|
Mùa Thu
ở nước Đức
Thu,
2010
Thu phố ca
Giáng Sinh
2009
10 Questions
What is
your favorite book
and why? —Geraldine Redfern, DURBAN,
SOUTH AFRICA
My dad
read me The BFG by
Roald Dahl when I was younger. I'm really fond of that book.
Le Petit Prince [by Antoine de Saint-Exupéry]. I like books that
aren't just lovely but that have memories in themselves. Just like
playing a
song, picking up a book again that has memories can take you back to
another
place or another time.
Thơ mỗi ngày
Những con chim én ở Auschwitz
Trong sự trầm
lặng của những doanh trại
trong sự im lặng của một buổi Chủ Nhật mùa hè
tiếng chim én chát chúa
Có thực sự đó là tất cả những gì còn lại
của tiếng người ?
Adam Zagajewski
Eternal Enemies
*
TRAVELING
BY TRAIN ALONG THE HUDSON
TO
BOGDANA CARPENTER
River
gleaming in the sun-
river,
how can you endure the
sight:
low crumpled train cars
made of steel, and in their
small windows
dull faces, lifeless eyes.
Shining
river, rise up.
How can
you bear the orange
peels,
the Coca-Cola cans, patches
of dirty snow that
once was pure.
Rise
up, river.
And I
too drowse in
semidarkness
above a library book
with someone's pencil marks,
only half living.
Rise
up, lovely river.
Đi xe lửa dọc sông Hudson
Dòng
sông lấp lánh trong ánh mặt
trời –
sông
ơi, làm sao mi chịu nổi cảnh
tượng:
những chiếc xe xe lửa lùn, nhầu
nát,
làm bằng thép, và ở những
khung cửa sổ nhỏ của chúng
là những khuôn mặt đần độn,
những cặp mắt vô hồn.
Sông
sáng kia ơi, hãy nhô lên,
nhô lên.
Làm sao
sông chịu nổi những vỏ
cam,
vỏ Coca-Cola, những mảng tuyết
dơ
có một thời trắng ngần.
Nhô
lên, sông ơi
Và tớ
thì ngủ gật, trong
tranh tối tranh sáng,
bên trên một cuốn sách thư viện
mà ai đó đánh dấu bằng viết
chì,
nửa đời nửa đoạn.
Nhô
lên, con sông đáng yêu
kia ơi.
Adam Zagajewski
Eternal Enemies
*
26.6.1965
Gấu xơi 2 trái mìn VC tại nhà
hàng nổi Mỹ Cảnh
12.1966
TTD dịch xong Sa Đọa ở Paris
*
1969
Gombrowicz
died; Americans
walked on the Moon,
hopping cautiously, as though it might break.
Erbarme dich, mein Gatt, one black woman
sang
in a certain church.
Summer scorched us,
the lake
water was warm and sweet.
The cold war dragged on, the Russians
occupied Prague.
We met for the first time
that year.
Only the grass, worn and
yellow, was immortal.
Gombrowicz died. Americans walked on the Moon.
Have
mercy, time. Have mercy, destruction.
1969
Gombrowicz chết; Người Mẽo đi
bộ trên Mặt Trăng
Nè, bước nhè nhẹ coi chừng bể!
Erbarme dich,
mein Gatt, một người đàn bà
da đen hát
trong 1 nhà thờ nào đó
Mùa hè làm sém thịt sém da chúng
ta
Nước hồ thì ấm và ngọt
Cuộc chiến lạnh kéo dài mãi
Người Nga chiếm đóng Prague
Chúng ta gặp nhau lần đầu năm
đó.
Chỉ có lũ cỏ, mòn ra, vàng đi,
là bất tử
Gombrowicz chết. Người Mẽo đi
bộ trên Mặt Trăng
Cám ơn mi, Thời gian. Cám ơn
mi, Huỷ diệt.
Adam
Zagajewski
Without End
1969
Cõi
Khác
Chúng ta gặp nhau
lần đầu năm đó.
Tuyệt!
Đúng là me xừ Adam này tả giùm GNV, cũng gặp cô bạn năm đó, và viết ra
được cái
mẩu Cõi Khác, và còn có thêm được cái khúc 1996 sau này!
Cám ơn mi, thời gian!
Đếch cám ơn mi, huỷ diệt!
