*




*

*

26.1.2011



Thơ mỗi ngày

Sonnet XLIII - Edna St. Vincent Millay

Đăng ngày: 07:56 26-01-2011

Sonnet XLIII

What lips my lips have kissed, and where, and why,
I have forgotten, and what arms have lain 
Under my head till morning; but the rain
Is full of ghosts tonight, that tap and sigh
Upon the glass and listen for reply,
And in my heart there stirs a quiet pain
For unremembered lads that not again
Will turn to me at midnight with a cry.
Thus in the winter stands the lonely tree,
Nor knows what birds have vanished one by one,
Yet knows its boughs more silent than before:
I cannot say what loves have come and gone.
I only know that summer sang in me
A little while, that in me sing no more.
Edna St. Vincent Millay

Bài sonnet Bốn Mươi Ba

Đôi môi nào tôi đã hôn, ở nơi nào, và vì sao,
Tôi đã quên, và cánh tay nào 
tôi gối lên đến sáng; nhưng cơn mưa
chứa đầy những bóng ma đêm nay, gõ cửa thở dài
trên cửa sổ chờ nghe câu trả lời
Trong tim tôi khuấy nhẹ một nỗi đau thầm lặng
Cho những người bị lãng quên không trở lại
Tìm tôi nửa đêm với tiếng khóc
Vì thế, cái cây đứng cô đơn trong mùa đông
Không biết loài chim đã lần lượt biến mất
Tuy biết rằng cành của nó đã im lặng hơn lúc trước
Tôi không thể nói tình yêu nào đã đến rồi đi
Tôi chỉ biết cái mùa hè đã ca hát trong tôi
một ít lâu, không còn hát nữa. 

Son-nét là thể thơ 14 câu, mỗi câu có 10 chữ.
Edna St. Vincent Millay, nhà thơ Hoa Kỳ, sinh ngày 22 tháng Hai, 1892 mất ngày 19 tháng Mười, 1950. Ngoài làm thơ bà còn viết kịch, và cũng là nhà tranh đấu cho nũ quyền. Bà là người phụ nữ thứ ba được giải Pulitzer về thơ. Thi sĩ Richard Wilbur quả quyết bà là người viết những bài son-nét hay nhất trong thế kỷ.

Nguồn trích dẫn (0)

Top of Form

1 Lời bình

Ẩn lời bình Hiện lời bình

cúc quỳ

15:06 26-01-2011

hì hì. Đọc mấy cái này em chẳng hiểu mấy, chắc tại vì trình độ văn hóa em lùn bằng ngoại hình của em nên nó thế chị Lì ạ! Mà hôm nay 23 thì ở bên đó chị có thả cá tiễn ông táo lên trời không chị?

Vua Lì

16:24 26-01-2011

Thật tình chị cũng chẳng hiểu nhà thơ nói gì dù chữ nào trong bài thơ chị cũng biết. Ở đây chị đang chuẩn bị đón một cơn tuyết nữa, chừng 2 tấc tuyết.

*

Bài thơ này, theo thiển ý của GNV, làm nhớ đến bài hát của TCS, “Môi nào có còn thơm, cho ta phơi cuộc tình…” …  cả hai đều nói về những cuộc tình đã qua, bây giờ còn lại chỉ là nhớ nhung, nuối tiếc.
Với riêng GNV, bài nhạc của TCS hay hơn nhiều, ấy là vì GNV này có tí kỷ niệm y chang, “có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi”!

 



Diễn Văn Nobel 2010
Nobel Lecture
December 7, 2010

In Praise of Reading and Fiction
Ca Ngợi Đọc và Giả Tưởng


Đêm giữa ban ngày


Ghi chú trong ngày


Mémoirs
Đóa hoa hồng vùi quên trong tay

I wish you will have another book...

Tks.

Tôi sẽ dịch tiếp cuốn “Gọi người đã chết”, thay cho lời chúc Tết năm nay.
Cuốn này, ngay khi vừa mới ra được hải ngoại, tôi đã dịch, được 1, 2 chương đầu, rồi lo đi bán bảo hiểm nhân thọ...
Bây giờ nhớ lại những ngày tù Bangkok, nghĩ đến anh bạn tù người Mã Lai nằm kế bên, nhớ tới.... bèn lôi ra dịch tiếp.

