|
Mưa
& Tuyết & Rừng
sau nhà
Mưa
& Tuyết & Cây
Noel trước nhà
VOA: Quay sang "Khúc Thụy Du"
xin
anh cho biết là anh sáng tác bài thơ trong trường hợp nào?
Du Tử Lê: Bài "Khúc Thụy Du"
tôi
viết vào năm 1968, khoảng thời gian vừa xảy ra cái tết Mậu Thân. Hồi đó
tôi làm
phóng viên chiến trường, được cử đi tường thuật về một trận đánh mà tôi
còn nhớ
là ở trên đường ra Quang Trung. Khi tôi đi như vậy thì còn giới nghiêm,
dọc đường
gần như không có người. Tôi thấy những xác chết, những cánh tay, những
phần
thân thể bị văng lủng lẳng trên các dây điện. Tôi cũng nhìn thấy những
con chó
hoang vì chủ đã bỏ đi lánh nạn gậm những khúc xương người. Tôi bị chấn
động trước
cảnh tượng này và làm ra bài thơ. Khi về một người bạn của tôi ngày đó,
anh
Trần Phong Giao, làm tờ báo Văn, làm một số báo sau biến cố tết Mậu
Thân, hỏi
xin bài. Tôi đưa bài thơ đó cho anh. Tôi muốn nói "Khúc Thụy Du" là
một bài thơ mới về chiến tranh. Nó hoàn toàn không phải là một bài thơ
tình.
Tình yêu trong "Khúc Thụy Du" của tôi chỉ là một điểm xuyết thôi. Tôi
đặt vấn đề là trong một cuộc chiến tranh như vậy, chết chóc như vậy thì
tình
yêu nó sẽ như thế nào, nó sẽ thảm hại ra làm sao, và cuối cùng vẫn là
định mệnh
con người, cuộc sống của con người nó hoàn toàn vô nghĩa, nên bài thơ
mới mở
đầu bằng câu: "hãy nói về cuộc đời khi tôi không còn nữa." Nhưng năm
1983 khi anh Anh Bằng mua được cuốn thơ đó, lại chọn ra, tôi nói rõ,
anh ấy
chọn ra những câu thơ nói về tình yêu chứ không phải là những câu thơ
nói về
chiến tranh, mặc dù những câu thơ nói về tình yêu chỉ là 1/10 của bài
thơ đó
Bài thơ
Khúc Thụy Du, nếu không
có những phát giác mới về nó, qua những dòng tâm sự trên đây, thì chúng
ta cũng
chỉ xếp nó vào “cũng” 1 dòng thơ ăn mày ăn xin tình yêu, sự thương hại,
của 1 đấng
đàn ông bị người yêu “bye bye, sang ngang, sang sông, lên xe hoa, theo
bước về
nhà ai…” vốn thường gặp trong thơ DTL, thí dụ, hai câu, “em đi áo mỏng
mềm lưng
phố/có động lòng thương kẻ cuối đường”, Gấu này đã từng gặp đúng cái
cảnh như
trên, và hiểu ra, nhà thơ làm hai câu thơ, vì biết rằng, thằng bạn của
anh sẽ có
ngày cần tới nó!
Tuy
nhiên, ngay cả khi chấp
nhận cùng 1 dòng như thế, thì người đọc thơ, kẻ nghe nhạc phổ thơ vẫn
cảm thấy,
bài thơ hình như quá thê luơng, và không chỉ nói về tình yêu, y hệt bài
Tình Nhớ,
mà nhà phê bình DT đã có lần phát bực, Tình Nhớ mà liên can gì tới phản
chiến,
và chúng ta cũng có thể mô phỏng ông, và phán, KTD thì liên can gì tới
Mậu Thân.
Vậy mà cả hai đều được sáng tác từ những hình ảnh Mậu Thân, của hai kẻ,
một trốn
lính, và 1, không trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến.
Những
phát giác trên đây, có
gì tương tự với Kinh Cầu của
Akhmatova.
Một bài thơ than khóc cho số phận cá nhân, của 1 bà mẹ có con bị bắt,
trở thành
biểu tượng cho mọi bà mẹ đau khổ vì 1 chế độ độc tài.