G
Mùi
Nga
NYRB 25
Nov 2010
Note:
Cuốn Du Lịch Nga này, vừa
mới đây được in từng kỳ trên tờ The
New Yorker, GNV mê quá, tính dịch, lấy
hứng, và lấy đà viết về chuyến trở
về Đất Bắc tìm lại cái mùi Bắc Kít, như là GNV tưởng tượng ra, bởi vì
khi đó
còn bé quá, khi nhìn qua cái lỗ hổng trên cánh cửa nhà cầu căn nhà bếp
ở villa
số 60 đường Nguyễn Du, hay khi Gấu cùng đứa em của anh Mỹ, cả hai vợ
chồng cùng làm bồi cho Ông Tây Trẻ, nằm ở kế bên bờ tường căn phòng,
bên
ngoài
là hiên nhà phía trước, và ông bếp già đang hì hà hì hục quần thảo một
bướm Bắc
Kít, vào một buổi tối Thứ Bẩy hay Chủ Nhật, khi ông chủ Tây đi dự tiệc
cuối tuần....
Chắc là
anh Mỹ mách bà cô của
Gấu, và 1 buổi tối, Gấu đang hồi hộp, nín thở, tưởng tượng ra những gì
đang xẩy
ra ở phía bên ngoài hành lang tối mò, thì bị bà cô từ phía sau lưng nắm
tai kéo
dậy, tát cho mấy cái nổ đom đóm mắt, và chẳng thèm nói gì, và bỏ đi!
Khi GNV
về, hỏi thăm, thì ông cậu ghé tai thì thầm, phố đó bây giờ nhờ
ơn
Bác và Đảng được đổi tên là Phố Hàng Lờ rồi.
Frazier
viết: Khi tôi ở đầu
thập niên bốn mươi, thì bị trúng độc, là cái tình yêu Nga [“When I was
in my
early forties, I became infected with a love of Russia”].
Ui chao
Gấu thì còn khốn khổ
khốn nạn hơn ông ta nhiều, vừa đẻ ra 1 cái là đã bị cái độc cái ác của
xứ Bắc Kít
cắn trúng!
Và bạn gọi cái độc cái ác đó
là tình yêu Bắc Kít ở nơi Gấu, thì cũng được!
INTERVIEWER
What is your definition of a
Romantic?
HOUELLEBECQ
It’s someone who believes in
unlimited happiness, which is eternal and possible right away. Belief
in love.
Also belief in the soul, which is strangely persistent in me, even
though I
never stop saying the opposite.
INTERVIEWER
You believe in unlimited, eternal
happiness?
HOUELLEBECQ
Yes. And I’m not just saying
that to be a provocateur.
Source
Định
nghĩa của ông về 1 gã/ả
Lãng Mạn.
Đó là 1 kẻ tin vào hạnh phúc
vô cùng, vô giới hạn, và cái hạnh phúc đó thì thiên thu vĩnh viễn và
còn là mì
ăn liền, nghĩa là ngay lập tức. Tin vào tình yêu. Còn niềm tin vào linh
hồn, lạ
làm sao, cái linh hồn này thì cứ lì lợm ở trong tôi, ngay cả khi bực
quá, tôi
bèn nói ngược lại.
Vậy là
ông tin vào hạnh phúc,
vô vàn, vô giới hạn và thiên thu vĩnh viễn?
Thì đúng thế, nhưng đừng nghĩ
là tôi phán như thế là để chọc quê thiên hạ.
Bóng ma
Nobel
“a slap
in the face of fascism”: Một cái tát
vào mặt Phát Xít, Vi Xít!
INTIZAR HUSSAIN
THE HOUSE BY THE GALLOWS
Căn Nhà
Kế Bên Giá Treo Cổ
Trích
Granta, số Mùa Thu,
2010 đặc biệt về Pakistan
Note:
Mít chúng ta chỉ còn
thiếu 1 cái giá treo cổ, dựng ngay tại "pháp trường cát" ngày nào,
phong ngay cho Tướng Râu Kẽm làm tay gác
dan, hoặc bảo quản!
Triết gia của sự mất ngủ
Ngày này còn ai đọc ông này?
Hẳn 'có tay' phải,
nhất định phải [đọc], bởi vì hầu hết sách của ông đều được dịch, và đều
có ở tiệm.
Ở Đại học, cả sinh viên lẫn giáo sư, đều rất rành với bất cứ một triết
gia hay lý thuyết gia Tây thường được nhắc tới, ông kể như vô danh, mặc
dù ông hơn hẳn cả đám kia, suy tư mịn hơn, viết bằng một thứ thơ xuôi
bảnh hơn.
