, thời gian 1997, có
thể, khi bản
tiếng Anh ra lò, trên tờ TLS.
Báo này không ưa Tây, và tất nhiên, chẳng
ưa
Linda Lê, và, qua bài báo, như Gấu còn nhớ được, coi bà là đệ tử của
Cioran, và đặt
bài viết dưới 1 cái tít rất ư là khốn nạn, Dẫn Khách Cho Văn
Chương! (1)
(1)
Pimping
for literature SLANDER By Linda Le Translated by
Esther Allen
156pp. Lincoln...influences on the Vietnamese-born writer, Linda
Le,
and these same terms abound in Le...well: habituation and
memory
loss." Linda Le has said...
Jean McNeil
14 February 1997
Tưởng nhớ
Nguyễn Tôn Nhan
Điếu văn bên
mồ
Ông bạn mới
mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy
Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính
trị gia hôn con nít
[Và, tất
nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H !]
Ghét đờn bà
ngọt như mía lùi
Bạn tôi
thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm (1)
Thích mấy em
trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết
bạn
Chim xoa đầu
thời tiết, khi chúng đang ị.
Note: Mượn
hoa hiến Phật, bài thơ trên, đọc trước mồ bạn ta mà chẳng tuyệt sao?
Từ ‘xoa đầu’
mắc [đắt] thật. Làm Gấu nhớ những lần được ‘xoa đầu’!
Hà, hà!
(1) Nguyên
văn: Thích mấy tên say ở nhà thờ.
@ Văn Hóa
Magazine, lần NTN viếng thăm Tiểu Sài Gòn, 3.2008.
Bức hình nổi tiếng của chủ bút & chủ nhiệm & nhiếp ảnh gia Lý
Kiến Cắn
[Lý Kiến Trúc]
Chỉ có GNV dám ngồi dưới bức hình!
Gửi
một người
yêu
DTL vs ST
Báo Văn số
79
Mémoirs
Note: Giọng văn
TPG, trong Tin văn… vắn, và trả lời thư độc giả.
Steinbeck mà còn không hiểu ra được câu hỏi của Xìn Phóng!
Đếch thèm phỏng vấn Steinbeck nữa, mới ghê!
Đâu phải thứ thường!
Có câu trả lời độc giả của
TTT: Đừng buồn nhé!
Câu hỏi của Trình Bày, chắc của Thế Nguyên.
Ông này cũng hách lắm!
Đêm đọc thơ ở
Đà Lạt: Ông số 2 hồi đó hoạt động dữ lắm! Cho thơ tới với quần chúng,
lên TV,
ra mặt trận, tới cả Ấp Chiến Lược luôn!
Khiếp!
Chữ
này Gấu thuổng của ông VD, khen văn Thầy Cuốc!
Thầy mê lắm!
VD chắc cũng
thuổng, từ tiếu lâm, câu chuyện ở sân gà vịt ở Hà Nội, toàn con
ông cháu
cha... Một bữa, mới sáng sớm là anh gà trống đã lôi chị gà mái ra
làm thịt
rồi. Gặp thứ mái tơ, chị ả la, vừa đau vừa rát, vừa đau vừa
rát! Anh chó tò mò, hỏi, đâu, đâu? ... Con ngan lắc đầu, mặc, mặc,
đến đàn
gà con, khiếp, khiếp.... Sau cùng anh gà trống phán, đời chỉ có thế mà
thôi!
Hà, hà!
Thời Tập
5.5.1974
Ngôi trường bên chợ Đũi
Bài viết
này, sơ sài quá. Hơn nữa, khó mà gọi trường Trường Sơn là “bên Chợ Đũi”
được.
TS nằm gần
ngã tư Hồng Thập Tự/Lê Văn Duyệt, Chợ Đũi nằm tại ngã tư Trần Quý
Cáp/Lê Văn
Duyệt, bên kia chợ là cái quán cà phê hủ tíu Tầu, Thánh Địa, nơi Gấu
vẫn hẹn gặp
BHD, mỗi lần em đưa cô em gái tới trường trung học Kiến Thiết, nằm trên
một con
hẻm cũng gần đó, trên đường Trần Quý Cáp.