Còn một
bản nhạc nữa, cũng từ
Mậu Thân mà ra, nhưng được viết trực tiếp từ những kẻ tham dự cuộc
chiến, và có
lần GNV đã coi nó, chẳng thua gì Kinh
Cầu, là Rừng Lá Thấp
Những
phát giác trên đây, có
gì tương tự với Kinh Cầu của
Akhmatova.
Một bài thơ than khóc cho số phận cá nhân, của 1 bà mẹ có con bị bắt,
trở thành
biểu tượng cho mọi bà mẹ đau khổ vì chế độ độc tài
*
Trước
khi “Một ngày” xuất hiện, Akh. đã đọc nó, qua Kopelev, bạn của cả hai.
“Hai
trăm triệu
người Nga phải đọc cuốn này”, bà nói với những người quen biết. Trong
lần gặp gỡ
liền sau khi cuốn sách xuất hiện, bà nói với Solz:
“Anh có biết, chỉ
trong vòng
1 tháng anh là 1 người nổi tiếng nhất trên toàn cầu?”
“Tôi biết, nhưng
nó không
kéo dài lâu đâu”.
“Liệu anh chịu nổi danh vọng?”
"Thần kinh tôi cứng lắm, tôi chịu nổi những trại tù của Stalin”.
“Pasternak chịu
không nổi. Thật khó chịu nổi danh vọng, nhất là khi nó đến muộn”
Mặc dù
kính trọng lẫn
nhau, cuộc gặp gỡ không ngon cơm. Solz có trình ra một số thơ của ông,
và để đáp
lại, Akh đưa ông đọc Kinh Cầu.
Chàng thanh niên 43 tuổi, với cuốn tiểu thuyết đầu
tay, chỉ qua 1 đêm, trở thành nổi tiếng, sau đó nói
với
Kopelev:
"Một
bài thơ tốt, tất nhiên. Đẹp.
Nhưng nói cho cùng, cả một quốc gia đau khổ, hàng chục triệu
con người,
còn đây là 1 bài thơ về một trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa con
trai… Tôi
nói với bà là bổn phận của một thi sĩ Nga là viết về đau khổ của nước
Nga,
vượt lên đau
khổ riêng tư, viết về nỗi đau của cả nước…”
Nhưng
chính là 1 nỗi đau cá
nhân, riêng tư, nhưng "đau cho tới nơi, tới bến", thì lại bật ra nỗi
đau
của những
nỗi đau, của tất cả những nỗi đau!
Bài thơ
KTD của DTL, được
viết ra, theo “cách” đau đó. Mậu Thân, chàng lên đường làm nhiệm vụ,
như là 1
gã phóng viên Tâm Lý Chiến, nhìn thấy người chết, chàng đau quá, và
càng đau
bao nhiêu, chàng càng rút sâu vào tình yêu bấy nhiêu, và bật ra KTD!
Đây là
điều mấy ông thực sự cầm súng, mà “không
thực sự cầm
cây viết”, không hiểu được!
Trong
chương Bearing the
Burden of Witness: Requiem, tác giả
cuốn "Chữ Đuổi Thần Chết Chạy Có Cờ", viết:
Kinh Cầu được sinh ra từ một
nỗi đau riêng, và từ nỗi đau chung [tạm dịch: Requiem was born of an
event that was personally shattering and at the same time horrifically
common]:
cú bị bắt và có thể bị giết, chẳng cần luật pháp, của 1 nguời thân
trong gia đình.
Như thế, nó là 1 tác phẩm hai chiều kích, cá nhân và công chúng, vừa
là một bài thơ trữ tình, vừa một bài sử thi.
Làm sao cân bằng được cả hai chiều
kích, đó là thiên tài thi ca của Akh.
Giả như
DTL đừng bỏ đi cái phần
cả Miền Nam
đau khổ vì cú Mậu Thân, và chuyển nó vào thơ, làm cân bằng KTD, thì có
lẽ bài
thơ của anh còn bảnh hơn thế nhiều!
Phần số
chăng?
Tài năng chăng?
No Star
No! [Không sao hiểu!]
Trong
cuốn "Chữ Đuổi
Thần Chết" có 1 giai thoại thật thú vị liên quan tới Dr
Zhivago: Bị sức ép của nhà nước, Pasternak phải gửi “mail” chính
thức cho nhà xb ở Ý, ra lệnh ngưng in ấn, nhưng bằng 1 account riêng,
ông nhắn,
in lẹ lên; trước khi ngỏm, tớ chỉ mong được nhìn thấy nó!