Phận lưu vong


Ở hay Về?

V/v Hoàng Ngọc Hiến ra đi

*

Hoàng Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông,
tại Hà Nội,  Tháng Sáu, 2001].

Cái hình ở trên bài viết của BBC về HNH là của Tin Văn đấy nhé!

BBC còn thua cả mấy cái blog trong nước!
Họ đều ghi nguồn hình. Còn ông nội BBC, lấy của TV, cho nó 1 cái nick khác, làm như của ổng!

Lần đó, DMT chở xe gắn máy tới thăm ông. Ông đưa cái bản thảo bài viết về VHHN. GNV về lui cui đánh máy, cho đăng trên VHNT của PCL, và trên Việt Báo online. Sau này, khi talawas phỏng vấn ông, nhưng lại xin ý kiến để đăng, tất nhiên ông từ chối. Điều này chứng tỏ HNH rất khéo xử sự. Đăng thì cứ đăng, nhưng nếu xin phép, thì ông đành lắc đầu!

Chi tiết thú vị nhất, trong khi nói chuyện, bà vợ mang nước trà đãi khách, và hỏi, thế nào, ở bên Úc, họ còn nói xấu ông nhà tôi hay là hết rồi.
HNH ngượng quá, xua tay lia lịa, ngăn bà vợ, GNV bật cười, nghĩ thầm, bà tưởng GNV từ Úc về VN.
Theo NTV, HNH rất chịu Simon Leys, chuyên gia về văn học TQ, chi tiết này, không thấy đám trong nước chỉ ra, chắc không biết?
*

Miễn xong một show

Trong phim Xử Án Tại Nuremberg, những nhà trí thức Nazi, khi được hỏi về Lò Thiêu, đã trả lời, "Chúng tôi không biết". Toà nói, các ông phải biết, bắt buộc phải biết, vì các ông là những nhà trí thức của chế độ đó.
Tôi cũng tưởng tượng ra một vụ Xử Án Lò Cải Tạo, và một ông HNH đã được gọi ra để làm nhân chứng.
Thay vì nói, "Tôi Không Biết",
Ông nói: "Tôi Xin Lỗi".
Đó là tinh thần bài viết của ông, theo tôi. 

GNV nhớ là, NTV đọc đoạn trên, viết về bài viết của HNH về văn học hải ngoại, thú quá, phán, ông chơi cái đòn này đúng là tuyệt cú mèo. Cứ nhét vào miệng mấy ông này những câu như trên, đành phải nuốt, không làm sao nhả ra được!

Bài viết của Gấu, là nhân nhận xét của PNH và của THT, về bài viết của HNH:

Cảm giác của tôi sau khi đọc chuyên luận được tài trợ bởi trung tâm William Joiner của Hoàng Ngọc Hiến là rất hụt hẫng. Tôi tự hỏi: kết quả của một công trình nghiên cứu gây vô số tranh luận, kiện tụng hàng năm trời, rốt cuộc chỉ là một bài viết sơ sài vậy sao?
[Trích bài viết của Phan Nhiên Hạo, trên talawas].

Tuy nhiên, giữa lúc talawas đăng hàng loạt bài khảo luận như của Hoàng Ngọc Hiến dạy đời về cách làm văn chương hay dạy hải ngoại về văn học hải ngoại, mà khi đọc xong, thấy tức giùm cho talawas. Không hiểu talawas nể trọng cái bằng cấp giáo sư tiến sĩ hay tài năng mà hết đăng tin Hoàng Ngọc Hiến thăm đại học Mỹ, hết phỏng vấn tốn công tốn sức để rồi lại khổ công đính chánh, xin lỗi.
[Trích bài viết của Trần Hoài Thư, trên talawas].

Dạy ở Lương Ngọc Quyến ít lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà Nội. Thầy Nguyễn Lương Ngọc cho Hiến có hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ lý cho Trần ĐứcThảo. Trần Đức Thảo thấy Hiến là đảng viên, không nhận. Vì thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý cho Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô viết.
Hồi Ký NDM

Chi tiết trên thú vị thiệt!

