Thơ mỗi ngày
VERMEER
So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after
day
from the pitcher to the bowl
the World hasn't
earned
the world's end.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the Polish
by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)
Note:
Bài thơ ngắn, thấy
trên NYRB, số mới nhất, 11.11.2010, cũng
cùng đề tài "người sống dai, hay thế giới sống dai"?
Không biết chưa từng in ấn, inédit, hay đã có trong mấy tuyển tập của
bà.
Tạm
dịch:
Một khi mà cái người đàn bà ở
trong bức tranh ở viện bảo tàng
Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái
bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có
được
cái sự tận cùng của thế giới.
Tuyệt
cú mèo!
Thần sầu!
GNV sợ...
đi bất cứ lúc nào, nên
không thèm mua mấy tờ báo văn học như NYRB nữa, đâu ngờ, mua từng số
hóa ra lại
đau khổ hơn nhiều.
Số báo trên, Gấu, kỳ ghé tiệm lần trước, đã cầm lên đọc sơ sơ,
rồi lại bỏ
xuống, lầm lũi đi ra, thế mà chiều nay, đành bệ về, vì có tới mấy bài
hấp dẫn!
Chán thật!
Thái Hòa
Mon, November 8, 2010
10:09:33 PM
Gửi anh Trụ truyện ngắn đăng
Tanvien cho vui
Nhớ
Thuở ấy chúng mình xanh tóc xanh
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Tác phẩm của bà
còn bị ám ảnh bởi đề tài nhị phân, hai mặt...
Đúng thế. Tôi cảm
thấy mình rất hai mặt, và hơn thế nữa, đa mặt, đa thân; những hồn ma
luôn trú
ngụ ở nơi tôi, và theo với đà viết, có được những cuốn sách, cùng lúc,
tôi cảm
thấy mình giầu có thêm lên, như thể tôi gọi dậy được những hồn ma, và
họ nhập
thân vào những nhân vật của tôi, nhờ tôi viết, mà những hồn ma ló dạng.
Trước
tiên là cha tôi, một người mà tôi luôn mong muốn thể hiện long kính
trọng. Ông đã
từng muốn là một họa sĩ, và đã từ bỏ tham vọng khi có một gia đình. Ông
là một khuôn
mẫu, và mấy bà chị cô em của tôi luôn nói đùa, tôi là đệ tử của ông.
Khi tôi tới
Pháp định cư, tôi viết thư cho ông, ở lại Việt Nam, ông trả lời, ông
rất tin tưởng
ở nơi tôi, và tuy ông không biết tôi sẽ làm gì, dự định ra sao, thế
nào, nhưng ông
tin rằng, tôi phải làm được một cái điều gì đó làm ông ngạc nhiên.
Chính ông đã
xui khiến, phải nói là, xúi đẩy, tạo hứng khởi cho tôi để trở thành nhà
văn.
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Tình Yêu Như Trái Phá
TRẦN
THIỆN ĐẠO
…. Là
bởi trái phá trong câu
ca từ chỉ là hình ảnh cụ thể phác họa một í niệm chớ không một vật thể
đặt định
nào. Trái phá ở đây dịch là artillery shell, hay grenade, hay smoke
grenade,
hay exploding shell, hay một từ khác chỉ định bom đạn thì cũng có í
nghĩa tượng
trưng ngang nhau. Nhưng nếu như chuyển nó bằng một từ nào thích hạp với
cách
diễn đạt bản năng của người phương Tây thì chắc dễ được họ tiếp thu một
cách
thấm thía hơn. Chẳng hạn sử
dụng í niệm coup de foudre của Pháp, hoặc
love at
first sight (hay coup de foudre lấy nguyên xi tiếng Pháp) của Anh và Mĩ
- cả
hai đều hàm nghĩa sét đánh giống như chúng ta đã nhại theo tiếng Pháp…
Và chắc
còn nhiều từ/thành ngữ sở tại và cách diễn đạt khác nữa mà chúng tôi
không/chưa
nghĩ ra, mà bạn đọc sành Anh ngữ và Mĩ ngữ đã nghĩ tới rồi.