Điều cả
hai Tình Nhớ và KTD
không làm được, cả hai đều thiếu cái chiều kích sử thi, hay nói mẹ nó
ra, đều
thiếu nỗi đau của cả nước Miền Nam, là những câu sau đây, thí dụ:
Sao không hát cho những bà mẹ già…
Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống chiều qua?
Cả hai
ông TCS, 'xua' rồi, DTL,
đều chưa từng giáp mặt Thần Chết, và đuổi nó chạy có cờ!
*
Poem Without
a Hero
A Triptych
1940-1962
Thay vì 1 lời tựa
Một vài người thì không còn nữa,
và những người khác thì đã đi xa.
Dòng
thơ đầu đến với tôi tại
căn nhà The House on the Fontanka, vào đêm 27 Tháng Chạp 1940, sau khi
gửi 1 mẩu
nhỏ (“Bạn từ chẳng đâu đâu mò tới Nga”, “You came to Russia out of
nowhere”),
như là khúc dạo, của mùa thu năm đó.
Tôi
vờ nó. Tôi cũng chẳng hề mong đợi nó, vào cái đêm lạnh lẽo,
tối tăm của Mùa Đông Leningrad
cuối cùng của tôi.
Sự
xuất hiện của nó thì đã có vài dấu hiệu tạp nhạp, vô nghĩa trước đó,
nhưng khó
mà coi đây là những điềm triệu.
Đêm
hôm đó, tôi viết ra được hai đoạn của phần đầu (“1913”), và
“Dedication”. Vào đầu tháng Giêng, kinh
ngạc đến sững sờ,
tôi viết ra được “Flip Side”, và ở Tashkent, (trong hai cú đột phát, in
two
bursts), tôi viết “Epilogue”, và nó trở thành phần thứ ba của bài thơ,
và làm vài
nét gia giảm, đưa vào hai phần đầu.
Tôi dâng
tặng bài thơ này tới hồi tưởng của hai người nghe bài thơ đầu tiên -
bạn tôi và
đồng hành, my friends and fellow - những công dân đã tàn tạ, perish,
tại
Leningrad, trong thời gian thành phố bị vây hãm.
Tôi
nghe ra giọng nói của họ, và nhớ, remember, tới họ, khi tôi cao giọng
đọc bài
thơ, và với riêng tôi, lần đọc chung bí mật đó, this secret choir, đã
trở thành
một minh chứng hoài hoài, a lasting justification, của tác phẩm.
April
8, 1943
Những
dư luận lèo nhèo,
rumors, mới đây, cũng đã đến tai tôi, liên quan tới những dẫn giải sai
lạc, và
phi lý, về “Poem Without a Hero”. Một vài người còn đề nghị, advise,
làm sao
cho bài thơ dễ hiểu hơn.
Chuyện đó thì tôi chịu thua!
Bài thơ không chứa đựng bất cứ
một cái nghĩa thứ ba, thứ bẩy, hay thứ hai mươi chín.
Tôi sẽ chẳng bao giờ thay đổi,
và cũng chẳng hề giải thích, explain, nó.
“Cái gì tôi đã viết, tôi đã
viết”
“What I have written, I have
written.”
November
1944
Leningrad
Akhmatova
*
Bài thơ
sau đây, được viết
ra, từ Mậu Thân, đúng hơn, từ… 1 chiếc dép râu của 1 anh VC, trong trận
đánh
Đài Phát Thanh, Sài Gòn, của GNV.
Một, trong dúm thơ Gấu có
được, nhờ gặp lại cô bạn, nơi xứ người ngay những ngày mới qua.
Gửi cho một đấng học trò
học tiếng Anh, còn kẹt ở Trại, thơ bị ngâm đâu cả tháng, mới cho nhận!
Hát ở đâu đâu...
Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà
nửa chợ
Nỗi buồn vạch một nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã
sống
Mà một đời bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt
lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não nùng
Rừng dưng không đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng chết
Sực nhớ chữ: Chiêu như thanh
ty
Mộ thành tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng
cuối
Hát ở đâu đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày
tháng đó
Chạy xe như điên trên đường
phố
Cho kịp giờ giới nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện trò cùng
những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi
chất thây những người chết
Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi đi
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi
về...