*


 

*

Cột Đồng Mã Viện

Lần đầu tiên Gấu nhìn thấy nó, là khoảng 1949-50, khi, sau khi thi xong cái bằng tiểu học tại khu kháng chiến tức Phú Thọ, chẳng chờ coi đậu hay rớt, Gấu trở về Tề, gặp bà cụ của Gấu, và bà chị và hai đứa em. Về, bà nội cho biết mẹ mày và mấy đứa ở dưới Vân, quê ngoại của Gấu, mày ở nhà mấy ngày, chờ có người đi thì tao gửi đi cùng. Làng chẳng còn một mống đàn ông, con trai. Ông giáo Dực sợ Tây đi càn bắt Gấu lên đồn, chi bằng mang nó đi lên đồn trước, cho ông Tây trưởng đồn nhìn mặt. Ông là thông ngôn, đại diện cho cả làng, để giao thiệp với Tây, vào ban ngày, tối có du kích lo.

Cái đồn lúc đó không trơ trụi chỉ 1 cái lô cốt như trên. Chung quanh là trại lính, lính Tây, lính Ta, tức lính Ngụy, tức Việt Gian, tức Bảo Chính Đoàn. Xa chút nữa, là những thửa vườn, ruộng của vợ con lính. Cả 1 khu bề thế.
Chỉ đến khi trở về, hơn 1 nửa thế kỷ sau đó, nhìn cái lô cốt trơ trọi, Gấu mới ngộ ra cái thế yểm bùa của nó. Cái Ác Bắc Kít, bị phù thuỷ Cao Biền, bị tướng thiên triều Mã Viện, trấn áp, bao nhiêu đời, [cái này là hiện thực huyền ảo nhe, đừng chửi Gấu, Tây mới cai trị sau này, sao mi dám lần tới thời kỳ lập nước], phải đợi đến ngày 30 Tháng Tư 1975, mới thoát ra được, và gây họa cho giống Mít, đúng như nhà thơ ông anh tiên đoán: Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này!

Khủng khiếp thật.

Thảo nào Thảo Trường gật gù, mi về chụp cái hình “cột đồng Mã Viện”, qua Việt Trì đốt nén hương cho ông cụ mi, xong, là đi, chẳng cần phải về nữa!
*

“Vì nghĩa của từ ‘vô tri’ trong tiếng Việt đã được xác định rất rõ: không có năng lực tri giác. Vô tri được dùng để chỉ tất cả những vật chất ở trong tình trạng không có khả năng tri giác, như sỏi đá… hay là những đồ vật không có linh hồn, không có khả năng nhận biết, tri giác: bàn, ghế… Vì thế ‘vô tri’ còn có từ đồng nghĩa là “vô tri vô giác”. Và vô tri được dùng như là tính từ, thường phải nói là ‘vật vô tri’, thông thường bản thân từ ‘vô tri’ không đứng một mình. Trong tiếng Pháp cũng vậy, chỉ có tính từ “inanimé”, không có danh từ tương ứng, người Pháp cũng nói ‘objet inanimé’ [vật vô tri]. Cuốn tiểu thuyết của Kundera không đề cập tới tình trạng vô tri này, mà đề cập đến tình trạng không biết của con người. Các nhân vật có đầy đủ tri giác, tâm hồn, trí tuệ, cảm xúc, nhưng họ, hoặc là không biết đến quá khứ, hoặc là không biết đến hiện tại, hoặc là không biết tương lai, do vậy cũng có thể không biết cả ba thứ này. Nếu dịch từ l’ignorance của Kundera tôi sẽ chọn từ ‘sự không biết’”, TS Nguyễn Thị Từ Huy giải thích. Ngoài ra, theo chị, nếu muốn dùng cấu trúc hán ngữ để dịch từ l’ignorance thì phải dùng chữ “bất tri”.
Tiến Sĩ Từ Huy.

“Vì nghĩa của từ ‘vô tri’ trong tiếng Việt đã được xác định rất rõ: không có năng lực tri giác.

Từ điển nào định nghĩa? Phải cho biết rõ mới được.
Bây giờ, cứ giả thử như có 1 cuốn từ điển của ông A, định nghĩa như trên, thì cũng có từ điển của ông B, “định nghĩa rất rõ”, khác, trên. Chúng ta thường gặp chuyện này, và nó là bình thường. Vì thế mới cần đến từ điển, để tra cứu, để tìm đúng chữ, cho nội dung bản văn cần dịch. “Ignorance” mà dịch là “bất tri” thì thật là bỏ mẹ, vì bất tri, nó có nghĩa là “bất tri giác”, hết còn biết cái chó gì nữa, nghĩa là mê man, nghĩa là sắp đi tầu suốt! (1)

Vô tri, thường được hiểu theo nghĩa “non savoir”, không [có] tri thức, chứ không phải là "không có năng lực tri giác", như TS Từ Huy viết.

