|
Thơ mỗi ngày
Lan man với Vương
Trí Nhàn
Nguyễn Thị
Ngọc Hải thực hiện
Thứ
Năm, 20/1/2011, 09:25 (GMT+7)
(TBKTSG) -
Là một cây bút nghiên cứu phê bình văn học sắc sảo hay “đụng độ”, Vương
Trí
Nhàn gần đây quan tâm nhiều đến văn hóa, đô thị, lối sống, với cách nói
thẳng
băng.
TBKTSG:
Dạo
này thấy ông ít viết bài cho các báo?
- Nhà nghiên
cứu Vương Trí Nhàn:
Bây giờ không theo được “nó”. Cổ rồi. Cảm thấy không làm được
nữa.
TBKTSG: Vì
đâu nên nỗi?
- Nếu làm
báo, dẫu sao anh phải nể người ta. Bà còn lạ gì nữa. Phải tuân thủ lề
luật, ông
sếp cũng phải theo lề luật. Tôi phải chọn cái gì thoải mái. Viết blog.
Tản mạn,
tự phát, già hợp.
TBKTSG: Ông
nói ngược. Trẻ nó mới mê mạng?
- Già, làm
cái gì lớn khó khăn. Còn tôi suy nghĩ nó cứ tứa ra như cây dại. Tản mạn
mà.
TBKTSG: Vậy
ông tản mạn “tứa ra” trên những chuyện gì?
- Hai mảng,
thứ nhất là nhật ký xã hội. Đọc được cái gì hay thì nghĩ. Thí dụ chuyện
người
ta cho nước ngoài thuê rừng với giá chỉ bằng 10 bát phở. Đọc báo Nga
thấy có tự
do mà không có dân chủ. Rồi những quan sát hàng ngày. Tôi rất hay chú ý
các vấn
đề giao thông. Tôi đi đường cũng nghĩ: sao Hà Nội lộn xộn, hoang dã
(lời của một
ngôi sao nước ngoài nhận xét, không phải tôi). Xe thô sơ chèn xe cơ
giới. Tôi
nhớ lúc nhỏ đi học người ta dạy: xe thô sơ nhường đường cho xe cơ giới.
Sao bây
giờ lại “khốn nạn” vậy? Ngày xưa, người đi ô tô là người quan trọng, tử
tế. Nay
người tử tế vẫn còn, nhưng người ăn cắp ăn cướp, trốn thuế nhiều.
TBKTSG: Thảo
nào có người bảo cái tên ông Trí Nhàn nhưng không nhàn trí?
- Tôi muốn
nói là bao giờ cũng có người tử tế, cũng kính trọng người tử tế. Nhưng
dường
như người tử tế đang ít dần đi. Tôi buồn, phản ứng tiêu cực. Có quan hệ
đảo ngược
với lương tri thông thường. Thầy không được trò kính. Rối quá.
TBKTSG: Đó
là mảng nhật ký xã hội trong cuốn sách rất hay của ông mới ra “Những
chấn
thương tâm lý hiện đại”.
- Mảng hai
là văn hóa-xã hội. Theo thời sự thôi. Thí dụ họa sĩ Nguyễn Quân ra
sách, triển
lãm hay, hai phe “Cánh đồng bất tận”… Tôi ghi lại, để dùng về sau.
Không hy vọng
phát hiện vấn đề lớn lao. Già rồi. Ngoài ra làm lại một số sách cũ.
TBKTSG: Người
ta bảo phải đủ giàu mới ngồi nghiên cứu. Ông không phải “đi cày” nữa?
- Vẫn cày.
Nhưng uể oải chậm chạp. Không phải lo kiếm sống nữa.
TBKTSG: Vậy
ai nuôi để ông ngồi nghiên cứu?
- Bà xã. Có
cửa hàng. Bây giờ nghĩ lại thấy Nguyễn Khải xui đúng. Lúc trẻ ông Khải
bảo tôi
dân viết là chọn một nghề khổ không sống bằng lương. Phải lấy đứa nào
đó nuôi
mày, mới theo nghề được (!)
TBKTSG: Ông
định nghiên cứu gì?
- Lắm việc.
Hoàn chỉnh số đề tài cũ như: “Nhà văn tiền chiến”, “Hiện đại hóa văn
học”. Có
cuốn do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội in, được 1,4 triệu nhuận bút, in
600 cuốn
không báo nào nhắc, xếp xó. Tôi gửi Giáo sư Trần Hữu Dũng, ông trân
trọng đưa
lên trang mạng Viet-studies.info.
TBKTSG: Những
đề tài cũ, được làm lại hôm nay có gì mới không ông?