Nhà HPA trên
1 con hẻm quá chút nữa. Khu này hồi đó đó có những quán sách cũ, Gấu và
HPA ưa
lục lọi, nào nrf, nào Ellery Queen, nào SF, nào série noire…
GNV đọc bài
điểm cuốn Những Kẻ Mộng Du của Koestler tại đây, và nhớ hoài cái vòng
tròn ma
quái, vòng tròn tuyệt hảo, vòng tròn chúc dữ, là chủ nghĩa CS thần kỳ
đưa loài
người tới Thái Bường, không còn người bóc lột người!
Trong những
giáo sư của trường, tay viết bài này quên nhà thơ TTT!
Bạn C, trong
Thất Hiền, sau khi rớt Tú Tài, hết còn được học CVA, bèn ra đây học,
chắc là khỏi
phải trả tiền.
Chính ở đây,
bạn ta quen người đẹp có cái tên thật là tuyệt vời Lạnh Thì Tuyết Rơi!
Cuộc tình
không đi tới đâu, nhưng em quả là đẹp thật!
Sau em quen
DNM, cũng 1 nhân vật giang hồ, được ông Chánh Tổng An Nam tại Paris
nhắc tới,
trong bài viết về BL, khi nhà thơ ra đi. DNM sau tự tử, tại Canada,
theo DT.
Cái chỗ mà
sau này là trường TS đó, là 1 trong những nơi chốn đầu tiên Gấu ghé,
khi vừa mới
tới Sài Gòn, vì là nhà của ông cử Ngô Thúc Địch, bà con với ký giả Hiếu
Chân.
Con trai ông cử,
là Ngô Tôn Liên, sau là bác sĩ nổi tiếng. Gấu phải gọi là Chú. Ông này
có chỉ bảo
Gấu mấy đường Toán, nhờ đó, Gấu tự mình tìm ra phương trình đường
thẳng, đem đi
khoe anh bạn cùng học NKL, anh thương hại lắc đầu vô nhà lấy cuốn sách
toán, chỉ
cho Gấu thấy, thứ này, người ta kiếm ra từ hồi nảo hồi nào rồi.
Gấu đọc mà cảm
thấy thê lương vô cùng, hóa ra cái chó gì thì loài người cũng đều đã
biết tỏng,
tại sao còn cho Gấu ra đời làm cái chó gì nữa hả ông Trời!
Hoá ra là Gấu
ra đời, là chỉ để gặp BHD!
Để được ghé
Thánh Địa, là cái quán cà phê ngã tư Chợ Đũi, để chờ Thánh Nữ, BHD, và
nhờ vậy mà sau
này viết được Thánh Truyện, Hà Nội Của Gấu!
… Lần cuối
cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong
Chợ Lớn.
Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ
cô bé đưa
em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang
bữa ăn
chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi
sáng
em thấy chị đi với anh Gấu."
Bạn bè, cô,
và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ
nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại
những
kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh
nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y
khoa, suốt
quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn
nói, con
này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ
(có lần
anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa đó, mưa
lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ
hồ hy vọng
những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những
kỷ niệm
Về một cô
gái,
Về Hà Nội, độc,
và đẹp...
*
Khu Chợ
Đũi,
Huỳnh
Phan
Anh, và tôi
Hồi mới tới Sài-gòn, nơi chốn đầu tiên mà tôi
làm quen, là khu chợ Vườn Chuối.
Chuyến đó ở
trên tầu Rắn Biển, Marine Serpent hơi lâu, vì phải đợi ngài Hồng Y
Spellman ghé
thăm và ban phước lành cho đồng bào di cư.
Trong khi chờ đợi, chẳng
biết làm
gì, họ kéo nhau lên boong, ăn hột vịt lộn từ mấy chiếc ghe nhỏ chuyền
lên, ngắm
thành phố, làm con tầu khổng lồ nghiêng hẳn sang một bên.