Tạm kết
Trở lên trên là những í kiến
sơ đẳng, nhưng đã được tôi luyện qua kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy và
chuyển
dịch Pháp->Việt, Việt->Pháp và Pháp->Anh, Anh->Pháp. Tuy
chỉ chạm
tới những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng chẳng phải vì vậy mà không liên quan
tới
những vấn đề khái quát.
Dịch thuật vốn là một công
việc trần ai, ngoại trừ lối
dịch cẩu thả và lấy có, kể cả của mấy dịch
giả danh
tiếng, thường thấy trên thị trường của chúng ta hiện nay. Cho
nên câu
chuyện sẽ
còn dài và còn lâu mới (chưa chắc) chấm dứt.
TRẦN
THIỆN - ĐẠO
(Paris,
03/05/2010)
Ông Tây
mũi tẹt này kể cũng
lớn lối, khi lên giọng chê bai những dịch giả khác, nhưng, nếu đọc
những nhận
xét của ông về chỉ hai câu nhạc của họ Trịnh, là Gấu thấy ông ta
chẳng hiểu
tí chó nào cả, và lý do không hiểu y chang 1 tay cùng băng bỏ chạy
của ông
ta, "người của chúng ta ở Paris”, đã từng lầm, khi không phân biệt được
thế
nào là oanh kích, thế nào là pháo kích!
Cái
kiểu viết tiếng Việt “í
kiến” của ông ta cũng làm Gấu này nực!
Đây là bắt chước
trong nước, đám Bắc Kít hay sử dụng, cứ ‘y’ dài là bèn đổi
thành ‘i’
ngắn.
Nếu thế, thì Thanh Thúy thành
Thanh Thúi ư?
GNV,
trong kỳ tới, sẽ chỉ
ra cái ngu ngốc mà còn muốn làm ông nội của ông Tây mũi tẹt này, khi
coi
Tình Yêu
Trái Phá giống như “coup de foudre”!
Chỉ bật
mí sơ sơ, tình yêu
trái phá không thể nào giống ‘cú đờ phút’ được, vì ‘cú đờ phút’ chỉ
đánh trúng
1 thằng, còn trái phá mà nó nổ 1 cái thì là khối thằng bị văng miểng!
Hồi mồ
ma tờ Văn, Gấu đọc
ông Tây mũi tẹt dịch Camus, nể quá. Vì tiếng Tây của Gấu thuộc loại
ăn đong,
còn ông này chính gốc Tây, chính gốc Paris, xém 1 tí thì cũng Tây
đặc, chỉ có
cái mũi tẹt là không giống.
Bây giờ, về già, đọc ông ta
phán bố lếu bố láo, mới hiểu ra, không phải cứ giỏi tiếng Tây, là đọc
được sách
Tây, thí dụ, của Camus.
Nói thế, không phải là chê ông
ta dịch sai.
Dịch đúng, vẫn đếch làm sao hiểu được Camus!
Nguyễn
Mạnh Côn chẳng đã từng
dịch Y Sĩ Đồng Quê của Kafka, và phán, dịch thì dịch, chẳng hiểu ông ta
nói cái
gì?
Khi ông Tây mũi tẹt này dịch Camus, chắc chắn là không hiểu Camus, bởi
vì nếu
hiểu Camus, ông đâu có ‘tôi bỏ mẹ tôi’, chạy thẳng từ Xề Gòn qua Paris,
dịch Camus, làm Tây mũi tẹt, nói không, không, tôi không phải là 1 tên
Ngụy!
Chán
thật!