- Trước đây
làm vụn vặt. Nay thu gọn tổng quát, dẫn luận quan trọng văn học Việt
Nam thế kỉ
20 dưới thước đo của văn học thế giới. Phải đo văn học Việt Nam bằng
chuẩn mực
thế giới. Một số nước, thí dụ Ấn Độ dù có nhà văn nổi tiếng, vẫn chỉ là
cho
mình thôi. Phải đóng góp cho văn minh thế giới. Trung Quốc họ khát khao
chinh
phục thế giới, không đòi nhà nước cho tiền để quảng bá ra ngoài như ở
Việt Nam.
TBKTSG: Vậy
ông đã làm được nhiều chưa?
- Mới thu dọn
thôi. Tôi chuyển hướng nghiên cứu của mình 20 năm cuối, sang nghiên cứu
văn
hóa.
TBKTSG: Ông
có một lần bỏ ra về khi đang được phỏng vấn về chuyện ông làm hàng loạt
bài về
thói xấu của người Việt. Có người còn bảo: Phải nghiêm cẩn khi bàn về
tính cách
dân tộc? Nhưng rồi trên mạng người ta treo hai câu của ông như “danh
ngôn”:
“Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ”. “Thói xấu lớn nhất của người
Việt là sợ
nói về thói xấu của mình”. Ông không ngại hay bị phản ứng?
- Nếu tôi
không tin vào tôi thì còn làm làm gì? Cái bài về Tô Hoài, có cô Vàng
Anh cho là
tôi ác, thấy người ta già… Tôi ghi từ lâu chứ có phải đợi người ta già
đâu. Tôi
cũng đưa cho chính nhà văn Tô Hoài đọc rồi, ông bảo được mà. Tôi biết
thân phận
tôi chứ. Nhưng rất cần nói cái ác cái dở để nói rất nhiều vấn đề đáng
báo động.
Tôi cảm ơn nhà văn Tô Hoài đã hiểu.
TBKTSG:
Nhưng ông thường hay đụng độ với nhiều người nữa?
- Sao không
đụng độ được? Vì sao Nguyễn Khải có lúc ghét tôi? Vì tôi biết cái phần
ông muốn
giấu mọi người. Cảm xúc như một nghệ sĩ, viết như một cán bộ. Tôi biết
mạch ông
ấy rồi. Với ông ấy tôi chỉ như một học trò, có thời ông quý có lúc ông
mắng mỏ.
Bạn văn cũng có người bênh vực ông, mắng tôi là chọc gậy bánh xe. Nhưng
là nhà
phê bình, tác phẩm các nhà văn in cho công chúng đọc, tôi phải viết.
TBKTSG:
Nhưng có điều ông nói, thật sự “ác”?
- Nếu tôi ác
thì không bao giờ người ta đọc tôi một cách lâu dài. Chỉ lừa được một
lần thôi.
TBKTSG: Ông
là nhà nghiên cứu phê bình văn học. Nay lại nhìn văn học từ góc độ tư
tưởng
sang nhìn dưới góc độ văn hóa… nên gọi ông là “nhà” gì cho đúng?
- Gọi là nhà
gì tôi cũng sợ lắm. Sang quá. Có thể tôi còn kém vụng, nhưng đặt trên
con đường
5 ki lô mét còn hơn người khác đi 10 ki lô mét. Sức khỏe, tầm vóc khái
quát cao
còn khó. Nhưng tôi tiếp tục học.
TBKTSG: Ông
nổi tiếng tự học và đọc nhiều. Ông học cả khoa học tự nhiên?
- Tôi khốn nạn
cực kỳ không biết tiếng Anh, Pháp, phải đọc qua tiếng Nga. Tôi có cái
nhìn mềm
là do học thêm vật lý. Học với tôi cứ như định mệnh (cười). Bà có nhớ
hồi nhỏ học
sinh vật có cái thí nghiệm phản xạ có điều kiện Paplop không. Con gà mổ
hạt
ngô, đến lúc người ta không bỏ ngô vào, nó vẫn mổ toét cả mỏ cho đến
chết….
TBKTSG: Ông
sống ở Hà Nội, thấy Hà Nội như thế nào?
- Tết rồi
tôi nảy ra ý nghĩ và đã đi… bơi qua sông Hồng. 8 giờ sáng mưa lạnh lất
phất, đi
qua phố cổ không có người. Nó phong trần cổ lỗ. Sức sống lâu dài ở cái
cổ đó. Sự
ghê gớm của thời gian, lịch sử, trong đó bao phong trần từng trải đầy
đau khổ.
Sao giống Bùi Xuân Phái thế. Không cây. Nhà có linh hồn, không đặc tả
mặt người.
Người Hà Nội ẩn sau đó.
TBKTSG: Vậy
theo ông chất Hà Nội là gì?
- Theo tôi,
đó là trí tuệ chứ không phải thanh lịch như vẫn nói. Nó gạn lọc, hút
cái hay của
các nơi. Nay không lọc hoặc lọc nhầm. Hỏng nhanh quá không chữa được.
