*





Thu, 2010

*

Thu hàng xóm
26.10.1010



Ghi chú trong ngày
26.10.2010

Một cái chết rất ngoạn mục.

… no life is lived for the sake of an obituary.
Brodsky.

It is as if God had been defeated
Gide

Gửi SCN, thay cho một lời ai điếu! GNV

Note: Sống chẳng làm được cái chó gì.
Chết, sao lắm người đi đưa đám thế!
Và, có vẻ như ai cũng bực, muốn nói huỵch toẹt, như trên, nhưng vì lịch sự, đành bỏ qua, “nghĩa tử là nghĩa tận”!
Ô hô, ‘ta la ma’, ai  tai!
Thượng hưởng!
*

sonata said...

Có một chi tiết thú vị bạn Tư à, là cái rau nhúc. Rau này hình như đi từ Bắc vô, ngoài Bắc kêu bằng rau rút (vì nó có lớp bấc bao bên ngoài cọng rau, khi lặt mình rút lớp bấc đó đi) rồi vô tới mình nó trại sao đó thành rau nhút, xuống miệt dưới nó thành rau nhúc, mà kêu rau nhúc nghe ngon hơn há, nghe mềm ...

sau rieng said...

@Chị So : Thấy ngừi ta viết sai chính tả lòi mà còn giả đò bâng quơ :-)  

Note: Hồi nảo hồi nào, GNV cũng bị ám ảnh bởi cái từ 'rau nhúc' này!
Không chỉ ‘rau nhúc’, mà còn 'gà nhúc' [xuơng]…

'Gà nhúc', biến thái, mới ghê!
Những ai đã từng sống ở trại tị nạn Thái Lan, hẳn còn nhớ từ 'gà mìn'. Gà rút hết thịt, 'cái còn lại' được đem vô trại bán cho đám tị nạn, và họ gọi là ‘gà mìn’, gà trúng mìn, thịt văng hết, còn trơ bộ xương, ninh lấy nước ngọt nấu canh…
*

Nhân tiện, dù không được mời, GNVcũng thử đưa ra 3 câu trả lời, cho 3 câu hỏi trước khi chết còn ca vọng cổ của talawas.
1. Theo anh, 5 vấn đề hệ trọng nhất của Việt Nam hiện nay là gì?
2. Nếu được cầm quyền tuyệt đối tại Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, anh sẽ làm gì?
3. Hình dung của anh về Việt Nam năm 2010, 2020 và 2030. 

Hai câu hỏi sau là giả tưởng. Để trả lời, xin mượn câu của Arendt. (1)

Câu thứ nhất: 5, hay 10 vấn đề, 100 vấn đề quan trọng của VN, theo GNV là: thay đổi chế độ, thay đổi chế độ, thay đổi chế độ, thay đổi chế độ, thay đổi chế độ…. 

Câu trả lời này được gợi hứng từ 1 phim, về 1 thằng cu tí gác thang máy một đại khách sạn, [hình như tên tiếng Tây là Le petit garcon de l’ascenceur GNV coi từ hồi còn con nít], chuyên đưa khách VIP lên căn phòng Nhất Dạ Đế Vương của khách sạn, và nó chỉ mơ có ngày được ngự ở đó 1 lần.
Thế rồi khách sạn mở ra cuộc thi đố, đề tài 'ngàn năm khách sạn ta', mọi người đều được dự thí, với 1 câu trả lời, ai trả lời hay nhất, thì được ngự ‘free’ trong căn phòng NDDV, 1 đêm.
Thằng bé trúng giải. Chủ khách sạn chán quá, 1 thằng hầu mà ngự NDDV ư? Bèn gạ chú bé, như phú ông trong câu chuyện thằng bờm có cái quạt mo, cháu cầm tí tiền nhé. Thằng bé lắc đầu, ông chủ dỗ thế nào cũng không được, bèn phế câu trả lời hay nhất, của thằng bé, lấy câu trả lời thứ nhì.
Câu thứ nhì, hoá ra cũng của thằng bé.
Rồi câu thứ ba, hay nhất, cũng của nó.
Thế là sau cùng đành phải cho thằng bé vô thiên đường nhất dạ đế vương. 