Cũng
chỉ là tình cờ, nhưng hai thuật ngữ, trong bài
điểm sách của Anne Applebaum, có thể muợn, để sử dụng ở đây. Từ “trái
phá” của
TCS không thể dịch grenade, lựu đạn, được, vì trong nó có cái mà
Applebaum gọi
là cái “tệ hại nhất của sự khùng điên”, the worst of the madness. Nôm
na, nó
gây miểng nhiều hơn, so với lựu đạn. Và không biết ai là tác nhân,
trong khi lựu
đạn liên quan tới người mang, đeo nó. Còn nữa, từ lựu đạn còn có nghĩa,
để chỉ
1 người nào cà chớn, "đồ lựu đạn, nó là thằng lựu đạn", thí dụ.
Trong
từ ‘trái phá’ có cái
nghĩa ‘mù lòa’, theo kiểu ‘trời kêu ai thì người đó dạ’!
Làm sao mà có thể dịch là "lựu đạn" được?
Từ ý
nghĩa ‘trái phá mù lòa’ mới
ra ý ‘con tim mù lòa có lý do mù lòa của nó’, như Tây mũi lõ phán, trái
tim có
lý lẽ riêng của nó, lý lẽ mù, khùng, điên, ba trợn... và ‘trao duyên
lầm tướng cướp’ là chuyện thường!
TCS là
1 nhạc sĩ, còn là thi
sĩ, ông rất rành tiếng Việt, rất cẩn trọng khi dùng chữ, vả chăng, tác
giả dùng
chữ nào, khi chuyển ngữ, cố dùng chữ đúng, hoặc kẹt quá gần đúng, vậy
mà sao lại
có mấy thằng ngu, cứ cố tình dịch khác đi, khó hiểu thật!
Cũng
thế, từ "trái phá" không phải là 1 ẩn dụ, như
Applebaum coi từ "đất máu", trong cái tít của cuốn sách được bà điểm,
không phải 1 ẩn dụ.
*
Trong bài viết
"Hãy Bước Qua Lằn Ranh Này", Rushdie trích "Ghi chú về dịch thuật"
của Nabokov, qua đó, nhà văn Nga này cho rằng, có "ba bậc quỉ ma"
[three grades of evil], trong thế giới lạ kỳ dịch thuật.
Bậc thứ nhất, không đến nỗi tà ma cho lắm, là do thiếu hiểu biết, hiểu
sai. Cái
này tha thứ được. Vì làm người có nghĩa là phải có lỗi lầm.
Bậc thứ nhì dẫn tới Địa Ngục, "The next step to Hell", là thiến vô
tư, thoải mái những chữ, những đoạn, mà dịch giả không hiểu nghĩa , hay
cảm thấy,
chúng có vẻ mù mờ, tối tăm, hay thô bỉ, dơ dáy, tục tĩu đối với những
độc giả
mà người dịch mường tượng ra ở trong đầu.
Bậc thứ ba, tội ác tệ hại nhất trong dịch thuật, là dịch giả muốn "làm
tốt", sửa đổi, improve, nguyên tác, "đánh bóng, minh họa" nó,
sao cho tác phẩm đi đúng luồng, phục vụ yêu cầu của nhân dân [to
conform to the
notions and prejudices of a given public: phù hợp với quan niệm và định
kiến
của một tầng lớp công chúng nhất định].
Cuộc chiến dịch
thuật
Trên TV
có rất nhiều sai sót
vì dịch thuật, và lý do thì cũng rất nhiều, và đều thuộc bậc đầu của ba
bậc quỉ
ma, theo cách nói của Nabokov.
Mới đây
nhất, nhân
Linda Lê về trong nước, một độc giả đọc bài dịch cuộc phỏng vấn bà trên
tờ báo
Tây, dịch từ đời thuở nào, kiếm ra mấy cái lỗi dịch sai, chỉ cho GNV.
Lạ, là những cái lỗi đó, thực
sự không nằm trong ba bậc quỉ ma mà Nabokov nhắc tới.
Chúng quá dễ, vậy mà GNV
cũng dịch sai!