Xưa quá rồi
Diễm ơi,
nhưng sao thỉnh thoảng vẫn mơ thấy những con sóng đuổi theo con tầu như
cố níu
kéo, mấy bà Bắc-kỳ hè nhau mở cánh cửa khoang tầu thay vì nhẹ nhàng vặn
vô
lăng, mấy đấng đàn ông đứng ngay trên boong "mở cửa sổ ngó xuống biển",
gió tạt vào mấy anh lính thuỷ hạm đội 7 ở phía dưới.
(A, thì ra đó là
lý do tại
sao nước biển mặn. Cả triệu con người chứ ít ỏi gì! Nhân vật Nguyễn của
nhà văn
thèm giang hồ, nhân một chuyến đi xa, đành soi gương, vuốt tóc, bằng
bãi nước
anh ta vừa thải, đám di cư còn "cơ may" tới được Miền Nam, đâu có suốt
đời phải "phóng uế" nơi đất người; phải có "căn phần" mới
được như Tôn Ngộ Không đi khắp ta bà, tận cùng thế giới, tè một
"phát" mà vẫn chưa ra khỏi bàn tay của quê nhà, ôi cái thú ăn, ngủ, đụ,
ị, ở
nơi quê hương, dân lưu vong dễ gì có được!)
Dải đất hình
chữ S xa xa, dọc theo con tầu, lúc ẩn lúc hiện...
Chuyến đó đi
một mình. Bà cụ cố vớt vát được đồng nào hay đồng đó, ở những phiên chợ
Trời mọc
lềnh khênh suốt thành phố Cảng. Chúng mới được di cư từ Hà-nội xuống.
Thủ đô
lúc này đã được tiếp quản, nhưng Hải-phòng còn chút ân huệ 300 ngày.
Chả là, ông
anh rể lấy bà chị họ, làm nhân viên Nha Thông Tin, sở làm ngay kế bên
Bờ Hồ;
khi xẩy ra vụ di cư, ông nhẩy qua quân đội, lãnh chức sĩ quan đồng hóa,
và lo
việc tiếp rước đồng bào tại đầu cầu Hải-phòng. Bà mẹ và đứa em ở lại đi
chuyến
chót, cùng ông anh. Cho thằng em vào trước lo việc học.
Rời con tầu,
mỗi người được phát 300 đồng. Những chuyến trước, tiền di cư "tính
liền",
nhưng chuyến đó, chỉ nhận được một mẩu biên nhận, mấy ngày sau tới Tổng
Uỷ Di
Cư, ở đường Trần Hưng Đạo đổi lấy tiền mặt.
Nếu không đến nhà bà chị ở
khu Vườn
Chuối, biết đâu lại có dịp tái ngộ người bạn Hà-nội, Đỗ Tiến Đức ở Nhà
Hát Lớn
thành phố, hoặc quen Viên Linh ở khu lều di cư Phú Thọ, ngay khúc
trường đua.
Xưa quá rồi Diễm ơi.
Trường Nguyễn
Trãi khi đó bị xóa sổ. Đây là nói về trường Nguyễn Trãi di cư, như Chu
Văn An
di cư, không phải trường Nguyễn Trãi sau này, ở miệt Khánh Hội.
Mò đến
Hồ Ngọc
Cẩn; thầy giám thị phán, "mê Hà-nội vào trễ, học lại lớp cũ."
Tiếc một
năm đèn sách, đành nhẩy ra trường tư. Ngày ngày lãnh trách nhiệm xách
một thùng
nước cho bà chị có sạp bún chả tại chợ Vườn Chuối, rồi băng con hẻm cắt
ngang
Phan Đình Phùng, Trần Cao Vân, Hồng Thập Tự. Trường Văn Lang của thầy
Nguyễn Khắc
Kham nằm trong một con hẻm ở đường Ngô Tùng Châu, kế nhà thờ Huyện Sĩ.