Lý do của sự lơ là này, phần lớn là từ cái nhìn âm u, không hề giao lưu
hòa giải,
đếch thèm năn nỉ Thượng Đế hãy khoan thứ cho/về phận người!
Đã thế, ông ta ‘phủi
thui’ cả hai, Ky tô giáo và triết học, đọc ông, nhiều đoạn ‘khủng’ đến
nỗi giống như
những tiếng gầm rú của 1 thằng khùng!
Để
làm cho sự tình rối bung thêm lên, ông bèn trình
cho đời, không phải 1 mà là 2 căn cước, 2 cuộc đời. Một ông
Cioran gốc
Romania, viết bằng tiếng Romania, vào thập niên 1930, và sau đó, một
ông Cioran
Tây, khá nổi tiếng, viết bằng tiếng Tây.
Kể từ khi ông mất vào năm 1995, những
phát giác thật ấn tượng, thật ‘hot’, về một thời mới lớn của ông, say
mê thần tượng,
là Hitler, đã từng rỏ máu ngón tay viết đơn tình nguyện, và được
Đảng và Nhà
Nước OK, cho là 1 thành viên của Thành Đoàn có tên là Vệ Sĩ Sắt, một
lực lượng “tiền vệ, tiền phương, đâu cần thanh niên có, đâu khó có
thanh niên", phò Phát Xít, quốc gia, bài Do Thái, vào thập niên
1930.
Những
phát giác hay ho này lại càng đẩy ông ra ngoài lề của luồng chính.
Tuy nhiên, kể
từ sau khi xuất bản cuốn đầu tiên viết bằng tiếng Tây, ông được dân Tây
ca ngợi,
như một văn gia, tư tưởng gia ngang tầm với những nhà đạo đức
lớn lao
của thế kỷ 17 và 18 như La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort, và
Vauvenargues.
Những điều trên càng khiến thiên hạ càng thêm tò mò về ông, và càng
khiến cho tác phẩm Đi tìm Xia O Răng, Searching
for Cioran của Ilinca Zarifopol-Johnston, mất trước khi hoàn tất
tác phẩm của mình, càng trở
nên quí giá.
Trang TTH
Khi
Đỏ
là Đen
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Kỷ niệm, kỷ
niệm
…. Ngài Toyama có biết
Nishino Tesshin không?"
-"Ta biết chứ. Ta đã một
lần đấu kiếm và thua ông ấy rồi. Tay
kiếm tài
ba hiếm có đấy".
-"Thế ngài có nghe về
kiếm pháp bí truyền gọi là Sóng gợn mà Nishino đã sáng tạo ra chưa?"
-"Ta có nghe. Nhưng có
lẽ chưa ai thấy tận mắt cả".
-"Thưa, tôi đã được
truyền thụ kiếm pháp ấy đấy".
-"Hả?...". Toyama
sửng sốt, mặt biến
sắc. -"Thế bà tên là gì?"
-"Kunie. Nguyên là người nhà Hatanaka".
-"Ồ! Thế thì...". Khuôn mặt Toyama chợt thoảng nụ cười ngạo nghễ.
-"Hoá ra được gặp nữ kiếm sĩ của võ đường Nishino mà người ta vẫn đồn
đại
bao lâu nay. Thật vinh hạnh quá! Được lắm, sẽ xin bái kiến kiếm pháp bí
truyền
Sóng gợn ấy xem sao".
Lúc mới
chĩa lưỡi kiếm đối mặt với người đàn bà mảnh mai ấy, Toyama đã chợt
có ý thương hại. Nhưng trận đấu bắt đầu rồi thì Toyama đã bỏ ý nghĩ ấy
ngay. Bởi
thế tấn của Kunie thật kiên cố, không có chút sơ hở nào cho Toyama chém
trúng
được đối thủ. Và động tác của Kunie thì thật là nhanh nhẹn.
Giao đấu một hồi, Toyama hiểu ra là Kunie nhắm vào cổ tay phải của
mình. Vậy
mà anh ta vẫn không tránh khỏi bị chém trúng vào đấy. Hễ anh chém tới
là bị
chém ngược lại ngay, mà anh rút lui thì nữ đối thủ nhanh nhẹn dậm chân
phóng
tới chém vào cổ tay anh. Kiểu tấn công thật lì lợm kiên trì. Cứ như là
những
đợt sóng nhỏ lăn tăn lì lợm táp vào bờ đá, năm này qua năm khác, xoi lỗ
vào đá.
