|
Tây
Tạng, nóc nhà của thế giới
Người ta có thể nhìn thấy
đỉnh Everest chọc thủng màn sương và vươn mình kiêu hãnh.
Ảnh được chụp tại
Everest Base Camp thuộc đất Tây Tạng ngày 21/06 năm nay.
Điện
Potala, công trình nổi
tiếng nhất của Tây Tạng như đang vươn mình đón nắng mặt trời. Nó được
xây dựng
từ thế kỷ thứ 7, đánh dấu cuộc hôn nhân của vị vua nơi đây với công
chúa con
vua Đường. Sau này, nó từng là nơi sống và làm việc của các vị Đạt Lai
Lạt Ma,
lãnh tụ tinh thần của Tây Tạng.
Thu,
2010
Thu phố ca
Chúc Mừng
Giáng Sinh
2009
There may not be a Nobel
Peace Prize ceremony this year, if neither Liu Xiaobo, who is in
prison; his
wife, who is under some sort of house arrest; or another close relative
can
accept it. According to the A.P.,
If that happens, it will be
the first time since 1936, when there was no one present to accept the
medal
and diploma for German journalist Carl von Ossietzky, who was seriously
ill and
not allowed to leave Nazi Germany.
Bóng ma
Nobel
Theo tin AP, năm nay có thể
sẽ không có lễ trao giải Nobel Hoà Bình, nếu Liu Xiaobo, hiện đang ngồi
tù, bà
vợ, hiện đang bị quản thúc tại gia, hay một thân nhân gần gụi, có thể
có mặt để
nhận giải.
Và nếu đúng như thế, thì đây là lần đầu tiên, kể từ 1936, là năm ký giả
Đức, Carl von Ossietzky,
được trao giải, nhưng do bịnh quá, và không được rời xứ Nazi của Đức,
để đi nhận.
Carl von Ossietzky: Ông thật đáng
để chúng ta đi 1 đường tiểu chú. Là nhà diễn tiến [hay diễn biến?] hoà
bình, xuất bản tờ báo Weltbühne, “bịnh nặng, và không được phép rời
nước Đức Nazi”,
theo như thông báo của nhà nước Nazi, giống y chang nhà nưóc VC. Sự
thực, ông ở
trong trại tập trung, ở ngoại vi Oldenburg, khi đám Đức lưu vong vận
động Nobel
Hòa bình cho ông. Chờ chết về bịnh lao, nhưng đám quản giáo chẳng thèm
làm gì để
chữa trị.
Trước khi bị tống vô trại tù, ông đã bị tra tấn ở nhà tù Spandau.
Chế độ Nazi đã làm đủ mọi cách để gây sức ép lên Uỷ ban trao giải, đến
nỗi, năm
1935 đã không có giải Nobel Hoà Bình.
Một trong những người hết mình cổ võ cho Ossietzky
là Willy Brandt, sau này thành thủ tướng Đức, đã từng quỳ trước Lò
Thiêu để xin
lỗi, và cũng đã từng được Nobel Hoà Bình vào năm 1971.
“a slap in the face of fascism”: Một cái tát
vào mặt Phát Xít, Vi Xít!
Bức hình do tay ký
giả chụp, đã có hết tất cả những tính chất của một 'altarpiece' [altar:
bàn thờ] – nào chiếc áo
choàng đen, cùng những hình ảnh mang tính tôn giáo đi theo cùng với nó,
cộng thêm
cái cử chỉ quỳ xuống…. ui chao đúng là một thoáng chốc đi vào vĩnh cửu,
đi vào
thơ!
Tuy nhiên, không phải tay nhiếp
ảnh viên, mà Brandt, mới là tác giả thực
sự của bức hình, ông ta là thiên tài, như Gorbachov là Thánh Khùng!
Chỉ những bậc thiên
tài mới làm được những cử chỉ thiên tài, đúng như 1 tay thiên tài phán:
những đại
tác phẩm, chỉ những bậc thiên tài mới tạo ra được!
December
7, 1970. A picture
can speak a thousand words, and that is what Willy Brandt had expected
when he
silently knelt down at the monument to Warsaw Ghetto Uprising. The
gesture of
humility and penance was not favorably viewed by West Germans at that
time. 48%
thought the “Kniefall” was exaggerated. The opposition tried to use the
Kniefall
against Brandt with a vote of No Confidence in April 1972 which he
survived by
only two votes. However, Brandt’s Ostpolitik and Kniefall helped his
reelection, as his reformist policies helped Germany
gain international
reputation, and he went on to win the Nobel Peace Prize in 1971.
The
incident took place
during visit to a monument to the Nazi-era Warsaw Ghetto Uprising, in
what was
then the communist People’s Republic of Poland. After laying down a
wreath,
Brandt, very surprisingly, and to all appearances spontaneously, knelt.