Đô thị là
cuộc sống được tổ chức lại, từ quê ra tỉnh làm lại cuộc đời chứ không
phải vác
cái nhà quê của mình ra “nông thôn hóa Hà Nội”. Không bằng Sài Gòn: yếu
tố nông
thôn lên Sài Gòn, bị Sài Gòn buộc theo cái văn minh của nó. Người tứ xứ
về lái
taxi, phục vụ hàng quán, phải học theo cung cách Sài Gòn. Lõi đô thị
chắc chắn
hơn, tiếp thu cái bên ngoài vào tốt hơn. Trẻ con ngoan không nói nhiều.
Từ tốn.
Hà Nội phải tỉnh ngộ, không được “vây vo con trưởng”.
TBKTSG: Xin
ông có một vài lời nhận xét về văn chương?
- Một số nhà
văn trẻ hỏng, viết chưa tới đâu, chỉ đứng trên tâm thế: Chúng tôi trẻ,
chỉ có
chúng tôi thôi. Đọc chúng tôi đi, chả có gì mà so với lớp già….
TBKTSG:
Nhưng có những tài năng như Nguyễn Ngọc Tư đó thôi?
- Cũng đúng.
Nhưng không cẩn thận, sẽ chỉ dừng lại ở mức bản địa hóa như Sơn Nam.
TBKTSG: Chắc
nhiều người muốn tranh luận với ông đấy. Xin cảm ơn ông đã trò chuyện
thật
lòng.
Note: Bài
này, tuyệt. Nhận định về Sơn Nam, đúng, nhưng không đúng, khi áp dụng
vào trường
hợp NNT. GNV sẽ tản mạn sau, về chuyện này, nhưng đại khái là như vầy:
Sơn Nam
là 1 anh VC nằm vùng. Vốn sống của ông là 1 Nam Bộ có Tây, còn Tây.
NNT, trưởng
thành sau cái cú ăn cướp 30 Tháng Tư, và cùng với nó là Lò Cải Tạo.
Làm
gì còn
chuyện bản địa hoá ở đây, vì Miền Nam, 1 cách nào đó, biến mất rồi. Cái
Miền
Nam Sâu Thẳm, của Faulkner... mất rồi, cùng với sự xâm lăng của Bắc
Kít.
Bạn
VTN này phải đọc lại Bút Ký Tô
Hoài, nhe!
Chúc Tết bạn
và gia đình! NQT
GNV không
quen VTN. Trên TV có trang VTN, là do LMH giới thiệu.
Diễn Văn Nobel 2010
Nobel
Lecture
December 7,
2010
In Praise of
Reading and Fiction
Ca Ngợi Đọc
và Giả Tưởng
Bài diễn văn
Nobel, đếch thèm ngó ngàng gì đến việc viết, viết cái gì, viết cho ai,
tại sao viết…. mà chỉ ca ngợi cái đọc, và giả tưởng, nghĩa là tỉu
thiết, nhất là
tỉu thiết.
TV sẽ dịch lai rai sau. Bữa nay xuống phố, lại vớ thêm được 1 bài nữa,
cũng của Vargas Llosa, trên tờ Books, tên báo tiếng Anh, nhưng báo
tiếng Tây, tếu
thế, Ý nghĩ của tớ về văn hóa.
Bèn bệ luôn! Thú nhất là cái hình bìa. Thực sự họ
là ai: Jésus, Marie, Judas?
Tờ LRB có bài
“Yankee cút cha mày đi”. Còn có cái nhật ký của Simic, đọc thú lắm, thí
dụ câu
này: Cầu Chúa phù hộ chiến tranh,
nếu không, bao nhiêu tiền cực khổ làm ra đều
phải biếu đám nghèo!
*
GNV là người
đầu tiên giới thiệu tới độc giả Mít, "hơn một" tác giả mũi lõ, đa số
họ, GNV biết
tới, là nhờ đọc tờ Partisan Review.
[Kundera Gấu cũng là thằng đầu tiên giới
thiệu, khi giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG: Mùa Thu những di dân].
Kỷ niệm
thú vị có lẽ cũng nhiều, để nhẩn nha nhớ lại, nhưng 1 trong số đó, là,
lần giới
thiệu Adorno và câu nói nổi tiếng của ông: “Làm thơ sau Auschzitz thì
thật là dã
man”. Nhà văn hàng đầu hải ngoại Võ Đình bực lắm, phán, thằng cha
Adorno này là
ai mà vung tay quá tr[ch]án. Và ông chứng minh, sau Lò Thiêu vẫn có
thơ, và
đó là
thơ của Phan Nhật Nam: Đêm tận thất
thanh! (1)
Tuy nhiên,
không chỉ một Võ Đình bực vì câu nói của thằng cha Adorno. Czeslaw
Milosz cũng
nực. Trong bài viết ngắn, viết về ‘hậu môn của thế giới’, ông cho biết,
chính là
vào cái năm ông ở hậu môn thế giới, ở Ba Lan, ông làm được thơ, và thơ
cũng không
tệ.