Những nhát kiếm chém cạn và nhẹ dần dần ăn sâu vào tận xương.
Toyama cảm thấy cánh tay phải của mình hầu như mất hết cảm giác, nên
nghĩ
phải tấn công một lần dứt điểm mới xong. Đầu anh nóng rực lên vì nôn
nao.
Toyama giương vút kiếm lên tấn ở tầm cao.
Nhưng cùng lúc, anh đã phải hực lên một tiếng trầm thống. Toyama cảm
thấy
cánh tay phải của mình đã rời khỏi cán kiếm, buông thõng xuống. Dáng
người đàn
bà như bóng đen áp đến trước mặt, rồi lướt ngang qua hông anh trong
chớp mắt. Toyama
gắng gượng chịu đựng cảm xúc như mình vừa bị đâm sâu vào ngực, chỉ còn
một cánh
tay trái cố chém kiếm vói theo hướng bóng đen ấy.
[Truyện ngắn "Nyoninken
Sazanami" của Fujisawa Shuhei, đăng lần đầu trên tạp chí văn học O-ru
Yomimono tháng 12 năm 1977, được dịch từ nguyên tác là truyện thứ 6
trong tập
truyện "Kakushiken Koeisho" (Kiếm ẩn trong bóng người lẻ loi), bản bỏ
túi, do nhà Bunshun Bunko tái bản lần thứ 9 tháng 10 năm 2006.]
Phạm Vũ Thịnh dịch
Source
Gấu rất
mê truyện kiếm hiệp,
nhưng phải đến khi đọc Phạm Vũ Thịnh dịch, thì Gấu mới hiểu ra rằng,
cái chuyện
mình mê kiếm hiệp không thể nào so với PVT được. Bạn đọc, chỉ một đoạn
trên đây,
là hiểu lý do. Đọc, mà cứ như là đang thưởng thức cuộc tử đấu long trời
lở đất.
Ui chao, nào “kiếm ẩn trong
bóng người lẻ loi”, nào “cứ như là những
đợt sóng nhỏ
lăn tăn lì lợm táp vào bờ đá, năm này qua năm khác, xoi lỗ vào đá.
Những nhát
kiếm chém cạn và nhẹ dần dần ăn sâu vào tận xương”…
Gấu
cũng đã từng mon men làm cái chuyện PVT làm,
khi “viết lại” 1 xen trong Kim Dung, khi ông sử dụng tiếng đàn làm tăng
thêm sức
đi của kiếm:
Ang Lee,
nhà đạo diễn phim Ngọa Hổ Tàng
Long, làm sao không đọc Kim Dung, và làm sao quên được cái cảnh tượng
Phí Bân
truy đuổi tận sát hai cao thủ chính tà là Lưu Chính Phong và Khúc Dương
trưởng
lão, đồng tác giả bản Tiếu Ngạo Giang Hồ, và rồi chết dưới lưỡi kiếm
của Tiêu
Tương Dạ Vũ. Kiếm từ hồ cầm theo tiếng đàn bật ra, kiếm tới đâu, tiếng
đàn theo
tới đó, khi kiếm trở lại với đàn, cũng là lúc Phí Bân biết mình trúng
tử thương,
nhẩy lên cao, dồn hết nội lực theo tia máu vọt ra theo vết kiếm, trông
thật ghê
rợn, kỳ bí! Joan Acocella đã cảm nhận được điều này, qua tiếng trống ở
trong phim
Ngọa Hổ Tàng Long (Drums sound, adding to the mystery).
Ngọa Hổ Tàng Long
Khi
Đỏ
là Đen
Ui
chao, cái cuốn Khi Đỏ là Đen thì
cũng rất ư là tuyệt cú mèo, và cũng vẫn nằm
trong cái dòng di sản của Cách
Mạng Văn Hoá Tẫu. Trong cuốn trước mà Gấu đã đọc trong khi đi giang hồ
vặt đồng
thời ghé nhà ở Xứ Phật, thì là 1 em xung phong đi thực tế, về nhà quê
tam cùng cùng
bần cố nông, bị ngay ông Trùm VC làng đè ra hiếp, bắt phải làm vợ anh
ta.