The
largest single revolt by the Jews during the Holocaust, the uprising
inside the
Warsaw Ghetto in German occupied Poland during World War II
resisted
Nazi Germany’s effort to transport the remaining ghetto population to
the
Treblinka extermination camp. The poorly armed and supplied resistance
was
crushed by the German troops.
The
above photo by Sven Simon
has all the qualities of an altarpiece–the black bulk of the coat and
religious
connotations of the kneeling creates ephemeral and poetic moment.
However, it
was not Simon, or other photographers that defined that photo. It was
Brandt,
who was the true author of this photograph.
Source
Giả như
có 1
anh VC nào đó, làm được
cử chỉ trên, thì mới giải ra được nỗi đau Lò Cải Tạo!
Không phải anh ta xin lỗi lũ Ngụy, mà là cả dân Mít, vì đã gây ra cuộc
chiến (1),
mà còn vì đã đẩy đất nước vào con đường băng hoại, như ngày này.
GNV này đã tưởng tượng một
ông Thánh Toán, làm được điều này, chẳng cần phải quỳ kiếc làm gì, mà
chỉ cần phán, phải thay đổi chế độ, nhưng hỡi ơi, anh ta không hề
biết
lũ Ngụy, đất nước băng hoại là cái chi chi, anh ta chỉ mê Toán! (2)
(2)
Ông này
có 1 cái blog, ông
gọi nó là chùa, và khi đám VC, do cái vụ ông vội vàng không "ở" nhà cũ,
mà "về" nhà mới, do nhà nước VC cấp cho ông, chọc quê ông, ông quê lại,
đóng cửa chùa, ‘để lo quét dọn’.
Thử hỏi trên đời
này, có chùa nào đóng cửa lo quét dọn, cấm tín hữu tới.... tụng kinh
niệm Phật?
“Chùa”
của Gấu, bị thiên hạ
chọc quê trên 10 năm nay, chưa 1 ngày đóng cửa!
Vậy mà cũng bầy đặt lo việc lớn!
SCN, phận đàn bà kia, mà cũng
cố cầm cự được 9 năm, bằng thời gian Đệ Nhất Cộng Hoà, là đi theo ông
Diệm!
Ông Diệm bị đệ tử làm thịt, khác chứ!
[Phách lối vừa thôi, cha nội!]
Phải có
1 ông Thánh Khùng,
như Gorbachov, thì mới làm được điều này, cho Liên Xô!
Nhưng VC giả như có, thì sẽ bị
làm thịt, vì tội diễn biến hòa bình, hay nhận đô của Mẽo, hay bị tụi đế
quốc,
tụi tư bản lừa....
(1)
Gấu này
thực sự tin là VC, đúng hơn Bắc Kít, gây ra cuộc chiến, khi cố
tình
nhử Mẽo vô Miền Nam, bằng cú ngụy tạo, đầu độc tù Phú Lợi, và bằng cú
đó, thành
lập Mặt Trận Giải Phóng, làm như đây là chuyện nội bộ của Miền Nam, vì
chỉ có một
cách độc nhất, là biến Miền Nam vào thế đối đầu với Miền Bắc thì mới
‘thống nhất’
được.
Thành thử không phải tự nhiên mà mấy anh nhà văn Bắc Kít phải đổi níck,
khi
viết về Miền Nam. Tất cả đều nằm trong âm mưu của Bắc Bộ Phủ.
Gấu nhớ là cái tay trưởng phòng hình ảnh AP, Horst Faas, đã có lần suýt
chết, chỉ vì
cố chụp cho được 1 cái nón bộ đội Bác Hồ, trong đám mũ tai bèo !
Graham
Greene nắm ngay được tia chớp mặc khải này, khi nghe 1 tên Xịa bật mí,
cố tìm ra một khuôn mặt đại diện cho lực lượng thứ ba, tức 1 tay Mít
thực sự quốc gia, để
đương đầu với CS, và cùng lúc, xóa ảnh hưởng, thế lực của Pháp tại Việt
Nam, và
từ đó, ông đẻ ra tác phẩm Người Mỹ Trầm Lặng.
Mê Việt Nam, ông luôn ở về phía VC,
nhưng vẫn cảnh cáo đám nhà văn, coi chừng, một khi cái nón tai bèo rớt
xuống, là
lập tức phải chạy về phía những kẻ bị tủi nhục, là lũ Nguỵ !
Một khi
mà đám VC vẫn còn lải
nhải về những chiến công, về những hy sinh, về những đỉnh cao, về những
bước ngoặt
vĩ đại, thì đừng hòng một cuộc tái sinh nước Mít!