Cứ giả như GNV trả lời hay nhất, thì có được như thằng bé này không, nhỉ?
Ui chao, chỉ nội nghĩ thế thôi mà cũng đủ lãng quên đời rùi! (2)

(2) Biết rằng, mất talawas, thì sẽ có những diễn đàn khác thay vào. Các tác giả gởi bài sẽ chuyển qua những website khác. Nhưng tại sao lại buồn. Buồn nghẹn, như kể từ nay, không còn thấy một người tình nhân trong thế giới ảo ấy nữa.
New Jersey 22-10-2010
Trần Hoài Thư

(1) Salvation or Ruin?
Cứu Rỗi hay Điêu Tàn? 

Trong một xã hội tan rã, một khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa là điều không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không phải điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ, chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải điêu tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người. 

[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation, trong Essays in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a dissolving society which blindly follows the natural course of ruin, catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes unexpectedly, for salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men]. 

Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và ý chí của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có cứu chuộc được.
NQT
Nội Cỏ Của Thiên Đường

Trong bài viết Don Quixote, in trong A Reading Diary, Manguel trích dẫn một câu của Gide, nói về cú Gandhi bị ám sát:

“Như thể Thượng Đế bị đánh bại” [“It is as if God had been defeated"]

Ui chao, cái cú Talawas "tự làm thịt mình" (1) phải chăng cũng rứa, đối với dân Mít:
Như thể Thượng Đế bị đánh bại, và Quỉ Đỏ đoạt ghế của Người!

(1) Linda Lê, trong bài trả lời phỏng vấn, “J'aime que les livres soient des brasiers", dùng từ "s'abolir", [Il faut coûte que coûte parvenir à ne pas s'abolir ni à être dans le ressentiment]. Kim Dung dùng từ "tự hoang phế mình", nôm na là "vung dao tự thiến”, để trở thành đệ nhất cao thủ!

Hay nói theo nhà thơ lớn, giải thưởng lớn, Hoàng Hưng, talawas đã là lịch sử (1), mà đã là lịch sử như vậy thì ngỏm là vừa rồi.
Công thành thân thoái mà!
Theo Thánh Gióng về Giời vui thú điền viên!

(1) "Đã là lịch sử" theo nghĩa nhà phê bình DT viết, trong bài về Thảo Trường trên talawas: Lịch sử là cái thùng rác?

Hay theo nghĩa, ngay ở dưới đây, trong bài viết về chàng Monty Cliff:
Danh vọng của talawas sẽ còn dài dài và sẽ sống dai hơn là sự thành công của nữ văn sĩ...  SCN?
Mô phỏng câu: The sad joke of his career was that his fame outlived his success; after Red River, he couldn't even be anonymous in failure:
Sau cú tự làm thịt, talawas sẽ chẳng thể nào vô danh được nữa, ngay cả ở trong sự thất bại của nó!
Ác liệt, khốc liệt thật!

Cái tít “mất trong cái đẹp’, ‘lost in beauty’ của bài viết, cũng thật hợp với trường hợp talawas, nếu chúng ta đọc những lời ai điếu vinh danh cả hai, talawas và SCN.
*

Clark Gable phán về Monty Cliff, "thằng gay này quả đúng là 1 đại tài tử"! ['that faggot is a hell of an actor.']

Tuyệt. Ui chao làm sao quên nổi Cliff trong “Khi còn đàn ông trên cõi đời này” [From here to Eternity: Từ Đây Tới Thiên Thu. Cái tên tiếng Việt của nó, là từ tên tiếng Tây, "Tant qu'il y aura des hommes“], "Một chỗ dưới ánh mặt trời”, A Place in the Sun, đóng chung với em Liz Taylor. Misfits, Suddenly Last Summer, Reflections in a Golden Eye… đa số đều là chuyển thể, từ tiểu thuyết hay kịch, và đều thành công.

Ui chao giá mà talawas cũng để lại một di sản như thế nhỉ?
Có đấy, và là mớ văn học Miền Nam được talawas sưu tầm!
Ui chao, chẳng thấy 1 mống nào vinh danh cái phần ‘a hell of talawas' này cả!
Đúng là cả 1 lũ Bắc Kít: ‘vơ về’ thế là thành của chúng ông!


Thơ mỗi ngày


Tưởng nhớ Thảo Trường

Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền.