Bởi vì ‘không có năng lực tri giác”, thì lại có nghĩa là chậm hiểu biết, trì độn, hoặc quá nữa, điên.

Thú thực, GNV không thể hiểu nổi, tại làm sao mà cả đám xúm vào chơi nhau, chỉ vì một từ dịch từ 1 từ tiếng Pháp. Trong những nghĩa của từ “ignorance” còn có nghĩa thất học, do không biết, vì không được đi học. Không lẽ tất cả chúng ta đều là 1 lũ vô tri, bất tri, vô học, thất học?

cấu trúc hán ngữ: Đúng ra phải gọi là danh từ Hán Việt. Làm gì có ‘cấu trúc hán ngữ’ ở đây!

Có vẻ như bạn NL có hơi bị nhiều kẻ thù!
Thấy Hậu Vệ cũng nhảy vô ăn có, ăn ké, đánh ké!

Hà, hà!

(1)

Đây là kiểu suy luận ‘mô phỏng’ Từ Huy, ‘vô tri’ là ‘vô tri vô giác’!
Thực sự, bất tri là ‘làm sao biết’, như trong, “bất tri tam bách”, làm sao biết ba trăm năm sau, có đứa khóc GNV?
Ý này lại mô phỏng 1 độc giả TV, khi ra lệnh dẹp mục Dọn: không lẽ ba trăm năm sau, đọc GNV chỉ thấy đếch, đéo, kít… ư? 


Tình Yêu như Trái Phá

Sắp phát hành 300 bức thư tình của Trịnh Công Sơn

Note: ‘Bỗng dưng muốn khóc’, và bỗng nhớ đến những bức thư của Kafka gửi cho Milena!

*

LTH:  Nói về Trịnh Công Sơn, một đỉnh điểm điển hình cho một công dân sáng tác đóng góp vào việc làm mất Miền Nam vào tay Miền Bắc. Tôi nghe một cuộc phỏng vấn trên một đài truyền hình trên net, bà Đặng Tuyết Mai vợ phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ kể lại bà cho mời ông Trịnh Công Sơn vào  hát nhạc tình ca và bắt tay với nhau khen nhau này nọ trong dinh thự ông Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Rồi chính ông Trịnh Công Sơn ra ngoài làm nhạc Phản Chiến nhiều hơn ai hết. Thời ấy mấy ai dám làm nhạc Phản Chiến đĩnh đạc và được sống sốt như ông Trịnh Cộng Sơn. Phản Chiến là phong trào Quốc Tế. Tôi nghe nói có lúc chính quyền Miền Nam đòi bắt ông Trịnh Công Sơn, nhưng Người Mỹ không cho. Rồi tôi lại nghe ông Trịnh Công Sơn theo VC với những người thân và bạn thân của Nhóm Huế của ổng theo fò VC  tối đa, đến độ VC về Sài Gòn năm 1975 là Trịnh Công Sơn nhào ra hát bài Nối Vòng Tay Lớn trên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Tôi cũng mê nhạc Trịnh Công Sơn, mê chết đi được. Nhưng thú thật, ở một cương vị cá nhân bị mất mát quá nhiều vì chiến tranh, tôi cũng phải nhìn lại cuộc chiến với suy tư để tự đi tìm cho mình một lời giải thích.  Tôi muốn hỏi ông một câu ông nghĩ sao về trường hợp của Trịnh Công Sơn?

HHT:  Tôi khinh anh ta.

Trích Gió –O phỏng vấn Hoàng Hải Thuỷ
 

Theo NQT tôi, nhận xét của LTH và thái độ của HHT, chỉ nói lên bề mặt của trường hợp TCS.