Thí
dụ
hai câu sau đây:
Pourquoi
ne l'avez-vous pas rejoint
au Vietnam?
L.L. On
trahit toujours ceux
qu'on aime. Faute de les tuer. Mon père est catholique et je connais
mieux la
Bible que les
enseignements des confucéens. J'ai toujours été portée
vers le
catholicisme. Adolescente, j'aimais lire les vies des saints, puis
Dostoïevski
et Kierkegaard ont imprégné mon univers, l'ont nourri de culpabilité,
de
mortification. J'ai toujours éprouvé une très grande attirance pour les
mystiques, leur parole faite à la fois de soumission à Dieu et de
révolte
absolue, leur attirance pour l'avilissement. J'aime particulièrement
sainte
Thérèse d'Avila, son attitude, sa vie et son Château intérieur. Saint
Jean de
la Croix, lui, me fascine par son style. Aujourd'hui encore lorsque je
me
promène, j'entre toujours dans les églises. Et puis, j'écoute beaucoup
de
chants religieux, Buxtehude notamment.
-Tại
sao bà không về VN gặp
lại ông?
LL:
Người ta luôn luôn phản
bội những người mà mình yêu thương. Do không thể giết được họ. Cha tôi
là người
theo Ca-tô giáo, và tôi biết rành Thánh Kinh, hơn là những điều giảng
dậy của
Khổng Tử. Tôi luôn hướng về Ca-tô giáo. Từ nhỏ, tôi thích đọc sách cuộc
đời
những vị thánh, rồi Dostoievski và Kierkegaard đã thấm vào vũ trụ của
tôi, nuôi
nó bằng thực phẩm: tội lỗi, nhục nhã. Tôi luôn bị cuốn hút bởi những kẻ
thần
bí, những lời nói của họ vừa là chịu mình trước Thượng đế, vừa là nổi
loạn
tuyệt đối, sự cuốn hút của họ với chuyện "tự hạ mình" (avilissement).
Tôi đặc biệt yêu thích Thánh Thérèse d'Avila, thái độ, cuộc đời, và
Château
intérieur của ngài. Thánh Goan Thánh Giá (Jean de la Croix) lại quyến
rũ tôi, ở
văn phong. Bây giờ cũng vậy, mỗi lần đi dạo, tôi luôn luôn vô nhà thờ.
Và tôi
thích nghe thánh ca, đặc biệt là Buxtehude.
Bản
dịch cũ, sai, đã sửa, Gấu
dịch "rejoint… " là "nối kết lại với Việt Nam",
"mieux.. que", thì dịch “cũng ngang bằng”!
Hóa ra
là, do GNV này quá
tham, trong khi dịch 1 bài, thì cái đầu lại nghĩ về 1 bài khác, 1
chuyện khác,
1 dự án khác!
Giống như lần dịch 1 bản văn
tiếng Pháp cho talawas, đầy lỗi, SCN phải vứt vô thùng rác, thay bằng 1
bản
dịch khác, của người khác!
Lần đó,
GNV vừa dịch vừa đọc Joseph
Roth!
Cái đầu chỉ nghĩ tới Hành Khúc
Radetzky, của Joseph Roth.
Khủng
nhất, là lần đi thi Tú
Tài 2, khoá đầu, rớt, vì quá mê cờ tướng, trong đầu chỉ thấy mấy con cờ
nhẩy
múa, này, đúng ra phải đi nước này... không làm sao tập trung vào bài
thi được!
Đây
cũng là do phách lối nữa!
Thường,
GNV tưởng tượng, ta
là 1 đại cao thủ, chơi mấy cuộc cờ, cùng 1 lúc, đụng mấy cao thủ, vấn
nạn, nan
đề... cùng lúc!
Đang dịch Linda Lê, thì lại
tấm tắc với 1 cuốn tiểu thuyết, của tay Qiu Xiaolong, Khi Đỏ là Đen,
đang đọc
dở.... đại khái như vậy.