Thơ mỗi ngày
SELF-PORTRAIT
Between the computer, a
pencil, and a typewriter
half my day passes. One day
it will be half a century.
I live in strange cities and
sometimes talk
with strangers about matters
strange to me.
I listen to music a lot:
Bach, Mahler, Chopin, Shostakovich.
I see three elements in
music: weakness, power, and pain.
The fourth has no name.
I read poets, living and
dead, who teach me
tenacity, faith, and pride. I
try to understand
the great philosophers-but
usually catch just scraps of their precious thoughts.
I like to take long walks on Paris
streets
and watch my fellow
creatures, quickened by envy,
anger, desire; to trace a
silver coin
passing from hand to hand as
it slowly
loses its round shape (the
emperor's profile is erased).
Beside me trees expressing
nothing
but a green, indifferent
perfection.
Black birds pace the fields,
waiting patiently like
Spanish widows.
I'm no longer young, but
someone else is always older.
I like deep sleep, when I
cease to exist,
and fast bike rides on
country roads when poplars and houses
dissolve like cumuli on sunny
days.
Sometimes in museums the
paintings speak to me
and irony suddenly vanishes.
I love gazing at my wife's
face.
Every Sunday I call my
father.
Every other week I meet with
friends,
thus proving my fidelity.
My country freed itself from
one evil. I wish
another liberation would
follow.
Could I help in this? I don't
know.
I'm truly not a child of the
ocean,
as Antonio Machado wrote
about himself,
but a child of air, mint, and
cello
and not all the ways of the
high world cross paths with the life that-so far-
belongs to me.
Adam Zagajewski
Without End
Chân Dung Tự Họa
Giữa cái PC, cây viết chì, và
cái máy đánh chữ
nửa ngày của tôi
trôi qua.
Một ngày nào nó sẽ là nửa thế kỷ.
Tôi sống trong
những thành phố
lạ và thỉnh thoảng lèm bèm
với những người lạ
về những
gì lạ với tôi.
Tôi nghe nhạc hơi
bị nhiều: Bach,
Mahler, Chopin, Shostakovich.
Tôi nhìn thấy ba
thành phần ở
trong nhạc: yếu đuối, quyền uy, và đau đớn.
Thành phần thứ tư
thì không có
tên
Tôi đọc những thi
sĩ, còn
sống hay đã chết, họ dậy tôi
sự kiên trì, niềm
tin, và
lòng tự hào. Tôi cố hiểu
những triết gia
lớn – nhưng
thường chỉ vớ được
tí mẩu vụn của
những tư tưởng
quí báu của họ.
Tôi thích những
chuyến đi dạo
dài ở trên những đường phố Paris,
nhìn đồng loại của
tôi, vội vã bởi ham muốn, giận dữ, và ước muốn;
theo dõi một
đồng bạc, chuyền từ tay người này qua tay người nọ,
và đồng bạc mòn
dần đi, mất luôn
cái dáng tròn tròn của nó
(cái mặt nhìn
nghiêng của vị hoàng đế in trên
đồng bạc thì cũng mòn mất tiêu)
Bên cạnh tôi cây
cối vô tình
đối với tôi, vì chẳng thấy chúng biểu hiện hay ấn tượng gì cả,
thay vì vậy, thì
là một mầu xanh tuyệt hảo, dửng dưng tuyệt hảo.
Những con chim đen
bao phủ
những cánh đồng
kiên nhẫn đợi, như
những góa phụ Tây Ban Nha.
Tôi thì chẳng còn
trẻ nữa,
nhưng luôn luôn có 1 thằng cha nào đó già hơn tôi.
Tôi thích một giấc
ngủ sâu,
khi tôi ngưng hiện hữu,
và những chuyến
đạp xe đạp thật nhanh, trên những con
đường quê,
khi những cây
dương và những nhà cửa tan biến, nhạt nhòa đi
như những đám mây
trong những ngày nắng.
Đôi khi, trong
viện bảo tàng, những bức họa nói với tôi,
và sự tiếu lâm bất
thình lình biến mất.
Tôi mê nhìn mặt bà
xã mình.
Mỗi chủ nhật tôi
đều goi điện
thoại cho ông già của tôi.
Mọi chủ nhật khác
tôi gặp bạn
hữu,
để chứng tỏ lòng
trung thuỷ
của tôi.
Xứ sở của tôi tự
nó rũ ra khỏi
một cái ác. Tôi cầu chúc
một cuộc giải
phóng khác sẽ tiếp theo.
Liệu tôi có làm
được cái gì
trong vụ giải phóng sau này đó? Tôi không chắc lắm đâu.