Hát ở đâu đâu giấc mộng cuối
(2)
(1)...
that lonely halfway
house which we call life
André Malraux (Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm
Tuyền
Nobel Peace
Tại sao lại cho O và L?
Chỉ Cần Một Lá
Thư
Cho Hà
Chỉ cần một lá thư
cho anh vượt thoát để trực diện
em, để nói
khi gió lướt qua
đêm
bằng máu của mình
viết câu thơ bí mật
nhắc nhở anh rằng
mỗi ngôn từ là lời cuối
băng đá trong người em
chảy thành huyền thoại lửa
trong mắt của đao phủ
sự cuồng nộ biến thành đá
hai chấn song sắt
bất ngờ nhập một
thiêu thân bay vào đèn–
ánh sáng, biểu hiện vĩnh hằng
viền quanh bóng em.
8. 1. 2000
One Letter Is
Enough
for Xia
one letter is enough
for me to transcend and face
you to speak
as the wind blows past
the night
uses its own blood
to write a secret verse
that reminds me each
word is the last word
the ice in your body
melts into a myth of fire
in the eyes of the executioner
fury turns to stone
two sets of iron rails
unexpectedly overlap
moths flap toward lamp
light, an eternal sign
that traces your shadow
Thơ Tình của Lưu Hiểu Ba
Chuyển ngữ: Đinh Từ Bích Thúy
Nguồn: Da Màu
namdao viết:
Những bài thơ này tuyệt vời,
ĐTBT dịch hay
hơn bản tiếng Anh, xin chúc mừng. Giá mà chúng ta có được những bản
bằng tiếng
Hán-Việt thì lại càng có thể ” cảm” LH Ba như một nhà thơ, và không
(chỉ) là
một người tranh đấu. Cuối cùng, thật may, tranh đấu không đẩy người xa
nghệ
thuật, như trường hợp LH Ba đây, là chứng cứ.
.- 13.12.2010 vào lúc 6:30 am
Bình Loạn của GNV:
Vì có không
có nguyên tác, và giả như có, thì cũng thua, vì Gấu này mít đặc tiếng
Tầu, nhưng
nếu chỉ so hai bản dịch Mít/Anh, mà dám phán là DTBT dịch hay hơn bản
tiếng
Anh, thì có lẽ hơi bị nhảm, và có thể, là do nịnh đầm mà ra.
Chứng cớ:
Cái tít tiếng Anh, “Một lá thư
là đủ”, với cái tít tiếng Việt, “Chỉ cần 1 lá thư”, có sự “lệch pha”
[từ này Gấu
mượn của Thầy Cuốc, ông coi đây là tiếng lóng, và dùng thật dắc địa để
chỉ thứ tình
yêu cùng phiá, nam yêu nam, nữ yêu nữ].
Cần và đủ, là hai tiến trình trong toán
học. Cần, chứng minh phần thuận;
đủ, chứng minh phần đảo, một định lý toán học.
Điều kiện cần và đủ, nécessaire et suffisante, là thế.
Thử dịch ngược lại, là thấy khác ngay. Một lá
thư là cần. A letter is necessary!
Ông này ở tù VC Tẫu, chẳng cần cái chó gì cả,
vì chúng có cho cái chó gì
đâu, mà đòi hỏi, mà cần. Nhưng chỉ một lá thư của em lọt vô đây thôi,
là đủ để
anh bay bổng lên mây, đi một đường câu đẩu vân, về gặp em....
to transcend, ở đây mà dịch là
"vượt thoát", là… sai. Vì ông này ở tù, nếu dùng "vượt thoát", tất
nhiên độc giả sẽ
nghĩ, là ông ta.. trốn tù, "vượt thoát" sẽ được hiểu ngược qua tiếng
Anh, là,
escape!
transcend, là.. siêu
thoát. Tức là để hồn bay bổng, thoát ra ngoài thân xác,
vì thế mới có thể đối mặt, to face, em, và nói với em [to speak]….
Dịch nhảm như thế, mà cũng có tay hít hà!
GNV « bầy đặt »,
dụt dè, trình bản dịch của hắn ta:
Một
lá thư là đủ để anh siêu thoát,
để nhìn mặt em, để nói chuyện
Như gió thổi qua đêm
dùng máu của nó
viết câu thơ bí mật,
nhắc nhở anh, mỗi lời là lời cuối.