Với HHT, ông ở lứa tuổi không bị gọi lính, cũng đã từng sống 1 phần nào, thì cứ nói đại như vậy, cuộc đời của mình, khác hẳn với 1 người như TCS, 1 nghệ sĩ thù ghét chiến tranh, như mọi nghệ sĩ, và rất yêu cuộc đời, chưa từng biết mùi đời nó ra làm sao, vậy mà lúc nào cũng phải lo nơm nớp, mỗi khi ra đường, bị Quân Cảnh thộp cổ!
TCS chắc chắn nghiêng về phiá VC, nhưng ông không thể chọn đường lên rừng theo VC, vì ông đâu có mê cái chuyện cầm súng giết người, hay cổ võ người khác đi giết người, theo cái kiểu, đường ra trận mùa này đẹp lắm!
Còn bảo nhạc của ông phản chiến ư? Có thể nói, phản chiến là ‘yếu tính’ của cả 1 miền đất, là Miền Nam Cộng Hòa. Cả 1 miền đất nói không với cuộc chiến, chưa kể cái đám khốn kiếp nằm vùng tiếp tay cho cuộc chiến. Làm sao không mất nước?
Mất nước rồi thì đổ tội tứ lung tung, sao không thấy cái tội của chính mình ở trong đó?
Trong bài viết thật ngắn, ngay khi TCS đi xa, Gấu đã viết về cái điều cả 1 miền đất nói “Không” đó.  (1)

Phản chiến quốc tế là của quốc tế, còn phản chiến của Miền Nam, là của lòng người Miền Nam, khác hẳn thứ tâm lý ăn cướp của Miền Bắc, và, ngay cả cái tâm lý ăn cướp này nó cũng có những lý do tiềm ẩn của nó! Cái tâm lý ăn cướp của Miền Bắc còn đánh lừa được cả một đế quốc CS quốc tế, làm sao mà chúng ta không bị lừa cho được?

Cả 1 đế quốc Đỏ đứng đằng sau Miền Bắc, phục vụ ý đồ ăn cướp của Miền Bắc, ngụy trang bằng chân lý nước Việt Nam là một, bằng chiến thắng thằng Mỹ là chiến thắng của CS chống lại Tư Bản bóc lột vv và vv…

Quốc tế Đỏ chẳng đã từng khuyên, thôi tha cho thằng Mẽo, sức mạnh quân sự của nó ghê gớm lắm đấy, đừng chọc giận nó, anh VC Miền Bắc phán, việc đó để tụi em lo, đàn anh chỉ cần chi viện, đủ súng, đủ đạn, đủ hoả tiễn, là OK!

[còn lèm bèm tiếp]

(1)

…  Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.

TCS, sau 1975, bị VC đầy đọa như thế nào, thì chúng ta biết, ông "phản tỉnh" như thế nào, thì chúng ta hay, “đéo” phải là cuộc chiến giải phóng, mà là nội chiến, rồi ông “sám hối” bằng rượu, đến nỗi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục, chúng ta cũng biết, vào gái, toàn chiêm ngưỡng gái đẹp, chiêm ngưỡng và kính trọng, contemplation et respect, tình yêu lý tưởng, amour platonique....
Chúng ta có thể “thương” ông, nhưng làm sao...  khinh ông ?

Khinh, là khinh thế nào? Ông đâu làm gì mà khinh ông? Lên Đài Phát Thanh Sài Gòn hát Nối Vòng Tay Lớn? Đó không phải là giấc mộng lớn của cả dân Mít? Nó không trở thành giấc mộng lớn, thì phải khinh, phải thù cái lũ VC khốn nạn, đánh lừa dân Mít, bằng lời hứa lèo giấc mộng
 lớn, chứ sao lại khinh người hát nó?


*

Vậy là tôi mong một trong hai điều.
Hoặc tiếp tục im lặng, và điều này có nghĩa: “Don't worry, I'm fine".
Hai là, 1 vài hàng.
Kafka

Luc nao ranh, thi tra loi:
I am OK, don't worry abt me
Or something like that
Plse
GNV