Chắc
anh này là hậu duệ của Chí Phèo, đứa con lò gạch ngày nào, nhờ ơn Cách
Mạng Mùa
Thu mà nên [‘lên’, cũng được] Trùm.
Cô gái cũng ngang bướng, nhất quyết không
trở lại cái thiên đường tuổi mới lớn đam mê cách mạng ngày nào ở thành
phố, và
sau cùng được cứu vớt nhờ mối tình của 1 anh bạn cùng học, khi đó bị
qui thành
phần con cái địa chủ, mà, với anh này, ngày đó, em quả đúng là thánh
nữ, chỉ dám
đứng xa mà chiêm ngưỡng, đến gần thì đi tù!
Cuộc
tình trong "Khi Đỏ là Đen",
ui chao, nó lại có mùi "Vòng Tay Học Trò" của Nguyễn Thị Hoàng, vì có
gì giống giống
của bà này với ông thầy CGN nổi tiếng một thời!
Thấy người sang bắt quàng làm họ, cái vụ nhà
Nobel Toán, ngửi khói
hành lang, biết mình đuợc Nobel, bèn vội vàng xin nhà nước mũi lõ phát
cho quốc tịch Tây, có cái gì giông giống Gấu, khi, vào năm 1954, ở Hà
Nội, khi Ông
Tây chồng bà Me Tây là Cô Dung của Gấu, làm thủ tục kết hôn, và đưa vợ
về nước,
thì Gấu cũng tự nhủ, mình sẽ học tiếng Tây, để làm sao viết cho được 1
cái thư
bằng tiếng Tây, cám ơn 1 ông Tây thuộc địa, bởi vì không có ông, là
không làm
sao có… Gấu Nhà Văn, và thay vì như vậy, thì có 1 thằng Bắc Kít khốn
nạn cũng cỡ
Đông B, chắc hẳn !
Về già, Gấu ngộ ra, giả như Gấu cố học tiếng
Tây, để chuồn, thì chắc hẳn, sẽ
được như, thí dụ, ông Tây mũi tẹt, cách đây mấy chục năm đã từng dịch
Camus !
Gần bốn
mươi lăm năm trước,
vào tháng 12/1966, khi chuyển dịch xong truyện kể La Chute (Sa đọa –
1954) của
nhà văn Pháp Albert Camus (1913-1960), chúng tôi có bộc bạch như sau: «
Trong
công trình này, chúng tôi đã gặp nhiều trường hợp khó xử: người Việt
nam ít khi
biểu lộ những thực tại vô hình bằng những khái niệm trừu tượng, mà
thường gợi ý
qua nhiều cách nói vận dụng hình ảnh cụ thể. Mà ép buộc dùng hình ảnh
cụ thể
lại khó bề bám sát ý nghĩa của từ ngữ trừu tượng. Gặp những trường hợp
tương
tợ, chúng tôi đã không ngại tùy cơ ứng biến, cốt sao vừa diễn tả được
trọn vẹn
những ý niệm phát biểu. »
TTD
Cái ông
Camus được ông Tây
mũi tẹt này dịch gần bốn mươi năm trước khác hẳn ông Camus bây giờ, sau
cú
11/9, thí dụ. Ông ta thì vẫn thế, Sa
Đọa của ông thì vẫn thế, nhưng cái
nhìn
của chúng ta, về ông, về tác phẩm của ông, khác đi, khác đi nhiều lắm.
Gấu thực sự không hiểu ông
Tây mũi tẹt, nghĩ gì, khi chọn Camus, và chọn Sa Đọa để dịch, cách đây
mấy chục
năm, vào lúc cuộc chiến Mít "chưa hứa hẹn những điều khủng khiếp", [ông
này chuồn
lẹ lắm, trước tất cả mọi người, kể cả ‘người của chúng ta ở Paris’,
chắc hẳn,
vì khi GNV còn cắp sách đi học, thì đã thấy ông ta ở Paris rồi!]
Cái
chuyện "khó xử" khi dịch
của ông, mang tính 'kỹ thuật', khi chuyển dịch bất cứ 1 ngôn ngữ. Ông
không cho
biết, cái khó xử, kia, khác, khi chọn Camus để dịch?
Hay là
ông lấn cấn khi "bỏ mẹ
tôi", và chọn Đầm làm mẹ?