Băng giá trong cơ thể em
tan vào huyền thoại lửa.
Trong mắt tên đao phủ
giận dữ biến thành đá.
Hai chấn song sắt
Không chờ không đợi
Bỗng nhập vào nhau
Thiêu thân bay vào đèn
Ánh sáng, một dấu hiệu vĩnh hằng
Vẽ dáng em.
Cái
cảnh trên đây GNV đã trải
qua, những ngày Mậu Thân, và cũng “vẽ dáng cô bạn”, y chang Lưu Hiển
Ba, chán
thế, thấy người sang, bắt quàng làm họ:
Những ngày Mậu
Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào
da thịt
thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của
thành phố
cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm
nhìn bóng
mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố,
trong lúc
cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một
cách bình
thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như
vậy...
Cõi
khác
Vì
không có nguyên tác, nên chúng ta không biết, LHB
dùng từ gì, khi chuyển qua tiếng Anh, thành ‘transcend’, siêu thoát.
Và, vì trong bài thơ nhắc tới lời cuối, đao phủ, thành thử có thể coi
đây là 1
thứ di chúc của ông cho bà vợ; ‘siêu thoát’, như thế là còn muốn nhắn
nhủ, cho
dù chúng có làm thịt anh, thì linh hồn anh cũng sẽ được siêu thoát, và
sẽ bay
bổng đến bên em, như con thiêu thần lao vào lửa, nhập vào thứ ánh sáng
vĩnh hằng.
Làm sao ‘vượt thoát’ được?
Một bài thơ tuyệt vời, mọi hình ảnh, mọi ý nghĩ, mọi
liên tưởng là đều "vẽ dáng em".
A Letter Would Be Enough
A letter would be enough
For me to surmount all
To speak with you
When the
wind blew
The night with its own blood
Wrote down a secret word
To let me remember
That every word is the last one
The ice in
your body
Melted into a myth of fire
To the eyes of executioners
The anger became a stone
Two rails
suddenly overlapped
The moths flying toward the light
In the eternal gesture
Followed your shadow
2000.1.8
Note: Đây là
bản dịch tiếng
Anh, mới, do 1 độc giả DM cung cấp,
kèm nguyên
bản
Triết gia của sự mất ngủ
Phận
lưu vong
Ở hay Về?
....
nhưng một hôm có người
bạn hỏi đùa, “Nếu có ngày về lại Việt Nam sinh sống thì cậu sẽ
chọn ở nơi
đâu.” Không kịp suy nghĩ, bất giác tôi buột miệng trả lời anh, “Hà Nội
chứ còn
đâu nữa.”
Một kẻ lạ trên phố phường Hà Nội
Đọc bài này, GNV bất chợt lại
nhớ tới bài này:
Thành
phố lạ của Oz, chán thật, chính là thành phố quê hương của ông, như
Hà Nội của nhà văn Mít của chúng ta!
Không
phải HN của VC.
Đọc 1
phát, là phải ngửa cổ lên trời mà than:
Chưa từng có nhà văn nào viết về thành phố tuổi thơ thê lương như thế
này
*
Je ne sais pas écrire sur le feu et le sang.
Si j'écris jamais quelque
chose sur cette guerre, je ne parlerai pas du feu et du sang, mais de
la sueur
et de la vomissure, du pus et de la pisse.
Oz
Tớ đếch
biết thứ văn chương
viết bằng máu và lửa. Cứ giả như, có khi nào viết một cái gì đó, về
cuộc chiến
này, thì cũng không phải là những dòng "đường ra trận mùa này đẹp
lắm", mà sẽ là một thứ văn chương viết bằng mồ hôi, bằng ói mửa, bằng
mủ
lậu tim la hột xoài, bằng cứt đái.
Khi
Đỏ
là Đen
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Gấu, nhà văn
The past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.
Tác phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu] thì cũng như vết sẹo [ở trên
tay cô
bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo!
John
Banville
Về vết sẹo này, của cô bạn, tuy có thật, nhưng Gấu chỉ có thể tưởng
tượng khi
nằm mơ, vì chưa từng được chính mắt nhìn thấy.
Gấu
cũng đã có kể, cái lần Gấu Cái giận điên người, vì thằng chồng nằm mơ,
cầm
tay vợ, lại tưởng cầm tay người khác, đến khi sờ không thấy, bỗng bật
lên lời,
vết sẹo đâu rồi, và tỉnh giấc, và biết trong đời mình đã gây nên một
mối đại
thương tâm.