Cái tác phẩm
của bậc thầy về Lò Thiêu vừa mới tái khám phá ra được, A lost master of
the Holocaust, chính là tác
phẩm được viết khi tác
giả của nó ở… Lò Thiêu!
(1)
Đêm Tận Thất
Thanh.
Văn Học số
Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ
viết:
"... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì
thật
là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng
được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm
bàn rông
rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như...
"vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này
thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"? Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những
nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc,
thối
um"?
Đêm Tận Thất
Thanh là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không
may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee,
Florida 5-2-97
24 tiếng trước
Tết Đinh Sửu, ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây
trích từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn Đêm Tận Thất Thanh của "bạn
ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách bạn ta tặng, buổi tối tại nhà
Nguyễn
Đình Thuần. Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ
Hương với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode.
CA
Oct/28/2003.
PNN ký tên.
Đêm
giữa ban
ngày
Sự thực, chẳng
có một ông Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý nào được CIA tuyển dụng. chọn
trước.
“Cài, cấy.” Sự thực, cũng chẳng có một ông Duy Thanh nào vì tế nhị phải
“chối từ”
thân thế.
Sự thực, đôi
khi đơn giản tới mức độ gây “buồn lòng” cho những người thích thêu dệt,
với óc
trinh thám, tiểu thuyết.
Sự thực chỉ
là: Nếu không có người mẫu Trúc Liên, không có “Thiếu nữ từ tranh bước
ra” thì,
chưa chắc đã có Graham Tuckers. Mà, không Graham Tuckers, phải hiểu,
đồng nghĩa
với việc không có Sáng Tạo!
DTL.com
GNV cũng không
tin là, Mai Thảo, khi nhận tiền của me -xừ Tuckers, biết, tiền của Xịa!
Bởi vì ngay
Koestler, khi nhận tiền của Mẽo dựng lên cái gọi là Hội nghị vì Tự do
văn hóa,
cũng không biết, đó là tiền của Xịa, như trong cuốn tiểu sử K, của
Michael Scammell,
cho biết.
K nghĩ tiền của Bộ Ngoại Giao hay [Chương Trình] Marshall Fund. Và
theo ông, không đủ chi xài, vì vậy, ông kêu gọi những nhà văn góp vốn
thêm!
Làm gì có
chuyện MT là nhân viên của Xịa, chuyện "cài cấy", và, sự
thực cũng đâu có đơn giản như DTL ngây thơ
viết.
Sự thực, là,
tiền của Mẽo, và Mẽo ở đây, là Xịa!
Tuy nhiên, đọc
những 'phát giác' của DTL, thì chúng ta lại nhớ tới Graham Greene: Ông
nhà văn này
cũng gặp một tay “Tuckers” tương tự, trên chuyến đi từ Bến Tre về Sài
Gòn, trên
chiếc du thuyền của Hùm Xám Bến Tre, Le Roy, và tay này kể cho ông
nghe, về
mission của hắn ta, tìm 1 tay Mít, thuộc lực lượng thứ ba, để đưa…
tiền, làm… chiến tranh, không phải làm báo
như MT! ( 1)
Koestler 1
Koestler 2
Arthur Koestler, Người của
Bóng tối
Không nhà văn nào của thế
kỷ 20 có được những tao ngộ ly kỳ như Arthur
Koestler: chơi toàn quái chiêu, gặp toàn những đấng hách xì xằng, có
mặt - ở
đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc - thảm họa xẩy ra!
27 tuổi Đảng, ông trải qua trận đói mùa đông 1932-33, ở Kharkov, giữa
hàng triệu
người dân Ukrainians ngắc ngoải và chết đói. Chạy kịp về phía nam nước
Pháp,
khi những binh đoàn Nazi xâm lăng nước Tây, ngay sau gót chân, vào năm
1940; chộp
được Walter Benjamin, cưa đôi với ông mẻ “ken”, và chỉ vài tuần sau,
triết gia
người Đức này chơi quá “liều” [liều lượng], tự mình cho phép mình đi
luôn. Tay
guru ghiền, dân Harvard, Timothy Leary đã từng chia cho Koestler những
mẻ thuốc
psilocybin, vào giữa thập niên 1960, “Phu nhân sắt” Margaret Thatcher,
đã nghe
theo những lời cố vấn của ông, trong cuộc tranh cử của bà vào năm 1979.
Simone de Beauvoir đã có
lần được 'hầu hạ' Koestler, nhưng sau đó lại tỏ ra thù
ghét ông và hư cấu thành một nhân vật cực kỳ thông minh, có tài làm đàn
bà vãi
linh hồn, đầm đìa hai chân!