Nhà của
Huỳnh Phan Anh nằm ngay đầu con hẻm ăn ra đường Hồng Thập Tự, Khu Chợ
Đũi. Nhà
"cô bé" [BHD], cũng kế đó. Gần ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng.
Trường học
của cô bé, trường Kiến Thiết cũng kế đó, cách con hẻm "Huỳnh Phan
Anh" vài chục bước chân.
Khu này vốn nổi tiếng vì mấy tiệm sách cũ,
Huỳnh
Phan Anh và tôi đã từng lục lọi những số báo nrf, những cuốn tiểu
thuyết đen,
série noire.
Ít người Sài-gòn quên được món cơm xá xíu ngay đầu con hẻm
Kiến
Thiết.
Mấy đứa em của Huỳnh Phan Anh có đứa học chung với cô bé.
Đó là
những
chuyện sau này.
Tôi ở khu chợ
Vườn Chuối tới năm học Đệ Nhị, rồi qua Thủ Thiêm trọ học, nhờ bà cô mỗi
tháng từ
Pháp gửi tiền về, cộng thêm tiền làm nghề "trợ giáo". Mãi sau này,
khi quen cô bé, tôi mới lại lảng vảng ở khu đầu đường Lê Văn Duyệt -
Phan Đình
Phùng.
Rồi khi quen Huỳnh Phan Anh, mới trở lại con hẻm cũ.
*
Tôi
"biết" Sài-gòn, phần lớn là qua
"ông thầy" Huỳnh Phan Anh. "Thằng chả" dậy tôi chơi banh
bàn, bi da. Quán bi da nổi tiếng mà lâu ngày tôi quên mất tên, [Huỳnh
Kỳ?], ở khu
Ngô Tùng
Châu, gần trường Nguyễn Bá Tòng, là nơi hai đứa nhiều ngày đứng suốt
buổi, khi
ra khỏi quán hai chân rã rời, kéo nhau băng qua đường, leo lên gác xép
ngủ.
Nhà
Huỳnh Phan Anh là nơi lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn ăn "dã chiến",
khi ăn mở ra, ăn xong xếp lại. Đứa em trai nói ngọng. Mấy chị em là
nguồn kinh
tế của hai đứa chúng tôi. Rồi thằng chả dậy tôi "xóm" nghĩa là gì.
Sau này học
trò vượt ông thầy. Tôi sa xuống mãi đáy Sài-gòn, những nơi chốn mà bạn
tôi đã từng
căn dặn chớ mò tới.
Cái trò đọc sách trong một quán chệt, chỉ cần một
ly cà phê
túi, hoặc ly hồng xà (hồng trà), rồi cứ thế ngồi suốt buổi, là cũng do
anh truyền
cho tôi.
Và hai đứa chia nhau kinh nghiệm đọc, nhờ nó. Có lần anh kể
cho tôi
nghe, bữa trước đọc Buồn Nôn, La
Nausée, tới đoạn Roquentin đi trong
thành phố
Bouville, "một mình mà như cả một đoàn quân đang xuống phố"; "đọc
tới đây, thú quá tao cũng bỏ ra ngoài đường lang thang một hồi...", và
có
lần cũng cảm thấy, như Roquentin, "tương lai đang chờ đợi ở một ngã tư
đầu
đường".
Tôi cũng có những kinh nghiệm y hệt như vậy.
Qua anh tôi
có được quá nhiều bạn: Dương Văn Ba, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng,
Hoàng Ngọc
Biên, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật... Có thời gian tôi "cộng
tác" với báo Điện Tín, là do anh.
Thân nhất, có lẽ là lúc anh đang học
Sư
Phạm Đà Lạt. Tuần nào tôi cũng nhận được thư. Anh vốn là một con người
rất cứng
rắn, "dur", ít khi bộc lộ tình cảm. Những lá thư là một Huỳnh Phan
Anh "đích thực", đối với tôi.