Tôi thực sự không
phải là 1
đứa con của biển,
như Antonio Machado viết về anh ta,
nhưng mà là 1 đứa
con của không khí, của bạc hà, và đại hồ cầm,
và không phải tất
cả những con đường của thế giới cao, cho tới giờ này
đụng với những con
đường của cuộc đời thuộc về tôi
*
… thích nhất
mấy
bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy mất...
niềm hứng khởi của
GNV!
DV
*
Đa tạ.
NQT
*
A FLAME
God, give us a long winter
and quiet music, and patient
mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a
flame, high, bright.
Một ngọn lửa
Chúa ơi, cho GNV một mùa đông
dài
và nhạc trầm lặng, những cái
miệng nhẫn nại
và một tí phách lối - trước
khi những ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu Già sự ngỡ ngàng,
kinh ngạc
và một ngọn lửa, cao, sáng.
Adam Zagajewski
Without End
FOR YOU
It's not the only poem-are
you asleep now
in a cloud of woolen
dreams-I've written for you.
For you, triumphant, smiling,
lovely,
but also for you, conquered
and subdued,
(although I've never
understood
who could defeat you!),
for you, mistrustful and
uneasy,
I've written poem after poem,
as if hoping one day-like the
tortoise
– to reach, by way of faulty
words
and images, the place where
you have been so long,
where life's lightning carried you.
Cho Em
Đây không phải là bài thơ độc
nhất – em lúc này thì đang ngủ
ở giữa một
đám mây của những giấc mơ mượt mà – anh viết cho em.
Cho em, thắng thế, mỉm chi, đáng
yêu,
và cũng vẫn cho em, bị chinh
phục, và chịu trận
(mặc dù anh chẳng bao giờ
hiểu
được,
ai có thể đánh bại em),
cho em, chẳng đáng tin cậy, và
cũng thật khó khăn
anh viết bài thơ này tới bài thơ khác
như thể, để hy vọng, có 1
ngày
nào,
đài gương soi đến dấu bèo-
hay,
như 1 con rùa
– bò tới được -
bằng những từ ngữ và hình ảnh không hoàn hảo,
– lâu đài em hằng ngự,
nơi ánh
sáng cuộc đời nâng niu em.
Adam Zagajewski
Without End
INTIZAR HUSSAIN
THE HOUSE BY THE GALLOWS
Căn Nhà
Kế Bên Giá Treo Cổ
Trích
Granta, số Mùa Thu,
2010 đặc biệt về Pakistan
Note:
Mít chúng ta chỉ còn
thiếu 1 cái giá treo cổ, dựng ngay tại "pháp trường cát" ngày nào,
phong ngay cho Tướng Râu Kẽm làm tay gác
dan, hoặc bảo quản!
Trang TTH
Khi
Đỏ
là Đen
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Kỷ niệm, kỷ
niệm
…. Ngài Toyama có biết
Nishino Tesshin không?"
-"Ta biết chứ. Ta đã một
lần đấu kiếm và thua ông ấy rồi. Tay
kiếm tài
ba hiếm có đấy".
-"Thế ngài có nghe về
kiếm pháp bí truyền gọi là Sóng gợn mà Nishino đã sáng tạo ra chưa?"
-"Ta có nghe. Nhưng có
lẽ chưa ai thấy tận mắt cả".
-"Thưa, tôi đã được
truyền thụ kiếm pháp ấy đấy".
-"Hả?...". Toyama
sửng sốt, mặt biến
sắc. -"Thế bà tên là gì?"
-"Kunie. Nguyên là người nhà Hatanaka".
-"Ồ! Thế thì...". Khuôn mặt Toyama chợt thoảng nụ cười ngạo nghễ.
-"Hoá ra được gặp nữ kiếm sĩ của võ đường Nishino mà người ta vẫn đồn
đại
bao lâu nay. Thật vinh hạnh quá! Được lắm, sẽ xin bái kiến kiếm pháp bí
truyền
Sóng gợn ấy xem sao".
Lúc mới
chĩa lưỡi kiếm đối mặt với người đàn bà mảnh mai ấy, Toyama đã chợt
có ý thương hại. Nhưng trận đấu bắt đầu rồi thì Toyama đã bỏ ý nghĩ ấy
ngay. Bởi
thế tấn của Kunie thật kiên cố, không có chút sơ hở nào cho Toyama chém
trúng
được đối thủ. Và động tác của Kunie thì thật là nhanh nhẹn.
Giao đấu một hồi, Toyama hiểu ra là Kunie nhắm vào cổ tay phải của
mình. Vậy
mà anh ta vẫn không tránh khỏi bị chém trúng vào đấy. Hễ anh chém tới
là bị
chém ngược lại ngay, mà anh rút lui thì nữ đối thủ nhanh nhẹn dậm chân
phóng
tới chém vào cổ tay anh. Kiểu tấn công thật lì lợm kiên trì. Cứ như là
những
đợt sóng nhỏ lăn tăn lì lợm táp vào bờ đá, năm này qua năm khác, xoi lỗ
vào đá.