V/v tài chăn gối, "trường
túc bất chi lao", của nữ hoàng hiện sinh de
Beauvoir, thì khỏi chê. Như đoạn sau đây, trên tờ TLS, trong bài điểm
cuốn hồi
ký của Lanzmann chứng tỏ:
The young Claude was, for several happy years, Le Castor’s live-in
lover, if
not her only one: before they first went to bed, she warned him
that six
other people were already in the frame.
Claude
Lanzmann's liberated memories
Nhà tù thay
đổi Koestler. Nó không khiến tinh thần ông nở rộ như trong trường hợp
của
Solzhenitsyn, hay của Mandela, nhưng nó chiếu sáng cho ông về cái tính
người mà
Âu Châu cần và thiếu. “Ý thức bị kiềm chế tác động như một loại độc
dược chậm,
ngấm ngầm biến đổi toàn bộ tính tình con người,” [“The consciousness of
being
confined acts like a slow poison, transforming the entire character,”]
(1) ông
viết. “Và, bây giờ, nó dần dần hé ra cho tôi thấy, trạng thái tâm lý nô
lệ thực
sự nghĩa là gì". [“Now it is beginning gradually to dawn on me what the
slave mentality really is.”] Vào lúc đó, những vụ án trình diễn ở
Moscow đang
diễn ra, với uỷ viên bộ chính trị trung ương Đảng là Nikolai Bukharin
thú tội
trước nhân dân về những tội ác mà ông không làm, không phạm, và xin
được nhà nước
khoan hồng bằng cách làm thịt ông! [LCD dám phải trình diễn màn này, để
đổi lấy,
nhà nước VC sẽ khoan hồng cho vợ con ông, thí dụ như vậy!] Ông anh/em
rể của
Koestler, một bác sĩ, bị buộc tội chích cho bệnh nhân vi trùng tim la.
Koestler bắt đầu nhìn ra tình anh em ruột thịt giữa chủ nghĩa CS và chủ
nghĩa
Phát Xít. Ông bye bye Đảng.
*
(1)
Ways of escape
Liệu giấc mơ
về một cuộc cách mạng, thỏa mãn
giấc mơ như lòng chúng ta thèm khát tương lai, của TTT, có gì liên can
tới ‘lực
lượng thứ ba’, vốn là một giấc mơ lớn, của Mẽo, nằm trong hành trang
của Pyle,
[Người Mỹ Trầm Lặng ], khi tới Việt Nam.
Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng bật
ra,
khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng
Leroy, Hùm
Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng
sách, Ways of
Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp
tùng
Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta.
Lần này,
thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên
mạn
thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh
tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là
CIA, [an
American attached to an economic aid mission - the members were assumed
by the
French, probably correctly, to belong to the CIA]. Không giống
Pyle,
thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét,
suốt trên
đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực
lượng thứ
ba ở Việt Nam. Cho tới lúc đó, tôi chưa giờ cận kề với giấc mộng lớn
của
Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại
Phi Châu.
Trong Người
Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York
Harding
– cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây
thơ,
nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một
nhà lãnh
đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible,
purely
nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân
Việt Nam,
và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS.
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người
Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực
lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những
nhân vật
theo sau, tất cả, [trừ Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of Escape.
Granger,
một ký giả Mẽo, tên thực ngoài đời, Larry Allen, đã từng được
Pulitzer khi tường thuật Đệ Nhị Chiến, chín năm trước đó. Greene gặp
anh ta năm
1951. Khi đó 43 tuổi, hào quang đã ở đằng sau, nhậu như hũ chìm. Khi,
một tay
nâng bi anh ta về bài viết, [Tên nó là gì nhỉ, Đường về Địa ngục,
đáng
Pulitzer quá đi chứ... ], Allen vặc lại: "Bộ anh nghĩ, tôi có ở đó hả?
Stephen Crane đã từng miêu tả một cuộc chiến mà ông không có mặt, tại
sao tôi
không thể? Vả chăng, chỉ là một cuộc chiến thuộc địa nhơ bẩn. Cho ly
nữa đi.
Rồi tụi mình đi kiếm gái."
Trong Tẩu Vi
Thượng Sách., Greene có kể về mối tình của ông đối với Miền
Nam Việt
Nam, và từ đó, đưa đến chuyện ông viết Người Mỹ Trầm Lặng…
Tin Văn post lại ở đây, như là một dữ kiện, cho thấy, Mẽo thực sự không
có ý
‘giầy xéo’ Miền Nam.
Và cái cú
đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng.
Cái chuyện MB phải thống nhất đất nước, là đúng theo qui luật lịch sử
xứ Mít,
nhưng, do dùng phương pháp bá đạo mà hậu quả khủng khiếp 'nhãn tiền’
như ngày
nay!