Ai điếu Franz Kafka.
 Milena Jesenka

Dr Franz Kafka, một nhà văn viết bằng tiếng Đức, sống ở Prague, và chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng Kierling, gần Klosterneuburg bei Wien. Ở đây ít người biết ông, bởi vì ông là một người sống ẩn dật, một hiền nhân luôn mang nỗi sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với căn bệnh phổi, và tuy loay hoay tìm cách chữa trị, ông lại như muốn nuôi căn bệnh đó, cưu mang nó trong tư tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá thư: khi trái tim và linh hồn không thể chịu đựng nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu giùm nửa gánh nặng, như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của ông là vậy. Nó cho ông một sự dịu dàng kỳ diệu, và một sự tinh khiết trí thức không đắn đo, câu thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài thể chất, Franz Kafka dồn lên hai vai của căn bệnh, toàn thể nỗi kinh hãi cuộc đời. Ông là một người cả thẹn, luôn khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy những cuốn sách ông viết ra thì thật ghê sợ, và đau đớn. Ông đã nhìn thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình, vò xé, và tiêu huỷ những con người vô phương chống đỡ. Ông quá tiên tri, quá thông minh để có thể sống, và quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông yếu ớt như những con người cao đẹp yếu ớt, những con người không thể chiến đấu chống lại nỗi sợ bị ngộ nhận, chống lại trò ma muội, hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa nhận ngay từ đầu, cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một sự trợ giúp; sự nhẫn nhục cam chịu này chỉ làm cho kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân, một sự hiểu biết mà chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới có thể có được. Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong một thoáng nhận ra kẻ khác, hầu như một nhà tiên tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật phi thường, và sâu thẳm; chính ông là một thế giới phi thường và sâu thẳm. Ông đã viết những cuốn sách có ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi. Chúng thực, trần trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi có tính biểu tượng. Chúng đầy sự khinh miệt khô cằn và là cảm quan của một người nhìn thế giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó, một người mà nỗi chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi bon chen hay tìm nơi ẩn trú, như những người khác thường làm, trong những ảo tưởng này nọ, của lý trí, hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả. Dr Franz Kafka đã viết "The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, vẫn chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech trên Neumann's Cerven (1); "the Judgment", sự xung đột của hai thế hệ; "The Metamorphisis", cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức hiện đại; "In the Penal Colony"; và những tuyển tập Meditation và A Country Doctor. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng (2), Before the Law, còn trong dạng bản thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một trong những cuốn sách, một khi đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới được miêu tả hoàn hảo đến nỗi mọi phê phán sau đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những cuốn sách của ông vẽ nên sự ghê rợn của những ngộ nhận thầm kín, của niềm ngây thơ tội lỗi giữa những con người. Ông là một nghệ sĩ và là một người với một lương tâm khắc khoải, đến nỗi ông có thể nghe, trong khi những người khác, điếc, cảm thấy, chính họ đang yên ổn.

 (Národni Listy, June 6, 1924)

 (1)  Milena muốn nói tới tuần báo Kmen, cũng của S. K. Neuman.

(2)  Đây là muốn nói tới cuốn Vụ Án, Milena chỉ biết có truyện ngắn "Before the Law". Bà cũng không biết cuốn tiểu thuyết chót của Kafka, Lâu Đài. (Ghi chú của nhà xb Kafka Library).


Một giấc mơ
Milena Jesenska

"Bất cứ nơi nào - ra khỏi thế giới."