Lần đầu tiên
tôi biết Đà Lạt là lần lên thăm anh. Đúng vào dịp Giáng Sinh, với một
người bạn.
Cả ba đi lang thang ngoài đường đến gần sáng, say, hát, la, rống dọc
theo những
con dốc.
Lần đó, tôi có cảm tưởng sống lại Hà-nội, và mơ hồ hiểu được
tâm trạng
của những người lính lê dương nhớ nhà, say sưa giữa thành phố, giữa
cuộc chiến
"không phải của họ".
Với Huỳnh
Phan Anh, tôi chỉ ân hận một điều, anh dậy tôi nhiều quá, còn tôi, chỉ
có một
bài học, đúng ra là một kinh nghiệm, mà không làm sao nói lại cho anh
hiểu: tại
sao bỏ vào Nam.
Nhưng câu hỏi
đó, cho đến nay tôi cũng vẫn chưa trả lời được, cho chính tôi.
Cuốn truyện
đầu tay của tôi là cuốn mở đầu nhà xuất bản Đêm Trắng do anh chủ
trương. Thoạt
tiên "gạ" ông Nguyễn Đình Vượng, nhưng gặp Trần Phong Giao cản đường.
Của đáng tội, thư ký tòa soạn báo Văn không tin cuốn sách sẽ bán được.
Tác giả
cuốn sách cũng nghĩ vậy. Huỳnh Phan Anh "xúi", thì bỏ tiền ra in, tao
làm nhà xuất bản. Anh nhờ Nguyễn Đồng làm bìa. In 2000, đến nhà phát
hành Sống
Mới, gặp ngay Nguyên Vũ, hình như đang là tác giả có sách bán chạy nhất
lúc đó.
Anh nói vô, ông chủ mua cho 300 cuốn. Còn lại bán lai rai, cũng thu đủ
vốn.
Khi
đọc tên tác giả, tác phẩm: đứng hàng thứ bẩy, trong danh sách 12 nhà
văn phản động
đồi truỵ, trên báo Tin Sáng, ngay sau khi Việt Cộng vào Sài-gòn, (đây
là danh
sách đầu tiên, sau được bổ sung thêm, thành 19, rồi cả Miền Nam, trừ
mấy anh nằm
vùng, tất nhiên), tôi sợ, (có), hãnh diện, (có), nhưng thật sự ngạc
nhiên. Bởi
vì tôi không thể tin, cuốn sách được mấy ổng chiếu cố kỹ đến như vậy.
Tôi không
tin cuốn sách còn, nếu có chăng, may ra ở trong thư viện.
Đã bao lần
tôi cầu mong nó quên tôi, như tôi đã quên nó.
NQT
Ghi chú
trong ngày
đàm thoại với
nhà văn Trần Doãn Nho
Bài ‘đàm thoại’
này, chưa biết hay dở ra làm sao, tuy nhiên, giá mà bỏ bớt đi những
‘kính anh,
mến anh, dạ thưa anh.. ‘thì mới ‘bắt mắt’, người đọc!
Có thứ đàm
thoại nào như vậy không nhỉ?
GNV chỉ biết
thứ "mày tao chi tớ"!
TDN viết đã
lâu lắm, cùng cái hồi GNV loay hoay tập tành viết, cũng trên tờ Văn.
Không phải
chỉ một mình anh, mà còn nhiều người khác nữa.
Gấu thường tự
hỏi, tại sao không thể có 1 sự nổi trội, chỉ lấy 1 ông, của tất cả,
trong khi,
nhắc tới Ngọc Minh, thí dụ, là có ngay Trăng Huyết làm ‘thương hiệu’, Tuý
Hồng,
có ngay Vết Thương Dậy Thì,
Trần Thị NgH, Nhà có cửa khóa trái…
Phải chăng,
sự nổi cộm của 1 Võ Phiến đã trấn áp tất cả những nhà văn… Miền Trung?