Ui chao, lại
nhớ cái đoạn trong Tam Quốc, khi Lưu Bị thỉnh thị quân sư
Khổng
Minh, làm cách nào lấy được xứ... Nam Kỳ, Khổng Minh bèn phán, có ba
cách,
vương đạo, trung đạo, và bá đạo [Gấu nhớ đại khái].
Sau khi nghe
trình bày, Lê Duẩn than, vương đạo khó quá, bụng mình đầy
cứt, làm
sao nói chuyện vương đạo, thôi, bá đạo đi!
Cú Phú Lợi đúng là như thế! Và cái giá của mấy anh tù VC Phú Lợi, giả
như có,
là cả cuộc chiến khốn kiếp!
DTL
vs GNV
Và
cái cú đầu độc tù Phú Lợi, hẳn là ‘diệu kế’ của đám VC nằm vùng: Không,
đây là
phút "độc sáng" của Cái Ác Bắc Kít, suốt chiều dài lịch sử Mít: Chỉ có
cách đẩy
Miền Nam vào cái thế thù nghịch, thì mới phát động cuộc chiến thần
thánh được!
Cái này là diệu kế của BBP, nhưng do lũ VC nằm vùng thực hiện.
Ghi chú
trong ngày
Mémoirs
Đóa hoa
hồng vùi quên trong tay
Phận
lưu vong
Khi Gấu về
VN năm 2001, thì cầu Việt Trì đang trong giai đoạn thi công, under
construction, như trên. Đây là cái bãi sông ngày nào ông cụ Gấu bị đấng
học trò
làm thịt. Bà cụ Gấu, sau này, có lần nhìn thấy anh học trò làm thịt
chồng, chỉ
cho Gấu, và nói, tao nhận ra nó, vì cái quần dạ mà nó đang mặc là của
bố mày, có
1 lỗ thủng, do chuột cắn, tao vá lại, nhờ vậy mà nhận ra.
Thú thực, lúc
đó, Gấu chẳng thấy thù oán, có thể là do quá bất ngờ.
Lạ, là sao còn
nhớ mãi kỷ niệm này?
Về lại Bắc,
bà chị ruột cũng nhớ, nhưng những chi tiết thì lại khác hẳn.
Ở hay Về?
V/v Hoàng Ngọc
Hiến ra đi
Hoàng
Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông,
tại Hà Nội, Tháng Sáu, 2001].
Cái hình ở
trên bài viết của
BBC về HNH là của Tin Văn đấy nhé!
Câu này được
‘gợi hứng’ từ 1 câu chuyện tiếu lâm, "còn cái ô là của chú đấy
nhé", do HHT
kể, trên báo Ngôn Luận, chắc thế,
GNV không đọc, nhưng lại nghe một em kể cho nghe, lần đến nhà em trồng
cây si, ở
ngay phòng khách, dòng dã cả một thời đi học, cùng với cả đám Thất Hiền.
Hai chị em,
nghe nói đã từng học CVA, thế mới lạ, quen biết nhạc sĩ CT, rất nổi
danh tài sắc.
GNV mê cô em, nhưng dưới mắt em, thì Gấu quá cù lần, thành ra cũng chỉ
yêu theo
cái kiểu "chiêm ngưỡng và kính trọng."!
Cả đám mê
hai em, tối nào rảnh là cũng kéo đến nhà. Em nào nhảy đầm cũng giỏi, và
rất mê,
Gấu nhà văn đành phải nhờ bạn C. đứng đầu Thất Hiền, về cái môn này,
dạy cho
vài đường, tango thì 4 bước nhé, hay là valse chậm, nhưng Gấu mê nhất
là điệu
boléro, điệu này thì chẳng học cũng biết, hình như còn có tên là ‘bà
già đi chợ’,
hay ‘bà già đạp xế đạp’!
Câu chuyện
tiếu lâm, "còn cái ô là của chú đấy nhé", hình như Gấu cũng đã từng
lèm bèm rồi, nhưng nhân cái vụ BBC chôm hình của TV bèn lôi ra kể lại,
cũng là
1 cách cảnh báo mấy đấng Bắc Kít làm cho Đài này, chớ có nghĩ là ăn
cướp được
Miền Nam, thì cái gì cũng được phép ăn cướp.
Gấu vì quá
nhớ Đất Bắc mà mò về, có thể mất mạng với VC, nhờ vậy mà có được tấm
hình kỷ niệm
với nhà văn hóa số 1 Bắc Kít, ‘cái nước mình nó vốn vậy’, vậy mà mấy
anh bồi Hồng
Mao cứ làm như đồ chùa, đâu có được!
Trên TV đã
ghi rõ: Bản quyền Tin Văn, nhưng tha hồ xài, nếu dùng cho cá nhân, for
personal
use. BBC ban tiếng Việt, tốt nhất, nên rút tấm hình xuống, như thủ
tướng VC ra
lệnh dẹp [?] mấy cái bài “bốc thuý” ông, dịch từ báo chí quốc tế, mà
anh cớm
chính trị khui ra.