Những nhát kiếm chém cạn và nhẹ dần dần ăn sâu vào tận xương.
Toyama cảm thấy cánh tay phải của mình hầu như mất hết cảm giác, nên
nghĩ
phải tấn công một lần dứt điểm mới xong. Đầu anh nóng rực lên vì nôn
nao.
Toyama giương vút kiếm lên tấn ở tầm cao.
Nhưng cùng lúc, anh đã phải hực lên một tiếng trầm thống. Toyama cảm
thấy
cánh tay phải của mình đã rời khỏi cán kiếm, buông thõng xuống. Dáng
người đàn
bà như bóng đen áp đến trước mặt, rồi lướt ngang qua hông anh trong
chớp mắt. Toyama
gắng gượng chịu đựng cảm xúc như mình vừa bị đâm sâu vào ngực, chỉ còn
một cánh
tay trái cố chém kiếm vói theo hướng bóng đen ấy.
[Truyện ngắn "Nyoninken
Sazanami" của Fujisawa Shuhei, đăng lần đầu trên tạp chí văn học O-ru
Yomimono tháng 12 năm 1977, được dịch từ nguyên tác là truyện thứ 6
trong tập
truyện "Kakushiken Koeisho" (Kiếm ẩn trong bóng người lẻ loi), bản bỏ
túi, do nhà Bunshun Bunko tái bản lần thứ 9 tháng 10 năm 2006.]
Phạm Vũ Thịnh dịch
Source
Gấu rất
mê truyện kiếm hiệp,
nhưng phải đến khi đọc Phạm Vũ Thịnh dịch, thì Gấu mới hiểu ra rằng,
cái chuyện
mình mê kiếm hiệp không thể nào so với PVT được. Bạn đọc, chỉ một đoạn
trên đây,
là hiểu lý do. Đọc, mà cứ như là đang thưởng thức cuộc tử đấu long trời
lở đất.
Ui chao, nào “kiếm ẩn trong
bóng người lẻ loi”, nào “cứ như là những
đợt sóng nhỏ
lăn tăn lì lợm táp vào bờ đá, năm này qua năm khác, xoi lỗ vào đá.
Những nhát
kiếm chém cạn và nhẹ dần dần ăn sâu vào tận xương”…
Gấu
cũng đã từng mon men làm cái chuyện PVT từng làm,
khi “viết lại” 1 xen trong Kim Dung, khi ông sử dụng tiếng đàn làm tăng
thêm sức
đi của kiếm:
Ang Lee,
nhà đạo diễn phim Ngọa Hổ Tàng
Long, làm sao không đọc Kim Dung, và làm sao quên được cái cảnh tượng
Phí Bân
truy đuổi tận sát hai cao thủ chính tà là Lưu Chính Phong và Khúc Dương
trưởng
lão, đồng tác giả bản Tiếu Ngạo Giang Hồ, và rồi chết dưới lưỡi kiếm
của Tiêu
Tương Dạ Vũ. Kiếm từ hồ cầm theo tiếng đàn bật ra, kiếm tới đâu, tiếng
đàn theo
tới đó, khi kiếm trở lại với đàn, cũng là lúc Phí Bân biết mình trúng
tử thương,
nhẩy lên cao, dồn hết nội lực theo tia máu vọt ra theo vết kiếm, trông
thật ghê
rợn, kỳ bí! Joan Acocella đã cảm nhận được điều này, qua tiếng trống ở
trong phim
Ngọa Hổ Tàng Long (Drums sound, adding to the mystery).
Ngọa Hổ Tàng Long
Nhà thơ
đàn anh, khi còn Sài
Gòn còn gọi là Sài Gòn, nhân một buổi sáng ngồi bàn cà phê Cái Chùa,
tình cờ
nhắc tới Dostoevsky, nhân đó leo qua bi hùng kịch Hy Lạp, đã đưa ra
nhận xét:
bi hùng kịch Hy Lạp chưa tới đỉnh cao như chuyện Tầu, thí dụ như đoạn
Tống Tửu
Đơn Hùng Tín ở trong Thuyết Đường. Một đám huynh đệ uống máu, thề đồng
sinh
đồng tử, vậy mà khơi khơi mời bạn nhậu, rồi khơi khơi đưa bạn ra chặt
đầu,
chẳng thèm diễn tuồng xử lý nội bộ!
Người
ngợm gì mà đến tên họ
của mình cũng không biết !
Ôi
chao, tưởng là một câu nói
tầm thường, hóa ra là một câu tỏ tình của con quỉ nhỏ xinh xắn A Tỷ !
Ôi,
giấc mộng đã tan mà sao
ảo tưởng vẫn còn!