Bạn đọc để ý, trên trang nhất
TV [giao diện] có tới mấy bài viết, đều dở dang!
Cái vụ
anh Tây mũi tẹt này,
không làm sao hiểu được mấy từ đơn giản Tình Yêu Trái Phá, của TCS,
đúng là do
anh ta bỏ chạy, bợ đít hay không bợ đít VC, mà ra.
Đây là do kinh nghiệm riêng
của GNV mà ngộ ra điều trên, không phải buộc tội ẩu tả.
Hưỡn hưỡn, Gấu kể tiếp!
Tình yêu như trái phá, con
tim mù lòa
Cái vụ
dịch dọt này, đang ì
xèo trên Da Màu, Gấu nhớ là cũng đã có 1 lúc, ngứa ngáy, nói leo, như
thế này:
Câu hát của ông nhạc sĩ họ
Trịnh này, chỉ là để nói về một cái chân lý cũ rích, con tim mù lòa nó
có lý do
mù lòa của riêng nó, người không mù lòa không làm sao hiểu được, nhưng
được nói
bằng cái ngôn ngữ của thời của ông, tức là thời của trái phá, của lựu
đạn, của
pháo kích…. Mấy anh chết rét bỏ chạy
cuộc chiến, có biết gì về trái phá đâu, mà cũng chê bai, dịch sai!
Cũng vậy, là 1 anh trong số
này, chẳng thể nào phân biệt được pháo kích và oanh kích nó đau đớn
khác nhau
ra làm sao.
Tất nhiên
Cái tay
TTD, này, GNV thời
gian tập tành đọc sách Tây, và tất
nhiên, đọc
Camus, thấy ông ta dịch Camus, phục quá đỗi. Nhưng về già, mới hiểu ra
mấy đấng
này, trong có đấng DT, bạn hiền của GNV, chẳng hiểu tí chó nào về Camus!
Nói rõ hơn, mấy cha này, lành
lặn, không 1 tí thương tật, thiếu 1 ngày lính, cho nên đếch đọc được
bất cứ cái
gì, nói gì Camus!
Và mới vỡ ra mấy giai thoại,
đọc từ hồi lớp đồng ấu, trong quốc văn giáo khoa thư.
Thứ nhất, là cái chuyện anh
nhà quê đi mua kính, vì nghĩ, cứ đeo cái kính vô, là đọc được chữ!
Thứ nhì, là từ Khổng Tử.
Ông này phán, mỗi lần bạn
tính đọc sách là phải chay tịnh, không gần… đàn bà ít lắm là 1 tuần lễ,
cho cái
tâm nó sạch, nó sáng ra thì mới đọc sách thánh hiền được!
Hà, hà!
Trong
câu phán của Adorno, có
ý trên, như là một hệ quả:
Sau Lò
Thiêu, sau Lò Cải Tạo, chưa được nếm mùi trái phá, cả lương tâm lẫn
thân thể vẫn còn zin, thì thật
là dã man, khi bàn về những nhà văn như Camus!
Chính
là do nỗi lo sợ từ bỏ
thế kỷ không một tí thương tật, mà nhà văn Gunter Grass phải thành thực
khai
báo trước Đảng, thân thể tôi có 1 vết chàm, do hồi nhỏ hung hăng con bọ
xít,
nhỏ máu ngón tay, viết đơn xin vô lực lượng SS.
Cả cuộc viết của Steiner, là
từ vết chàm: lẽ ra phải có mặt tại Lò Thiêu.
Cái
chuyện sợ chết bỏ chạy,
theo VC, trước 1975, thì hiểu được. GNV này cũng đòi phen, tính chuồn.
Nhưng
quái đản, ở lũ khốn này, là thái độ của chúng, vẫn viết, như chưa từng
có gì
xẩy ra!