Nếu không,
thì GNV đành… chịu thua, cái sự lì lợm của… Bắc Kít!
Hà, hà!
Bài vở trên
TV đa số là đồ chôm, "biệt kích văn nghệ" mà, thành thử gặp cái thằng
nó ‘bựa’ hơn mình, thì đành "đi hàng đầu"!
Hai chị em
K/D này, Gấu mê cô em, còn cô chị thì lại thương 1 trong Thất Hiền, và
cuộc
tình này
cũng thê lương lắm lắm. Ông bạn TTT [không phải Thanh Tâm Tuyền nhe],
trong Thất
Hiền, coi cô là bạn, nhất định như vậy, mà cô thì không nhất định như
vậy, thế mới
khổ. Khi anh bạn của Gấu đi lính, ra trường Thủ Đức, được đưa đi tiền
đồn heo hắt,
cô mò đến tận nơi, nhất định ngủ lại, nhưng vẫn không đạt được sở
nguyện, Gấu
phải công nhận ông bạn của mình thuộc đấng đại quân tử.
Cô em do chỉ mê những đấng
đại tài tử đẹp trai như Gregory Peck, thấy anh cu Gấu vừa lùn vừa lé,
và mỗi
khi chiêm ngưỡng cô, thì mắt càng lé xệch mãi ra, vừa ngố, vừa thảm,
vừa thê,
không thể nào chịu được, có lần cô phải quay đi, và, bật cười!
Tình
Yêu như Trái Phá
TCS, giả như
gia đình không gặp sự cố, thì sau khi có được cái bằng Tú Tài Tây, chắc
cũng sẽ
chuồn đi nước ngoài như một số thanh niên có điều kiện như ông. Bởi vì
cái sự
cho con học trường Tây, của ông bô bà bô của ông, là nó ‘hàm ý’ như
thế. Không
đi Tây được, ở lại, đi dậy học, và sau đó, là cuộc chiến chờ đợi, rình
rập, và
ông trốn nó, vào những cuộc tình, vào âm nhạc. Đến khi bị gọi lính, ông
trốn
trình diện, và cuộc đời của ông, từ lúc
đó, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị tóm. Mỗi lần đi đâu, là phải nhờ 1 tay
sĩ
quan,
thí dụ như Văn Quang, cho đi ké, và nhờ Lưu Kim Cương cho người đưa
đón!
Có thể
nói, tới ngày 30 Tháng Tư, lần đầu tiên ông mừng rỡ xuất hiện trước đám
đông,
cuộc đời, là để hát bài Nối Vòng Tay Lớn!
Đổ tội ông
làm mất Miền Nam, là “coi trọng” ông quá!
Những bài nhạc
tình của ông thì không đủ mạnh để làm Miền Nam thua trận!
Còn nhạc phản
chiến, ảnh hưởng của nó, đâu bằng của những tờ báo phản chiến, như của
đám
Trình Bày, Đối Diện…?
Khinh ông,
vì trốn lính ư? Bao nhiêu người trốn lính, đâu phải 1 mình ông?
Chính vì suy
nghĩ như vậy, mà PLP đã cho LPS mượn, ngay chính tòa soạn nhật báo Tiền
Tuyến,
để trốn lính, bởi vì 1 cái tên nhà văn nhà thơ nhạc sĩ… mà bắt nó ra
trận, cầm
súng, thì bắn ai, nếu không lớ ngớ bắn ngay chính nó!
Chúng ta, một cách nào,
phải cám ơn số
phận, đã buộc ông ở lại, để chịu chung số phận với cả Miền Nam, nhờ vậy
mà chúng
ta có được những bản nhạc bất hủ, đúng như ý nghĩa của câu phán của Elias
Canetti, “vinh
danh” ông:
Đừng sợ nữa.
Bạn sợ như vậy là đã quá đủ cho đám tụi mình rồi. Tất
cả chúng mình đều phải chết. Nhưng bạn chưa chắc đã phải chết. Có lẽ
những bản
rất tình ca của bạn, là cái phải đại diện cho cả lũ chúng mình với hậu
thế. Bạn
đã phục vụ chúng tớ bằng tình bạn trung thành và chân thực. Thời của lũ
chúng
ta chắc là chưa buông tha cho bạn đâu.
[Mô phỏng
Elias Canetti, khi ông mừng sinh nhật
lần thứ năm mươi nhà văn Herman Broch. Nguyên văn tiếng Đức, bản dịch
tiếng Anh
của Joachim Neugroschel, trong Lương Tâm Của Chữ, The Conscience of
Words :
Don' t be afraid, you have been afraid enough for us. We have all to
die; but
it is still not certain whether you too have to die. Perhaps your very
words
are what must represent us to posterity. You have served us with
loyalty and
honesty. The age will not release you].