Lần
cuối cùng hẹn gặp trước
khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp
mặt là một
quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học
tại một
trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như
nhớ ra,
kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi
với
anh Gấu."
Bạn bè,
cô, và cô em gái vẫn
gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà
nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm
cũ.
Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh nghe cô kể
lại: Bữa đó, trời mưa
lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn -
Sài Gòn.
Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi,
đã trễ
hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một
đời để
chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Khi Đỏ
là Đen
In memory of my
parents Renfu and Yuee, who, like many Chinese people in the book,
suffered
during the Cultural Revolution because they were politically black.
Để tưởng niệm
bố mẹ tôi, cũng như nhiều người TQ khác ở trong cuốn
sách
này, đã đau khổ trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, vì lý lịch đen của họ.
Qiu Xiaolong
*
Inspector
Chen of the
Shanghai Police Bureau is "on vacation." Actually, he is working for
a triad-connected businessman about to build a vast complex in Central Shanghai evoking the "glitter and
glamour" of the '30s. But when former Red Guard, novelist Yin Lige is
murdered, he must return to duty to apprehend the culprit.
*
Yin had been a Shanghai College
graduate, class of 1964.
Because of the enthusiasm she
displayed in student political activities, she had been admitted to the
Party
and, after graduation, assigned a job as a political instructor at the
college.
Instead of teaching classes, she gave political talks to students. It
was then
considered a promising assignment; she might rise quickly as a Party
official
working with intellectuals who forever needed to be reformed
ideologically.
When the Cultural Revolution
broke out, like other young people she joined a Red Guard organization,
following Chairman Mao's call to sweep away everything old and rotten.
She
threw herself into criticism of counterrevolutionary or revisionist
"monsters," and emerged as a leading member of the College
Revolutionary Committee. Powerful in this new position, she pledged
herself to
carry on "the continuous revolution under the proletarian
dictatorship." Little did she suspect that she herself was soon to
become
a target of the continuous revolution.
Toward the end of the
sixties, with his former political rivals out of the way, Chairman Mao
found
that the rebellious Red Guards were blocking the consolidation of his
power. So
those Red Guards, much to their bewilderment, found themselves in
trouble. Yin,
too, was criticized and removed from her position on the College
Revolutionary
Committee. She was sent to a cadre school in the countryside, a new
institution invented by Chairman Mao on an early May morning, after
which May
7th Cadre Schools appeared throughout the country. For Mao, one of
their
purposes was to keep politically unreliable elements under control or,
at
least, out of the way.
The cadre students consisted
of two main groups. The first was composed of ex-Party cadres. With
their
positions now filled by the even more left-wing Maoists, they had to be
contained somewhere. The other was made up of intellectuals, such as
university
professors, writers, and artists, who were included in the cadre rank
system.
The cadre students were supposed to reform themselves through hard
labor in the
fields and group political studies.
Yin, a college instructor,
and also a Party cadre for a short while, fit into both categories. In
the
cadre school, she became the head of a group, and there Yin and Yang
met for
the first time.
Yang, much older than Yin,
had been a professor at East
China University.
He had been in the United
States and had returned in the early
fifties, but soon he was put on the "use under control" list, labeled
a Rightist in the mid-fifties, and a "black monster" in the sixties.
Yin and Yang fell in love
despite their age difference, despite the "revolutionary times,"
despite the warnings of the cadre school authorities. Because of their
untimely
affair, they suffered persecution. Yang died not too long afterward.
After the Cultural
Revolution, Yin returned to her college, and wrote Death of a Chinese
Professor, which was published by Shanghais Literature Publishing
House.
Although described as a novel, it was largely autobiographical.
Initially, as
there was nothing really new or unusually tragic in the book, it failed
to
sell. So many people had died in those years. And some people did not
think it was
up to her-as an ex-Red Guard-to denounce the Cultural Revolution. It
was not
until it was translated into English by an exchange scholar at the
college that
it attracted government attention.
Officially, there was nothing
wrong with denouncing the Cultural Revolution. The People's Daily did
so, too.
It had been, as the People's Daily declared, a mistake by Chairman Mao,
who had
meant well. The atrocities committed were like a national skeleton in
the
closet.
To be aware of the skeleton,
at home, was one thing, but it was quite another matter to drag it out
for
Westerners to see. So Party critics labeled her a "dissident," which
worked like a magical word. The novel was then seen to be a deliberate
attack
on the Party authorities. The book was secretly banned. To discredit
her, what
she had done as a Red Guard was "uncovered" in reviews and
reminiscences. It was a battle she could not win, and she fell silent.