Ôi
chao, có thằng chồng nào khốn nạn như thế chăng, mặt dầy như thế chăng?
*
Cái thằng cha học trò nghèo, tương tư người đẹp đến liệt giường liệt
chiếu,
trước khi đi tầu suốt, chỉ mong được hửi tay người đẹp một lần, kiếp
sau, được
thoả nguyện, thằng cha đó chính là... Gấu.
Cái
chuyện được cầm tay người đẹp đó, cũng không thể nào thực hiện được,
nếu
không có sự tiếp tay của con quỉ chiến tranh.
Gấu đã từng tả cái lần đầu được cầm tay người đẹp trước khi từ giã Sài
Gòn,
lừng lững khốc liệt bước vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ.
Ba muơi
năm sau, gặp lại, để giải thích cái lý do chỉ được cầm tay, cố cưỡng là
mang họa, người xưa giản dị nói:
-You are not available!
[Ý của
cô bạn, anh đã
có Gấu Cái, lại còn đòi “cô bạn của Gấu Cái” nữa ư?]
*
Một
trang TV cũ
Tôi không như Steiner, cái giá
để trả cho một cuộc sống
không tổ quốc, tôi sẽ không chịu trả.
Với lũ chúng tôi, đi tới đâu, là mang theo cái bi kịch da vàng, da [Do]
Thái
tới đó.
-Oz 'bàn về' rất nhiều phụ nữ, nhưng đa số ghét cái kiểu mà ông ta
bàn về họ.
Những nhân vật nữ của ông ta thì như con nít, và khùng khùng.
Tôi không viết về đàn bà hạnh phúc, không viết về đàn bà, đàn ông hạnh
phúc. Đồng
Ki Xốt, với một tay chữa trị bệnh lý, chẳng phải là một thứ khùng khùng
và con
nít?
Có một thứ văn chương bi thảm ở một phần của thế giới. Nếu Cá Voi Trắng của
Melville, ra lò với cái tên Garcia Marquez, thì đây sẽ là một ẩn dụ về
sự độc
tài.
Tình
Yêu như Trái Phá
NB2. Có
một câu nói ác, bảo Camus
là triết gia của học sinh cấp ba, và Cioran bảo văn chương Camus là thứ
văn
chương tỉnh lẻ :p (đồng thời Sartre chẳng có gì đáng quan tâm cả).
Cioran cũng
là một cục đen hiểm ác, cực hiểm ác.
Blog NL
Không phải 1 câu, mà 1 cuốn sách: Camus,
philosophe pour classes terminales
Sự kiện Cioran không khoái Camus, thì cũng
đúng thôi, vì 1 bên là mặt
trời, 1 bên là đêm đen; cả chuyện coi ông là triết gia của lớp chót bậc
TH cũng đúng, vì cái thái độ đạo đức của ông, chỉ đám học sinh may ra
còn chịu nổi, hay tin được.
Điều làm GNV điên cái đầu, là, cái ông Tẩy
mũi tẹt, tại làm sao lại chọn
cuốn La Chute để dịch ?
Chỉ đến khi thấy ông ta "về", và phán nhảm,
thì Gấu mới vỡ ra là
Người chẳng có thú tội gì hết :
Sự thú tội của Clamence vẽ lên chân dung 1 con người bị cắn rứt bởi
tuyệt
vọng, tội lỗi và ân hận vì đã vờ 1 em tự trầm.
Nhưng Clamence còn đưa 1 tấm gương cho những người muốn dòm vào
đó,
theo
cái kiểu mà Nguyễn Huệ của NHT đã từng làm :
Hãy nhét cứt vào miệng chúng, để chúng nhận ra thân phận của chúng.
Trong NHT có cả ba, Clamence & Tướng Về Hưu & Nguyễn Huệ, là
vậy !
Hà, hà !
1956: Cuộc chiến Mít chưa hứa
hẹn những điều khủng khiếp, và ông Tẩy thì chắc cũng mới chuồn qua Paris, hẳn thế?
Với riêng Gấu, phải đến khi ra được hải ngoại, thì mới nhìn ra sự thân
quen giữa
Clamence và Tướng Về Hưu!