Trịnh
Công Sơn vs
Lịch Sử
Milosz,
trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn
tại Pháp
tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái
Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất
vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh
toán một
lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ
đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS
đã được
"thanh toán".
Milosz cho rằng,
cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó,
như kẻ
lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong
bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của
Pasternak, khi
được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ
không phải do thơ.
Bản thân
Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm
Tưởng.
Tôi nghĩ, Trịnh
Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế
giới, là
nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của
ông".
Như Milosz,
ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình
ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài
người.
Hãy hát tình
ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có
thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của
TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã
mất.
“Cái từ giải
phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai chữ: Tình
Yêu.”
*
Tôi thu tôi
lại...
Hạt bụi
nào...
He has
turned into the life-giving ear of grain
Or into the
gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ
ấy biến thành mầm sống
Thành hạt
mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó
D.M. Thomas
trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở
trong ta],
nói về cái chết của Pasternak.
Trịnh Công
Sơn:
Chim Thiêng
Hót Lời Mệnh Bạc
L'oiseau
sacré chante le destin tragique
*
Un jour se
noyer et flotter
[Cũng sẽ
chìm trôi]
Ah ! la lune
en haut
Assis je
suis en bas
La course de
l'eau la limpidité
Mon âme
l’eau trouble
Les hérons
s'envolent crient le calme absolu
Les chemins
de la vie proches
Mais les pas
ralentissent de fatigue
Ah ! la lune
en haut
Assis je
suis en bas
Les chemins
tordus
La lumière
soudaine
Depuis
l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque
goutte de l'infini
Se noie
disparaît sans appel de retour
Lời Việt::
Nhật nguyệt
í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a
trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a
bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời
í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt
í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường
í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a
chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt
í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm
Partir et
revenir
[Một cõi đi
về]
Les années
écoulées les départs
Partir
tourner la vie les fatigues
Les épaules
aux deux bouts de la lune
Le reflet
transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera
la parole des arbres
Quelle sera
la parole de l'herbe étrangère
Un seul
coucher du soleil dans l'ivresse
Quelle vie
légère appartient déjà au passé
Ruine du
printemps ruine de l'été
Un jour
d'automne l'écho du galop au loin
Nuage couvre
la tête soleil sur les épaules
Les pas s'en
vont les rivières savent rester
Soudain
l'otage de l'amour m'appelle
A
l’intérieur apparaît l'ombre de l’être
Le détour de
la pluie dans l'âme
Une pluie
fine
Cent ans
l'infini la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu
sera chez moi
Les chemins
les détours les cercles en ruine
Le côté a'
herbe le côté de rêve
Chaque
parole du crépuscule
Chaque
parole de la terre des tombes
Voix de la
mer des fleuves de leurs sources.
Alors qu'on
rentre on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers
les monts
Revenir vers
le large
Les bras de
la vie n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent
impossible souffle tout au long de la
jeunesse
Trinh Cong
Son
Traduit par
Le Huu Khoa
Connu avec
Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam
actuel, Trinh
Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de
ses êtres
». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi
l'éphémère de
l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation
sur la
souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du
passage
des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du
bouddhisme, du taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec
l'inexistence de l'être.
Được biết đến
cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của
Việt Nam
hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và
hát
"những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu
vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp.
Từng bước,
Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài
ca của
ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi
cầy lại,
và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư
tưởng
Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô
thường của
kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part
d'Exil]
*
Note: Tks K.
Gấu
Trong
những bài viết về TCS, tuyệt nhất, là bài
của Gấu, như ông chánh tổng An Nam ở Paris phán, nhưng, theo Gấu, bài
thần sầu,
là của Le Huu Khoa, trên. Nhất là cái câu "Chim Thiêng Hát Lời Mệnh
Bạc".
Quá
đúng,
với TCS và những bài nhạc của ông, nhưng phải trừ bỏ những bài phản
chiến đi, vì
chúng đã được "thanh toán".
Đám
lau nhau còn lại viết về ông chỉ là theo đóm ăn
tàn mà thôi.
Đó là sự thực.
Cái gì gì "dã tràng xe cát"? TCS mà là dã
tràng xe cát?
Không lẽ cả 1 gia tài âm nhạc đại diện cho cả lũ chúng ta đối với hậu
thế, mà là
dã tràng xe cát ư?
Trang Kundera
La mémoire de Prague: Hồi
ức Prague
Pour Kundera, «Kafka est
le prophète d'un monde sans mémoire»
et Gustáv Husák, septième président de son pays, est le «président de
l'oubli».
Pour lutter contre l'oubli, les Tchèques ont trouvé la meilleure
solution:
écrire. Ils furent aussi les premiers à élire un écrivain, Václav
Havel, comme
président.
Khi
Đỏ
là Đen
|
|