[Ghi chép 4]
Thảo Trường

        Vào những năm 1958-1961 tôi sống ở Huế. Từ thành phố tới chỗ tôi ở phải “qua một chiếc cầu lên một cái dốc”, căn nhà khoảng giữa Chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao, nơi đó, đêm đêm tôi viết những truyện ngắn, gửi cho ông Mai Thảo đăng trên tạp chí Sáng Tạo. Cũng vì có liên hệ như thế nên mỗi khi vào Sàigòn, tôi thường lui tới tòa soạn Sáng Tạo số 29 đường Ký Con, Quận 1,  ở đó tôi có dịp gặp các vị trong bộ biên tập do ông Mai Thảo giới thiệu như: Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Doãn Quốc Sĩ, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Quách Thoại, Tô Thùy Yên và… Thanh Tâm Tuyền.
Trong bản tuyên ngôn “Văn nghệ là vận động biện chứng của hủy diệt và sáng tạo” của nhóm Sáng Tạo đưa ra chủ trương “Phủ nhận văn nghệ tiền chiến”, thì tôi nghĩ là không thể phủ nhận được, vì “văn nghệ tiền chiến” có vai trò và sứ mệnh đã hoàn thành của thời kỳ đó. Giá trị của “văn nghệ tiền chiến” đã ghi lại trong văn học sử Việt Nam. Chính thể cộng sản ở miền Bắc cũng đã từng có chủ trương xóa bỏ những giá trị “văn nghệ tiền chiến” nhưng họ đã không làm nổi, thì há gì nhóm Sáng Tạo là những người đã từ bỏ cái chính thể lầm lẫn đó di cư vào Miền Nam lại chủ trương “phủ nhận”?
Nhưng đối với tôi, các vị ấy đều đã để lại trong tôi những dấu ấn đặc biệt, bằng họa phẩm, thơ, truyện ngắn, tùy bút, hay biên khảo…
Thí dụ như: “Quán Cháo Lú” của Vũ Khắc Khoan, “Hạt Ba Dăng Của Niêm” của Mai Trung Tĩnh, “Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống” của Dương Nghiễm Mậu, “Cánh Đồng, Con Ngựa, Chuyến Tầu” của Tô Thùy Yên, “Dòng Sông Định Mệnh” của Doãn Quốc Sĩ, “Trắng Chiều” của Nguyễn Sĩ Tế, kịch bản “Bão Thời Đại” của Trần Lê Nguyễn… v…v… nhiều lắm.
Những thơ văn của các vị ấy đã kích thích tôi trong công việc sáng tác. Đọc những tác phẩm của họ tôi bèn muốn viết một cái gì đó của tôi.
Riêng với Thanh Tâm Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc được, đã trụ lại trong tôi suốt từ bấy đến nay. Biến cố bi thảm ở Budapest năm 1956 mà truyền thông khắp thế giới đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất mạnh mẽ, thì nhà thơ của chúng ta đã chỉ dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc đàn áp dã man tàn nhẫn đó. Mấy câu thơ giản dị đã gây xúc động và còn lại mãi trong lòng người thưởng ngoạn. Xin đừng hỏi tôi bài thơ ấy hay ở chỗ nào. Chịu. Xin chịu. Tôi không có may mắn được đào tạo về những lý sự thế nào là hay thế nào là không hay và điều đó cũng đã thành thói quen trong tôi. Cho nên tôi chỉ cần thấy được cái nào hay là đủ. Rồi về sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở nhà tù) tôi đã gặp nhiều người cũng rất thích bài thơ đó. Có ai đó đọc lên một câu liền có người khác phụ họa theo, chứng tỏ bài thơ rất phổ biến.

“Hãy cho tôi khóc bằng mắt em,
Những cuộc tình duyên Budapest

Hãy cho tôi chết bằng da em,
Dưới dây xích chiến xa tội nghiệp…”