Sa Đọa
gióng lên hồi chuông
báo tử cho những kẻ tưởng là giải phóng, hóa ra là ăn cướp, tưởng xây
dựng thiên
đàng, hóa ra địa ngục, là 1 nước Mít hậu chiến.
GNV
Mô
phỏng:
La Chute
sonne comme un
adieu de l'auteur à ses propres illusions:
Sa Đọa gióng lên
lời vĩnh
biệt của tác giả với những ảo mộng của chính ông.
Face aux désordres et à
la confusion du temps après 1975, j'ai pensé avoir déjà vécu
toute ma
vie, le temps qui me restait était quelque chose en trop, je ne me
donnais plus
la peine d'y penser. La désillusion était totale. En 1975, le
nouveau
régime m'envoyait en camp de rééducation avec mes amis « de la même
fête et
dans le même bateau », nous quittions la plaine pour les monts avec
calme et
indifférence, sans désespoir et sans espoir.
J'ai pensé « disparaître » sans espoir de retour, pourquoi pas comme le
déchet
emporté par l'inondation de l'histoire. Mais je me trompais.
Đối diện với hỗn loạn,
tình trạng mơ mơ hồ hồ thời gian sau 1975, tôi
có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, quãng còn lại chỉ là dư thừa, tôi
chẳng để ý
tới nữa. Ảo vọng là hoàn toàn. Năm 1975, chế độ mới đưa tôi đi trại cải
tạo,
cùng với bạn bè của tôi, "cùng hội, cùng thuyền"; chúng tôi rời đồng
bằng lên vùng rừng núi, dửng dưng, bình thản, không tuyệt vọng cũng
không hy
vọng. Tôi đã nghĩ mình "biến mất", chẳng mong ngày trở lại, như bọt bèo
trong cơn lũ lịch sử, tại sao không. Nhưng tôi đã lầm.
TTT: La
poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại
tù
Ui
chao, chẳng lẽ đây là giấc đại mộng của những
anh nhà quê Bắc Kít, những anh Cu Sài, xẻ dọc Trường Sơn, hy vọng vô
được nước
Xề Gòn, kiếm tí chiến lợi phẩm, về làng cũ, xây cái nhà gạch nho nhỏ,
sửa sang
phần mộ cho ông cụ, cưới một em ở Xóm Đoài, Xứ Đoài mây trắng lắm?, và
cái anh
chàng Tướng Về Hưu, Jean Baptiste Clamence, sau khi xây dựng xong Địa
Ngục, bèn
đi vào miền Sa Đọa, The
Fall, tên một tác phẩm
của Camus, sám
hối, và
trong một khoảnh khắc trầm thống, rống lên như một con quỉ, Quỉ Bắc
Kít, trong
một cuộc độc thoại nội tâm:
“Ôi, mặt trời
Bắc Kịt, ôi bãi biển Đồ Sơn, ôi những hòn đảo Hạ Long của
những
trận gió thương mại, ôi những hồi ức của thuở thanh niên, chúng mới làm
cho đám
Bắc Kít chúng ta chán chường làm sao!”
[‘Oh, sun,
beaches, islands of trade winds, memories of youth that make
us
despair’].
Cái mẩu tóm tắt La Chute, trên, là từ số đặc
biệt về Camus, của tờ ML, hors-série.
Tờ này làm tới hai số, hoặc có thể hơn, về Camus, vì GNV có hai số về
Camus.
Camus 50 năm sau khi chết
Vérité, liberté, humanité
Par MINH TRAN HUY
Si l'idée d'une panthéonisation
d'Albert Camus à l'occasion du
cinquantenaire de sa mort a fait couler beaucoup d'encre, de Jeanyves
Guérin
(1) à Michel Onfray, tous s'accordent cependant sur une chose: les
mérites de
l'œuvre et de la trajectoire d'un homme d'exception. La popularité de
l'écrivain est immense, en France et à l'étranger; André Brink (2) ou
Imre
Kertész le citent comme une de leurs références, on ne compte plus le
nombre de
rues à son nom en Europe de l'Est, L'Étranger
est l'un des romans les plus lus dans le monde. Une unanimité qui fait
oublier
qu'Albert Camus fut autrefois contesté des deux côtés de l'échiquier
politique,
y compris lors de ce qui aurait dû être une apothéose -l'obtention du
prix
Nobel fut accueillie avec hargne par les Kléber Haedens, Jacques
Laurent et
autres Lucien Rebatet.