Ngay ở
đám VC chính hiệu,
trước tình hình nước Mít bây giờ, chúng cũng phải tự vấn lương tâm, và
tìm hiểu
coi có cái gì sai trái, và nó bắt đầu từ lúc nào. Tất cả tác phẩm của
Miền Bắc
gần đây, là chủ yếu xoáy vào vấn nạn trên, từ đám già như Tô Hoài, như
Nguyễn
Khải… cho đến đám trẻ sau đó, như Vương Trí Nhàn, và sau đó, như Võ Thị
Hảo, và
sau nữa, như Thuận, vậy mà đám khốn kiếp nằm vùng, hay bỏ chạy, vẫn
tỉnh bơ,
vẫn viết như chẳng có gì xẩy ra, vẫn tiếp tục viết, chẳng hề có chuyện
ngưng
nghỉ, rồi lại bắt đầu viết trở lại!
Một đất
nước như hiện nay, có
bao phần đóng góp của đám nằm vùng, chúng tỉnh bơ, phủi tay, không có
chúng tớ!
Chúng vẫn viết, như thể lương tâm trắng bóc! Đọc cái bài viết mới của
DT, về
Thảo Trường, những gì lấn cấn, là ông cho vô ngoặc, “ngoài đề”
(Khi
một lý tưởng thất bại
thì biến thành ảo tưởng. Nhưng cũng có khi chiến thắng hóa lý tưởng
thành ảo
tưởng: ngoài đề.)
(Có kẻ
không muốn chen chân
vào hào quang của người chiến thắng, thì nấp vào bóng mát của cây lọng
người
quân tử sa cơ: ngoài đề.)
Ngoài
đề, tuyệt! (1)
Thế thì
DT, ở trong hay ở
ngoài, đề?
(1) Cái
tay điểm sách Primo Levi,
trên NYRB cũng có ý này, khi gọi thời gian Levi ở Lò Thiêu là "ngoài
thời"... (2)
(2)
… vì những
ngày
tháng lang thang vùng Đông Đức của Levi là một "ngoài-thời" (a kind
of "time out"), giữa Auschwitz-như-kinh nghiệm và Auschwitz-như-hồi
nhớ. Cuốn sách khép lại với tiếng kẻng báo thức, đúng ra là tiếng hô
buổi sáng
của trưởng trại Auschwitz: Thức dậy!
(Wstawach!).
...
một người diễu cợt (ironist) và hài hước
(humorist) đã đi đi lại - như là một cách chơi - qua những nấc thang âm
thanh,
đề tài, giọng điệu... Primo Levi được trình bầy ở đây: như là một con
người lạc
quan, một Do-thái đã hội nhập vào một người Ý trong cơn đọa đầy ở Auschwitz. Có thể so sánh với Dante, bằng cách
diễn tả
Ulysses - một hình tượng văn chương mà Levi ưa thích, và cũng là một
hóa thân
của ông - như một người lính già trên đường qui cố hương kể lại một vài
vấn đề
khi rong chơi nơi Lò Thiêu
Nguồn
Camus
không dễ đọc. Ngay nhà
thơ ông anh của Gấu mà đọc không nổi Camus, nữa là, ấy là vì, khi đó,
ông vẫn còn
tin vào một ‘nghĩa cả’ nào đó, và không làm sao chấp nhận cái thái độ
đứng ở lưng
chừng trời của Camus, và ông phán, thật ác liệt, cái chết phi lý của
Camus, đã
nhốt chặt ông ta vào dĩ vãng.
Nhưng
chỉ đến tháng 3 1975,
trong lần nói về thơ Vũ Hoàng Chương, và có thể lần cuối cùng nói về
thơ, tại một
Miền Nam
tự do, TTT mới có lời nói lại về trường hợp Camus, khi vinh danh thơ:
Làm thơ. Làm thơ
hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người
vào cõi
phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là
đời chúng
ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống
một đêm
nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận
tụy với
một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái
“không thể
làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không
làm được
mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng
là tự
nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng
Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm
Hoa Đăng
đèn xanh bóng trăng” từ
“Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi
quán” đến
Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một
phương,” đến
Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng
Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng ta trong
giây phút
này có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang
biết -
biết gì? - biết Vũ Hoàng
Chương
đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách
nói
thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì
mới biết
được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời?