Gấu tính viết
bài này, từ lâu lắm rồi, nhưng cứ nấn ná, vì sợ bị chửi là làm phách,
là kỳ thị,
là, là… Nhưng có lẽ đã tới lúc, xuống một thang thuốc thật đắng, may ra
có sự
chuyển hướng, chăng?
Hà, hà!
*
Trong khi chờ
đợi bài viết của GNV, post mẩu ‘đàm thoại’của Naipaul, với tờ The
Paris
Review. Có cái gì đó, có thể nhặt ra từ trích đoạn sau đây, và áp
dụng cho
Mít, đặc biệt là những nhà văn Miền Trung!
*
Phỏng vấn viên:
Ông rời
Trinidad năm 1950 để học Oxford, tới một mảnh đất xa lạ, để theo đuổi
tham vọng.
Ông kiếm cái gì vậy?
Naipaul:
Tôi muốn trở nên rất nổi tiếng. Tôi cũng muốn là 1 nhà văn: nổi tiếng
nhờ viết.
Cái sự phi lý của tham vọng này, là, vào lúc đó, tôi đếch biết viết ra
làm sao,
mà cũng đếch biết, viết về cái chó gì!
V.S. Naipaul
from The Art
of Fiction CLIV
INTERVIEWER
You left
Trinidad in 1950 to study at Oxford-setting out across the seas to an
alien
land in pursuit of ambition. What were you looking for?
NAIPAUL
I wanted to
be very famous. I also wanted to be a writer: to be famous for writing.
The
absurdity about the ambition was that, at the time, I had no idea what
I was
going to write about. The ambition came long before the material. The
filmmaker
Shyam Benegal once told me that he knew he wanted to make films from
the age of
six. I wasn't as precocious as he: I wanted to be a writer by the age
of ten.
I went to
Oxford on a colonial government scholarship, which guaranteed to see
you
through any profession you wanted. I could have become a doctor or an
engineer,
but I simply wanted to do English at Oxford-not because it was English
and not
because it was Oxford, but only because it was away from Trinidad. I
thought
that I would learn about myself in the three or four years I was going
to be away.
I thought that I would find out my material and miraculously become a
writer.
Instead of learning a profession, I chose this banality of English-a
worthless
degree, it has no value at all.
But I wanted
to escape Trinidad. I was oppressed by the pettiness colonial life and
by (this
relates more particularly to my Indian Hindu family background) the
intense
family disputes in which people were judged and condemned on moral
grounds. It
was not a generous society-neither the colonial world nor the Hindu
world. I
had a vision that, in the larger world, people would be appreciated for
what
they were-people would be found interesting for what they were.
INTERVIEWER
You have
been to so many places-India, Iran, West Africa, the American Deep
South. Are
you still drawn to travel?
NAIPAUL
It gets
harder, you know. The trouble is that I can't go places without writing
about
them. I feel I've missed the experience. I once went to Brazil for ten
days and
didn't write anything. Well, I wrote something about Argentina and the
Falklands, but I didn't possess the experience-I didn't work at it. It
just
flowed through me. It was a waste of my life. I'm not a holiday taker.
The Paris
Review, Issue 148, 1998
*
Từ một nhà
phê bình văn học trở thành một blogger, điều tôi cảm thấy hài lòng nhất
là được
nhân dân đọc nhiều và rõ ràng, nếu không yêu mến thì cũng rất quan tâm.
NHQ
Cách dừng từ
“Từ….”, trong câu trên của Thầy Cuốc, cho thấy tiếng Việt của Thầy hơi
bị yếu, có
khả năng Thầy bị “lệch pha”. Viết như thế,
khiến độc giả có cảm tưởng, Thầy bỏ nghề xoa đầu thiên hạ, qua làm
blogger!
Thường, thì
người ta sẽ viết, thí dụ: nghề của tớ, là xoa đầu thiên hạ, kể từ khi
thêm nghề
blogger, điều mà tớ cảm thấy hài lòng nhất, là được nhân dân đọc nhiều,
và rõ ràng
là, nếu không yêu mến thì cũng rất quan tâm tới tớ!