But all that had happened
several years earlier. Her novel, filled with too many specific
details, did
not attract a large audience abroad. Nor had she produced anything
else, except
for a collection of Yang's poetry she had earlier helped edit. Then she
was
selected for membership in the Chinese Writers' Association, which was
interpreted as a sign of the government's relenting. Last year, she had
been
allowed to visit Hong Kong as a
novelist. She
did not say or do anything too radical there, according to the files.
*
Ui
chao, cái cuốn Khi Đỏ là Đen thì
cũng rất ư là tuyệt cú mèo, và cũng vẫn nằm
trong cái dòng di sản của Cách
Mạng Văn Hoá Tẫu. Trong cuốn trước mà Gấu đã đọc trong khi đi giang hồ
vặt đồng
thời ghé nhà ở Xứ Phật, thì là 1 em xung phong đi thực tế, về nhà quê
tam cùng cùng
bần cố nông, bị ngay ông Trùm VC làng đè ra hiếp, bắt phải làm vợ anh
ta.
Chắc
anh này là hậu duệ của Chí Phèo, đứa con lò gạch ngày nào, nhờ ơn Cách
Mạng Mùa
Thu mà nên [‘lên’, cũng được] Trùm.
Cô gái cũng ngang bướng, nhất quyết không
trở lại cái thiên đường tuổi mới lớn đam mê cách mạng ngày nào ở thành
phố, và
sau cùng được cứu vớt nhờ mối tình của 1 anh bạn cùng học, khi đó bị
qui thành
phần con cái địa chủ, mà, với anh này, ngày đó, em quả đúng là thánh
nữ, chỉ dám
đứng xa mà chiêm ngưỡng, đến gần thì đi tù!
Cuộc
tình trong "Khi Đỏ là Đen",
ui chao, nó lại có mùi "Vòng Tay Học Trò" của Nguyễn Thị Hoàng, vì có
gì giống giống
của bà này với ông thầy CGN nổi tiếng một thời!
Ghi chú
trong ngày
19.11.2010
Cái vụ
cái nhà của nhà toán
học Nobel của xứ Mít không ngờ hậu quả trầm trọng hơn cả cái vụ
cấm ra
khỏi tù của nhà Nobel hòa bình Lưu Hiển Ba, và cấm ra khỏi nhà của bạn
bè của ông [để thay mặt ông nhận Nobel].
Trầm trọng đến nỗi ông Nobel Toán
phải khoá nhà của mình, đếch cho ai vô lèm bèm nữa!
Qua vụ này lại càng nổi lên
Cái Độc, Cái Ác của giới Bắc Kít, mà cái tay Đông B gọi là Bắc Hà!
Đọc
bài viết
của tay này, về vụ NBC nhận cái nhà nhà nước VC phát cho ông, mới thấy…
tởm.
V/v
NBC, Gấu này chỉ tiếc,
giá mà ông bảnh hơn một chút, biết đâu tương lai đất nước thay đổi đi,
nếu ông,
vào đúng lúc vinh quy bái tổ, phán, phải thay đổi chế độ!
Phán vào lúc đó, đồng thời
cho mấy đệ tử quay video, rồi tung hê lên Youtube coi, có ăn khách số 1
không!
Hơn video HTL nhiều, chắc chắn!
Hà, hà!
Còn cái
sự đóng góp của NBC
thì không phải cho Mít, mà cho toàn nhân loại. Gấu này đã từng xưng
tụng ông là
bậc thiên tài chẳng thua gì Einstein. Einstein chỉ cho thấy vật chất là
năng
lượng, thì NBC cũng đâu có thua, chỉ cho thấy hai ngành toán học trước
nay kể
như chẳng thể nào kết nối, thì nay kết nối, và những hệ quả, thành quả
của nó,
thì chắc cũng là vô cùng, như 1 thứ bom nguyên tử trong toán học, và
trong toán
ứng dụng.
Một cái tay Đông B làm sao so
được với NBC.
Viết độc ác như thế, chỉ để
lộ ra cái tâm địa đố kỵ của anh ta mà thôi.
Có vẻ như anh ta rất thù NBC
chỉ vì ông gạch bỏ 1 cụm từ trong lời phát biểu khi vinh qui bái tổ,
nói rõ
hơn, ông nói, ông cám ơn Tây mũi lõ, đã khám phá ra ông, cho ông cơ hội
để phát
triển tài năng thiên bẩm mà, nếu ở xứ Mít, thì vô phương.
Đúng ra đám Mít trong nước
phải hãnh diện vì những phát biểu hết sức dõng dạc, hết sức nhân bản,
nhân hậu,
ân oán phân minh, và phải lấy làm nhục nhã vì cái xứ sở của mình, ngày
1 tệ hại
thêm mãi lên kể từ sau 30 Tháng Tư.
Thay vì vậy chúng ngoạc mồm
ra chửi NBC.