Đây là
vấn đề tiềm ẩn, có
thể, bởi vì như NMG có lần giải thích, khi GNV hỏi, văn của ông khác
hẳn Dos,
tại sao lại chọn Dos là Thầy, anh trả lời, chính vì khác, nên chọn,
như 1 kẻ mình không làm sao đạt tới, và chỉ đứng xa vái vọng.
Ông Tây
mũi tẹt, do bỏ chạy
mẹ tôi, nên lương tâm của ông cắn ông ta đau quá, nên chọn Camus để
dịch?
Chắc không đâu, vì nghe khẩu
khí của ông, chỉ qua 1 đoạn viết, thì có vẻ ông rất ư là tự mãn. Hơn
thế nữa,
còn giở giọng Thầy ra dậy dỗ, coi độc giả như học trò của ông:
Trở lên
trên là những í kiến
sơ đẳng, nhưng đã được tôi luyện qua kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy và
chuyển
dịch Pháp->Việt, Việt->Pháp và Pháp->Anh, Anh->Pháp. Tuy
chỉ chạm
tới những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng chẳng phải vì vậy mà không liên quan
tới
những vấn đề khái quát.
TTD
Đúng
giọng bố chó xồm! Không
có lấy 1 tí khiêm tốn tối thiểu làm thuốc!
1966:
Gấu ăn mìn của VC tại
nhà hàng nổi Mỹ Cảnh ngày 26.6.1965.
Chắc
vào lúc đó, ông Tây mũi
tẹt đang ngồi dịch Camus ở Paris.
Một
trong những chuyện cực thú
của VC, đối với riêng GNV, đó là cách chúng đối xử với đám Miền Nam bỏ
chạy bợ đít
chúng: đếch cho về!
Anh Tây mũi tẹt này, già quá
rồi, sắp chết rồi, chúng mới gật đầu cho về.
Về 1 cái, là lên giọng Thầy, dạy hết
người dịch này đến người dịch kia, cả ở trong lẫn ngoài nước, lại còn
khoe sách
được nhà nước VC cho phép in, sắp cho ra lò!
Chán thật!
Nadine Gordimer chọn Sách Trong
Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus in
what began as an underground newspaper during the German of Occupation
of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellecctual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
Nguồn
Tưởng Niệm Camus
Ở trong những tác phẩm sau này
của Camus,
phong cảnh – và trên tất cả, phong cảnh quê ta, miền đất thiên đàng Địa
Trung
Hải của ông - vưỡn hiện diện, thường như là, một ham muốn tàn khốc, an
atrocious
desire, hay một hoài nhớ khủng khiếp, đến trở thành khốn khổ, khốn nạn,
rất ư
là hơi bị thảm hại [y chang Gấu, những ngày sắp lìa đời!], a terrible
nostalgia:
Marthe và bà mẹ của cô, những tên trộm cướp và những tên sát nhân trong
Ngộ
Nhận, làm thịt du khách trong quán trọ, để có một ngày, có đủ vốn
liếng,
tậu được một căn nhà bên bờ biển [Ui chao, chẳng lẽ đây là giấc đại
mộng của
những anh nhà quê Bắc Kít, những anh Cu Sài, xẻ dọc Trường Sơn, hy vọng
vô được
nước Xề Gòn, kiếm tí chiến lợi phẩm, về làng cũ, xây cái nhà gạch nho
nhỏ, sửa
sang phần mộ cho ông cụ, cưới một em ở Xóm Đoài, Xứ Đoài mây trắng
lắm?], và
cái anh chàng Tướng Về Hưu, Jean Baptiste Clemence, sau khi xây dựng
xong Địa
Ngục, bèn đi vào miền Sa Đọa, The Fall, tên một tác phẩm của
Camus, sám
hối, và trong một khoảnh khắc trầm thống, rống lên như một con quỉ, Quỉ
Bắc
Kít, trong một cuộc độc thoại nội tâm: “Ôi, mặt trời Bắc Kịt, ôi bãi
biển Đồ
Sơn, ôi những hòn đảo Hạ Long của những trận gió thương mại, ôi những
hồi ức
của thuở thanh niên, chúng mới làm cho đám Bắc Kít chúng ta chán chường
làm
sao!” [‘Oh, sun, beaches, islands of trade winds, memories of youth
that make
us despair’]: Ở Camus, cái đẹp và cái ấm mà con người được thừa hưởng
từ thiên
nhiên không chỉ thỏa mãn nỗi thèm khát của cơ thể, mà còn là một thứ
thánh dược
thanh tẩy tâm hồn!