L' écrivain fut pareillement l'objet, lorsque
L'Homme révolté renvoya dos à
dos les « idéologies meurtrières» du nazisme et du marxisme tout en
critiquant
le libéralisme, d'acerbes formules allant de la «morale de Croix-Rouge»
(Francis Jeanson) à 1'« incompétence philosophique» (Jean-Paul Sartre).
On le
taxa d'angélisme et de tiédeur alors qu'il tentait de « penser les
limites »,
ainsi que le rappelle Alain Finkielkraut dans ce hors-série qui entend
éclairer
les différents visages d'un intellectuel engagé à qui l'Histoire a
donné raison,
d'un Français d'Algérie qui se situait « à mi-distance du soleil et de
la
misère », d'un écrivain qui s'est voulu fidèle à la beauté mais aussi
aux
humiliés: romancier, auteur de théâtre, essayiste, journaliste, Albert
Camus
fut un homme de son temps qui sut aussi aller contre son temps. Contre
les« noces
sanglantes de la répression et du terrorisme », les« utopies absolues»
légitimant la violence - et pour une justice incarnée, dans la
conscience
permanente du possible, du concret, du présent.
«Définir
les conditions d'une politique modeste, c'est-à-dire délivrée de
tout messianisme, débarrassée de la nostalgie du paradis terrestre » :
tel
était le but, dont l'audace n'apparaît qu'aujourd'hui, d'un humaniste
qui
rechercha toujours l'équilibre des contraires, et, jusqu'au cœur même
de la
révolte, la mesure au sens grec du terme. Non pas la modération ou la
mollesse,
mais une tension alimentant aussi bien la dénonciation des tyrans que
celle des
révolutionnaires extrémistes, rejetant la tentation nihiliste sans pour
autant
se faire la servante d'une abstraction idéologique. La vérité, qu'elle
soit de
droite ou de gauche, voilà tout ce qui importait à ce penseur du midi
qui fit
le choix de l'homme plutôt que de son concept, alliant dans sa quête
résistance
à l'oppression et refus du mensonge, attention à l'Histoire mais aussi
au
simple bonheur d'être, et offrit dans son discours de Stockholm l'une
des
définitions les plus justes du mouvement même de son écriture, et plus
encore
de sa vie: « Celui qui, souvent, a choisi son destin d'artiste parce
qu'il se
sentait différent apprend bien vite qu'il ne nourrira son art, et sa
différence,
qu'en avouant sa ressemblance avec tous. L'artiste se forge dans cet
aller-retour perpétuel de lui aux autres, à mi-chemin de la beauté dont
il ne
peut se passer et de la communauté à laquelle il ne peut s'arracher. » •
(1) Qui a piloté le remarquable et très
complet Dictionnaire Albert Camus,
éditions Robert Laffont. « Bouquins» 092 p .. 30 €).
(2) Son admiration pour Albert Camus imprègne notamment ses mémoires,
Mes
bifurcations. traduits de l'anglais (Afrique du Sud) par Bernard Turle
éd. Actes
Sud. 544 p., 24.80 €.
LE MAGAZINE
LITTÉRAIRE HORS-SÉRIE no 16
She will be the next Bill
Gates.
MIND CONTROL: Emotiv co-founder Tan Le
certainly doesn't lack ambition.
"We have an opportunity to revolutionize the way people interact with
technology," she says.
Kiểm soát cái đầu: Người đồng thành lập
Emotiv, Tan Le, chẳng hề thiếu tham
vọng: Chúng ta có cơ hội cách mạng “cách” mà con người ‘mò mẫm’kỹ
thuật, với chính cái đầu của mình là vật thí nghiệm.
Bạn chụp cái nón bảo hiểm trong hình, lên
đầu, bấm nút, rồi ra lệnh, hãy trả
lời, ta có ‘mết’ em đó không, thí dụ, và máy sẽ cho bạn biết kết quả!
Hà, hà!
HEAD GAMES: Emotiv's Epoc headset can
identify 30 mental states.
Reality Bites
The scientists at
Emotiv have done the
impossible: created a
brain-wave-reading headset that lets you conjure entire worlds using
nothing
but your mind -- a breakthrough that could be worth billions. Now comes
the
hard part.
|
|