Tiếng Việt, đâu
có dễ!
Thượng Đế đã
chết trong thành phố
La Peau [Làn
Da]: Một cuốn tiểu thuyết-Trùm: Un Archi-Roman
1. Đi tìm một vóc
dáng.
Có những nhà
văn, thứ đại gia, làm chúng ta ngộp thở, vì sức mạnh của cái đầu của
họ, nhưng
họ như bị sao quả tạ giáng xuống, bị chúc dữ bởi 1 lời nguyền: Về tất
cả
những
gì mà họ sẽ nói ra, họ không làm sao tìm đuợc một vóc dáng để chuyên
chở chúng,
một vóc dáng uyên nguyên, liên kết được với nhân cách, và không làm sao
tách ra
khỏi, những tư tưởng của họ.
Tôi nghĩ tới, thí dụ như, những nhà văn lớn của Pháp
thế hệ Malaparte: khi còn trẻ tôi đã ngưỡng mộ và yêu mến họ; Sartre,
có lẽ, và,
nhất là ông.
Điều kỳ cục: chính ông ta, trong những tiểu luận [những ‘tuyên
ngôn” của ông], về văn học, làm cho tôi ngạc nhiên, bởi cái sự dè bỉu
của ông về
quan niệm tiểu thuyết; ông đếch thích những từ như “tiểu thuyết”, “tiểu
thuyết
gia”, những từ này, như là những dấu hiệu đầu tiên chỉ ra 1 vóc dáng,
ông tránh
dùng chúng, tránh nói ra chúng, mà ông chỉ nói về ‘văn xuôi”, prose,
“nhà văn của
văn xuôi”, lâu lâu, ông xài chữ “kẻ viết văn xuôi”, le prosateur. Ông
giải thích:
ông chấp nhận, công nhận, cái gọi là một sự tự chủ mỹ học, đối với thơ
[thơ là
1 cõi trời riêng, độc lập, bảnh…], nhưng ông đếch chịu, điều này, đối
với cái gọi
là văn xuôi: “Văn xuôi, yếu tính của nó, chỉ là thực dụng, tao cần tới
mày, nên
gọi tới mày, không cần, đi chỗ khác chơi […]. Nhà văn chỉ là 1 kẻ nói,
un parleur. Hắn ta chỉ trỏ, chứng tỏ, ra lệnh,
từ chối, tra hỏi, năn nỉ, sỉ nhục, vỗ về, ngụ ý”.
Như thế, cần chi đến
1 cái vóc
dáng, hử? Vóc dáng làm được cái trò gì ở đây? Ông trả lời: “Đây là vấn
đề ý hướng,
về ‘anh muốn viết về cái gì’: về những con bướm hay số phận của người
Do Thái, và một khi, bạn biết bạn muốn viết gì, thì bạn sẽ quyết định,
viết như
thế nào”.
Và, sự thực là, tất cả những tiểu thuyết của Sartre, quan trọng như
thế đó, đều được khắc họa bởi cái gọi là sự ‘chọn lựa” vóc dáng của
chúng.
Khi tôi nghe
đến từ Tolstoi, tôi lập tức tưởng tượng tới hai cuốn tiểu thuyết lớn
lao, thật
đặc dị, chẳng giống của bất cứ ai, của ông. Trong khi đó, khi tôi nói
Sartre,
Camus, Malraux, thì những tiểu sử, những bài viết có tính tranh luận,
và những
cuộc chiến đấu, những xác định vị trí của họ, những cái đó bật ra ngay
trong đầu tôi,
chứ không phải những cuốn tiểu thuyết.
Kundera
Có thể
nói,
chính là từ Sartre, mà ra đám tiểu thuyết mới, là vậy, và, qua đó, là
sự phân
biệt của Roland Barthes, khi ông dùng từ nhà văn, écrivain, để phân
biệt với nhà
dùng văn, écrivant.
Nhà văn phịa ra chữ, nhà dùng văn, sử dụng nó, khác nhau.
|
|