Ai
biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết.
Thay nhau
nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng
ta cần
nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
Còn Vargas LLosa, ông này cũng không chịu nổi Camus, cho tới khi ông
đụng đầu
khủng bố, khi ra tranh cử tổng thống....
Hai
mươi năm trước đây, Albert Camus là một tác giả thời thượng; những kịch
phẩm, tiểu luận và tiểu thuyết của ông giúp những người trẻ tuổi, sống.
Vào lúc đó, bị ảnh hưởng Sartre, say mê những tư tưởng của ông ta, tôi
đọc Camus mới ngán ngẩm làm sao, và nhiều khi còn bực bội về cái gọi là
chất trữ tình làm ra vẻ trí thức của ông!
Sau đó, khi tác phẩm di cảo của ông, Sổ Ghi [Notebooks], được
xb, vào năm 1962 và 1964, tôi bèn đi vài đường tạp ghi, bằng một giọng
văn tầm phào, bố lếu bố láo, phiến diện, tôi chụp cho cái xác của ông
một cái nón mầu ‘xám chưa đủ xám’[a ‘premature greyness’]. Dựa vào thái
độ của ông trước thảm kịch Algeria - một vị trí mà tôi thật sự chẳng
hiểu cái chó gì, hò theo những kẻ thù, đối thủ của ông, không chịu đọc
thẳng ông, tôi tự cho phép mình vẽ ra một hình ảnh tiếu lâm về ông, một
kẻ công chính, một ông bình vôi, the lay saint, mà những đệ tử của ông
để lên bệ thờ và cứ thế xì xụp!
Tôi đếch thèm đọc ông, cho mãi tới mấy tháng trước đây, may mắn làm
sao, trong khi theo dõi một vụ khủng bố tấn công ở Lima [ở Sài Gòn, do tay khủng bố VC
nằm vùng DH, cũng một đệ tử của ông, thực hiện! Hà, hà!]… . tôi lại mở
ra Kẻ Nổi Loạn, một tiểu luận của ông về bạo động trong lịch sử
mà tôi đã quên mẹ nó từ lâu (hay, chẳng bao giờ hiểu được).
Ui chao, đúng là một mặc khải.
Cú tìm tòi, nghiên cứu của ông về những nguồn gốc triết học của khủng
bố, món quà quí báu [đặc sản Nam Bộ của đám VC nằm vùng đem đến cho dân
Miền Nam, trong có Gấu, đã từng xơi hai trái mìn cờ lê mo của DH hoặc
bạn của ông!] của lịch sử đương thời, làm cho tôi kinh ngạc đến mất hết
cả hồn vía, vì cái sự sáng suốt, cái sự xác đáng nóng bỏng của nó, cùng
với nó là những câu trả lời cho những hồ nghi và sợ hãi mà tôi cảm
thấy, về thực tại đất nước tôi. Tôi sướng điên lên, khi khám phá ra
rằng, một số những nan đề về chính trị, lịch sử và văn hóa, của riêng
tôi, sau bao nhiêu lần vấp ngã, sa sẩy, té lên té xuống, sau cùng đã đi
đến những kết luận, những giải đáp y chang của ông Camus!
Trong mấy tháng sau đó, do tôi cứ thế đọc đi đọc lại ông, sau bao bất
đồng không thể tránh khỏi, cuối cùng tôi thấm đòn, gật gà gật gù chịu
ông, và biết ơn ông.
Sau đây, tôi sẽ đi vài đường, về cái hình ảnh mới mẻ mà tôi nhìn ra ở
nơi ông.