Ui chao, những
câu sau đây, trong Lần Cuối Sài Gòn, của
'đại văn hào' Gấu Nhà Văn, mà không phải những "thánh ngôn" 'thanh
tẩy tâm hồn', ư?
Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi
khơi cục than hồng của
tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương,
cùng nỗi
nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm thêm cay đắng: Một
giấc
mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại, chỉ một
sợi nắng
Sài-gòn.
Trong những đêm chập chờn mất
ngủ, hồn thiêng của thành phố thức
giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên
những
nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn,
bởi cái
phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ,
ruột
thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette
tinh
quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ
sau này,
đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó:
Miền Bắc,
Hà-nội.
Suốt cuộc đời, Camus luôn tỏ ra
trung
thành với niềm tin, rằng con người phải hoàn chỉnh trọn vẹn chính mình,
sống
trọn với bản chất của mình, khi mình tương hợp với thế giới tự
nhiên, khi
cuộc ly dị giữa nó và thế giới tự nhiên sẽ cắt manh mún cuộc hiện hữu
nhân sinh
của nó. Có lẽ, đây là niềm tin, kinh nghiệm của một người lớn lên không
nương
tay nhờ sỏi, đá, bụi bặm, giọt mưa, sợi nắng, và, nó tách Camus ra khỏi
cái đám
đông khốn kiếp ở thành phố, ở Paris, và hơn thế nữa, tách ông ra khỏi
cả một
tầng lớp trí thức cùng thế hệ với ông. Tất cả lũ, nào Mác Xịt, nào Ky
Tô, nào
tự do, nào hiện sinh, đều có một điểm chung: chúng đều thần tượng hoá
lịch sử.
Sartre và Merleau-Ponty, Raymond Aron và Roger Garaudy, Emmanuel
Mounier và
Henri Lefebvre, ít ra đều đồng ý về một điểm: rằng con người là một con
người
xã hội, và, để hiểu nỗi khốn cùng, những khổ đau của nó, và đề ra giải
pháp cho
vấn đề của con người, việc đó chỉ thế xẩy ra, ở trong cái khung lịch
sử. Kẻ thù
ở bất cứ đâu đâu, ở bất cứ điều gì khác, nhưng đám này đều chia sẻ với
nhau một
giáo điều rộng lớn nhất trong mọi giáo điều của thời đại chúng ta: rằng
lịch sử
là chìa khóa cho câu hỏi nhân sinh [that history is the key to the
human
question], là nơi chốn, môi trường, ở đó, trọn số phận của con người
được quyết
định.
Llosa: Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn
Bây giờ thì Gấu
hiểu được, vị trí của ông anh nhà văn nhà thơ của Gấu, và cái sự tại
sao ông
không chịu nổi Camus!
GNV này
thường tự hỏi, nhiều
câu lẩn thẩn, thí dụ, trong khi trong 3 triệu Mít chết, thì anh Tây mũi
tẹt này
đang làm gì ở Paris. GNV biết, 1 trong những ông bạn của anh ta, làm
cớm cho
VC, còn anh này thì không biết làm gì
Vẫn
được đi, nhưng chẳng lẽ
cả 1 cuộc chiến đau thương như thế, thoát chết nhờ bỏ chạy, và nay già,
được VC
cho về, chỉ để khoe, tớ rành tiếng Tây, tiếng Anh, và đã làm thầy ở xứ
người?
Vẫn
được đi. Tuy nhiên GNV này không làm sao hiểu được, bằng cách nào anh
ta
đọc, và dịch Camus?
My dad
read me The BFG by
Roald Dahl when I was younger. I'm really fond of that book. Le Petit Prince [by Antoine de
Saint-Exupéry]. I like books that aren't just lovely but that have
memories in
themselves. Just like playing a song, picking up a book again that has
memories
can take you back to another place or another time.
10
Questions
Tôi
thích những cuốn sách
chứa trong nó những hồi ức, giống như chơi 1 bản nhạc, cầm lại nó lên
là
những hồi ức có thể đưa bạn trở lại 1 nơi chốn khác, 1 thời gian khác.
Anh Tây
mũi tẹt này đọc Camus,
thì có được những hồi ức gì? Và chúng đưa anh ta đi đâu, đến thời nào
khác, khi
đọc lại?
|
|