Ở hay Về?
Of
course, it's one hell of a
way to get from Petersburg to Stockholm; but
then for a man of my
occupation the notion of a straight line being the shortest distance
between
two points has lost its attraction a long time ago.
Joseph Brodsky: Acceptance speech for the Nobel Prize in Literature
'Lẽ dĩ
nhiên, một
cách nào đó, con đường từ St. Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục,
nhưng
một con người với nghề nghiệp như tôi, ý niệm đường thẳng - con đường
ngắn nhất
nối hai điểm - đã mất hết sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.' (Joseph
Brodsky, Diễn
văn nhận Nobel văn chương)
In
order to rebuild one's
life one has to be strong and an optimist. So we are very optimistic.
Our
optimism, indeed, is admirable, even if we say so ourselves.
Hannah Arendt,
"We Refugees"
Để
xây dựng lại đời mình,
bạn phải mạnh mẽ và lạc quan. Như vậy, chúng ta đều rất lạc quan. Lạc
quan của
chúng ta thì thật đáng mến, ngay cả khi chúng ta lèm bèm giữa chúng ta,
về lạc
quan.
*
THE
WORD nostalgia comes from
two Greek roots-nostos (home) and algia
(longing) - yet this composite
word did not originate in ancient Greece. It is only
pseudo-Greek, or
nostalgically Greek. The nostalgic disorder was first diagnosed by
seventeenth-century Swiss doctors and detected in mercenary soldiers
(Lowenthal
1985: 11).1 This contagious modern disease of homesickness -La
maladie du pays - was treated in a
seventeenth-century scientific manner with leeches, hypnotic emulsions,
opium,
and a trip to the Alps. Nostalgia was
not
regarded as destiny, nor as part of the human condition, but only as a
passing
malaise. In the nineteenth century, the geographic longing was
superseded by
the historical one; maladie du pays
turned into mal du siècle, but the
two ailments shared many symptoms.
SVETLANA
BOYM. ESTRANGEMENT
AS A LIFESTYLE: SHKLOVSKY AND BRODSKY
In
What
Are Masterpieces?
Gertrude Stein said about herself: "I am an American and I have lived
half
my life in Paris, not the half that made me but the half that made what
I
made"
*
The
word
"nostalgia" was invented on 22 June, 1688, by Johannes Hofer, an
Alsatian medical student, by combining the word nostos
("return") with the word algas ("pain") in his medical
thesis Dissertatio medica
de nostalgia, to describe the sickness of Swiss soldiers kept far away
from
their mountains
Cái từ
‘hoài hương’,
nostalgia, được phịa ra vào ngày 22 Tháng Sáu, 1688, bởi Johannes
Hofer, một
sinh viên y khoa người Alsatian, bằng cách kết hợp hai từ nostos
[return: về] với
từ algos [pain; đau], trong luận án y khoa của anh,
Dissertatio medica de nostalgia, để miêu tả căn bịnh, sickness, của
những người lính Thụy Sĩ, bị cách xa những vùng núi non của họ.
Alberto
Maguel: A Reading
Diary.
*
Exile is
strangely compelling to think about but terrible to experience”
Lưu vong, nghĩ thì sướng mê tơi, nhưng thử sống nó coi, mới biết khủng
khiếp là
dường nào. E. Said
"He is a pessimistic
poet made melancholy by an intolerable political exile"
Ông ta
là 1 nhà thơ bi quan
trở thành buồn ơi là buồn, do cái vụ lưu vong chính trị không làm sao
chịu đựng
nổi
NKTV
*
Tình Yêu như Trái Phá
Thấy người sang bắt quàng làm họ, cái vụ nhà
Nobel Toán, ngửi khói
hành lang, biết mình đuợc Nobel, bèn vội vàng xin nhà nước mũi lõ phát
cho quốc tịch Tây, có cái gì giông giống Gấu, khi, vào năm 1954, ở Hà
Nội, khi Ông
Tây chồng bà Me Tây là Cô Dung của Gấu, làm thủ tục kết hôn, và đưa vợ
về nước,
thì Gấu cũng tự nhủ, mình sẽ học tiếng Tây, để làm sao viết cho được 1
cái thư
bằng tiếng Tây, cám ơn 1 ông Tây thuộc địa, bởi vì không có ông, là
không làm
sao có… Gấu Nhà Văn, và thay vì như vậy, thì có 1 thằng Bắc Kít khốn
nạn cũng cỡ
Đông B, chắc hẳn !
Về già, Gấu ngộ ra, giả như Gấu cố học tiếng
Tây, để chuồn, thì chắc hẳn, sẽ
được như, thí dụ, ông Tây mũi tẹt, cách đây mấy chục năm đã từng dịch
Camus !
|
|