Tôi hoàn toàn xa cách quê hương của tôi - ở Mỹ? ở Trung Hoa? - một nơi nào bờ bên kia của thế giới, khi cuộc chiến, hay một trận dịch bùng ra suốt địa cầu, hay có lẽ đó là một cơn hồng thuỷ. Tôi đã không nghe bất kỳ một chi tiết nào về thảm họa. Nhưng tôi bị xô giạt bởi một cơn hối hả khùng điên - nôn nóng, và kích động. Tôi không biết nơi mà chúng tôi trôi giạt tới. Tôi cũng không hỏi tại sao. Những đoàn tầu, chuyến nọ tới chuyến kia, không biết đến khi nào là tận cùng, cứ thế ra khỏi ga, lao vào thế giới. Chuyến nào cũng đầy ứ người. Sự hoảng loạn túm chặt đám nhân viên hỏa xa; không người nào muốn là kẻ cuối cùng bị bỏ lại. Mọi người giành giựt chỗ ngồi như giành giựt mạng sống của họ. Những người là người chen chúc giữa tôi và nhà ga, không một khe hở để mà lọt tới. Tôi thật tuyệt vọng.
"Tôi còn trẻ, tôi không thể chết," Tôi gào lớn.
Nhưng cũng có những người còn trẻ đứng phía trước. Và vé tầu đều đã bán sạch. Chuyến tầu sắp rời là chuyến chót. Ánh đèn ga, xanh xanh, đỏ đỏ, lập lòe trong ánh sáng ban ngày, như dấu báo của tai ương. Không còn sự cứu rỗi.
Một người nào đó chạm vai tôi. Khi tôi quay lại, một người đàn ông mà tôi không quen giúi vào tay tôi một miếng giấy nhỏ và nói: "Cái này sẽ cho bạn đi bất cứ nơi nào trên thế giới. Bạn có thể qua biên giới, và bạn sẽ nhận được một vé tầu. Đừng sợ, và hãy can đảm lên. Thôi đi đi, tới giờ cao điểm rồi."
Mặc dù không thể nhớ đã từng gặp khuôn mặt ở đâu, nhưng tôi biết đây là một mối quen xưa, và là một người bạn tốt. Có thể anh ta là bạn tôi và tôi đã không biết anh ta. Tôi cảm thấy không tin cậy, không biết ơn, và cũng chẳng hề hy vọng. Nhưng tôi vâng theo, như một người chẳng còn một chọn lựa nào khác. Tôi không lo sợ. Sự tình như thể tôi vẫn hằng mong một điều khủng khiếp xẩy ra, và tôi nhẹ nhàng thở hắt bởi vì sau cùng chuyện đó đã tới.
Tôi chen lấn kiếm đường qua đám đông, và điều xẩy ra đối với tôi, đó là, tự cứu bản thân trước muôn ngàn người đang đứng ngó, đúng là một việc làm tởm lợm. Một giọng nói ma mãnh cất lên đâu đó trong tôi:
"Vậy là anh thực sự hy vọng anh có thể cứu lấy anh?"
"A, thì vậy đó, biết đâu, có thể," Tôi nghĩ.
Và giọng nói:"Nếu một người nào đó có thể được cứu thoát, người đó có đáng tởm không?"
"Không, không, không, không," Tôi tự chống đỡ.
Thảm họa bắt đầu khi con tầu chuyển bánh. Đất lún thành vực, và thế giới tự biến thành một mạng đường hỏa xa, người người cứ thế chạy dọc theo, những con người đã mất quê hương, xứ sở của họ. Đường ray nằm trên biển, và những con tầu điên khùng lao tới. Cuối cùng chúng ngừng tại biên giới.
"Tất cả ra ngoài để kiểm tra," người lái tầu rú lên.
Đám đông đổ tới trạm hải quan; tôi một mình đứng trơ ra một bên, không thông hành, không hành lý. Tay tôi nắm chặt miếng giấy. Những cơn run rẩy chạy dọc xuống sống lưng. Một viên chức tới gần tôi và hỏi giấy tờ. Những giây phút trở thành thiên thu. Tôi mở miếng giấy. Viên chức, như hết còn kiên nhẫn, đứng sang bên, tay đưa ra, mong đợi. Ông có vẻ quyết định không để tôi qua. Tôi đưa mắt nhìn mẩu giấy. Đó, bằng hai chục ngôn ngữ, là những chữ: "Bị kết án tử hình."
Trán tôi vã ra mồ hôi lạnh. Tim tôi ngừng đập. Nỗi ghê sợ, đau thương, hoảng loạn ôm tròn lấy ngực tôi. Cơn kinh hoàng chết chóc bóp nghẹt cổ họng. Và với một chút hy vọng le lói, trong lúc nằm chết, bằng tàn hơi, tôi nói với người viên chức:
"Có lẽ đó đúng là một mật ngữ, để cho tôi được dễ dàng hơn, tới bờ bên kia thế giới?"
[A.X. Nessey, Tribuna, June 14, 1921]


Trang Kundera

La mémoire de Prague: Hồi ức Prague

Pour Kundera, «Kafka est le prophète d'un monde sans mémoire» et Gustáv Husák, septième président de son pays, est le «président de l'oubli». Pour lutter contre l'oubli, les Tchèques ont trouvé la meilleure solution: écrire. Ils furent aussi les premiers à élire un écrivain, Václav Havel, comme président.


Khi Đỏ là Đen