Tôi chợt nhớ tới bài khóc Xít ta lin. Người nghệ sĩ tự do chân chính khóc cho tình yêu bị thảm tử vì bạo lực đàn áp. Kẻ mưu đồ chính trị vật vã khóc tên đồ tể. Một bên “Hãy cho tôi khóc bằng mắt em, những cuộc tình duyên Budapest…”. Một đằng “Hỡi ôi! ông mất có trời đất không, thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười! Ông Xít ta lin ơi!...”
Sau này tôi có dịp gặp Thanh Tâm Tuyền thường xuyên ở nhật báo Tiền Tuyến. Hồi đó tôi đã chuyển về Saigon, có viết truyện dài “Bà Phi” và thỉnh thoảng “đi” một bài tạp ghi cho Ký giả Lô Răng. Thanh Tâm Tuyền cũng từ một đơn vị bộ binh chuyển về làm trong ban biên tập. Có một lúc Phan Lạc Phúc phải đi học tham mưu gì đó, Thanh Tâm Tuyền phải lãnh thêm cái mục tạp ghi và mỗi ngày ông phải “cầy” thêm một bài báo nữa, và tôi cũng lai rai mỗi tuần “đi” đỡ cho ông một quả. Ký giả Ba Tê [TTT] thay cho Ký giả Lô Răng. Dưới bài tôi viết, ông Ba Tê nói đùa, sao không ghi là “Hai Tê” [TT]. Nhưng tôi vẫn giữ cái bút hiệu Cơ Hảo đã dùng quen bên tuần báo Diều Hâu mục “Một Tuần Sấp Ngửa”.
Chữ  “sấp ngửa” cũng do Thanh Tâm Tuyền gợi ý cho tôi đặt tên mục phiếm luận này.
Chúng tôi gặp lại nhau trong trại tù rừng núi Âu Lâu, Yên Bái. Tôi từ trong Nam chuyển ra bằng tầu thủy, bằng xe lửa và xe vận tải mất gần mười ngày, đến trại ban đêm, sáng ra có họa sĩ Nguyễn Thuyên đến dẫn tôi sang lán kế bên gặp Thanh Tâm Tuyền. Chúng tôi cười xòa tập hút thuốc lào và tán gẫu chuyện đời. Thanh Tâm Tuyền  cho tôi một ít thuốc ký ninh chống sốt rét và căn dặn tôi phải hết sức phòng bệnh: muỗi rừng và nước độc! Trong khi ấy họa sĩ Nguyễn Thuyên lấy giấy và bút chì vẽ luôn cho tôi mấy bức chân dung ngay khi tôi ngồi trên sạp nứa chỗ ngủ của Thanh Tâm Tuyền.
Những bức vẽ này tôi đã cất giấu và sau đó tôi đã chuyền cho chị ruột tôi lên thăm đem về chuyển cho gia đình tôi ở Mỹ (đã in trong tập truyện Tiếng Cim Hót Trong Bụi Tre Gai).
Mấy năm sau ở Vĩnh Phú, nhưng mỗi người mỗi trại giam khác nhau, chỉ thỉnh thoảng có tin tức nhau qua những bạn tù. Tôi nhận được mấy câu thơ của Thanh Tâm Tuyền vịnh củ sắn sống. Thời gian này tù binh bị bỏ đói, sức tàn lực kiệt, nhiều anh em đã bị chết, chôn kín cả sườn đồi gần trại, cho nên có khi kiếm được củ sắn sống tù binh cũng dấu đi ăn cho dạ dày bớt thèm thuồng.
Lạ lắm, củ sắn bóc lớp vỏ ngoài để lộ ra một thân hình tròn lẳn, trắng tinh, trắng muốt, trắng như không có gì trắng thế, mịn như không có gì mịn thế, xinh đẹp như không có gì xinh đẹp thế, gợi cảm như không có gì gợi cảm thế, hấp dẫn như không có gì từng hấp dẫn đến thế… Nhưng sắn sống có nhiều độc tố, bập vào là say. Trắng trẻo, xinh đẹp, nõn nà… dễ làm cho anh hùng gục ngã! Loại sắn vỏ màu hồng nhạt (gọi là sắn tầu) thì còn có thể nhưng phải ngâm nước rồi luộc kỹ thải chất độc ra mới có thể ăn được, nhưng loại sắn kỹ nghệ vỏ trắng (chắc là sắn…mỹ) thì tuyệt đối không ăn được.
Say sắn cũng lắm chuyện kinh hoàng. Ăn vào chỉ ít phút sau là ói mửa ra “mật xanh mật vàng”, tiêu chảy, người sẽ gầy rộc đi, mắt sâu hoắm. Cũng không đến nỗi chết ngay, nhưng từ đó mất sức dễ bị các chứng bệnh hiểm nghèo. Tôi đã thấy một ông trung tá liên đoàn trưởng biệt động quân, cùng khóa 6 sĩ quan trừ bị với tôi đã bỏ mình vì say sắn ở K1 Vĩnh Phú.
Núi rừng Việt Bắc còn có nấm độc, trái vải guốc, cũng gây ngộ độc chết người. Ăn nhầm mấy thứ này người ta thường vặt một nắm lá nhớt như lá khoai lang bỏ miệng nhai nuốt tí nước cho buồn nôn tống ra hết những thứ trong dạ dày để giảm thiểu chất độc trong người.
Củ sắn ghê gớm. Nó bao vây trùng trùng điệp điệp các trại tù. Nó chất chứa trong các kho nhà bếp dưới dạng sắn sống, sắn khô (còn gọi là sắn nút chai), sắn “dui” (không rõ ý nghĩa cái tên này). Nó bám trụ trong bao tử, trong cơ thể tù binh. Không ăn nó thì đói, nuốt nó vào thực quản nóng ran và dưới hai màng tang mỗi tù binh nổi lên hai cục trông như hai cái bứu nhỏ, hai cái bứu này chỉ mất đi sau cả tháng không ăn sắn nữa. Hàng triệu tù binh miền nam, kẻ nào lỡ sống sót sau tù đày, ít ra cũng phải hội nhập chung vào với cả một thế hệ còi cọc miền bắc, để công cuộc thống nhất đất nước mang trọn vẹn ý nghĩa của nó! Trước cái đói ngơ ngác chết người đang đe dọa và hình tượng củ sắn chiến lược xã hội chủ nghĩa “vĩ mô” như thế, nhưng thi sĩ của chúng ta vẫn bình thản mô tả nó một cách lạnh lùng, có pha chút lãng mạn bỡn cợt:

“Thoát xiêm y, trắng nõn nà,
Lửa lòng bốc cháy ai mà chẳng say”…

*
Năm 1993 tôi tới Mỹ, Thanh Tâm Tuyền từ Minnesota gửi tặng tôi tập thơ “Thơ Ở Đâu Xa”, chúng tôi có vài lần nói chuyện với nhau qua điện thoại, và mỗi khi in được một tập truyện tôi cũng đều gửi tặng Thanh Tâm Tuyền, nhưng suốt mười mấy năm nay chúng tôi chưa được gặp lại nhau lần nào. Nay nghe tin nhà thơ đã ra đi, cũng chẳng phải bất ngờ vì đó là điều tất nhiên cho tất cả mọi người, vả lại chúng tôi cũng đã thất thập, Thanh Tâm Tuyền còn lớn hơn tôi 1 tuổi, nhưng tin nhà thơ mà mình quí trọng đã vĩnh viễn từ giã cõi đời cũng làm cho tôi ngậm ngùi khôn tả.
Thanh Tâm Tuyền là người điềm đạm, trầm ngâm, ít nói, khi nói thì nói chậm rãi. Tôi và ông chưa hề bao giờ “mày tao”, chỉ đôi lần vui chuyện ông dùng chữ “cậu cậu tớ tớ” là đã thân thiết lắm rồi. Khi nói chuyện cũng như khi viết, Thanh Tâm Tuyền dùng chữ rất chuẩn xác. Tôi chưa thấy bao giờ ông hô hoán hay dùng những chữ kích động, nhưng cách nói bình thản của ông lại đem đến những hình ảnh gợi cảm.
Thơ văn của Thanh Tâm Tuyền đã xuất bản phổ biến, nhưng hình như câu thơ vịnh củ sắn thì tôi chưa thấy in trong tác phẩm nào của ông.
Tôi nghĩ chế độ cộng sản chỉ giam giữ và bỏ đói được ông đại úy Dzư văn Tâm, họ không, và không bao giờ, bỏ tù được thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Thi sĩ đã nhìn củ sắn độc trồng lền khên khắp núi đồi xung quanh trại giam bằng cái nhìn của ca dao, bằng cái nhìn của thi ca, bằng cái nhìn riêng của thi sĩ, mà không anh cai tù cộng sản nào nhìn thấy được. Cộng sản ở Liên Xô, cộng sản ở Budapest, cộng sản ở Âu lâu - Vĩnh phú, hay cộng sản ở bộ chính trị…  chẳng thể làm gì được thi sĩ .
Họ cũng không được phép xách dép cho nhà thơ tự do.
Vậy. Hôm nay. Chúng ta họp mặt ở đây để tỏ lòng quí trọng  thi sĩ của chúng ta                                                                                

Thảo Trường
*

Bài của Thảo Trường về TTT có chi tiết sai: "Quán cháo lú" là truyện của Lê Văn Siêu in trên ST số 1, chứ không phải của Vũ Khắc Khoan.
NL .
Tks.
TT/NQT
*
Ngoài ông Đặng Tiến, có chị Thụy Khuê đã viết về "Cấu trúc thơ Thanh Tâm Tuyền", nhưng những ý tưởng cuả GNV thì khác hai người trên, ông nói về chất "nam tính", những "dự cảm" tai ương hay "báo bão" cho một sự sụp đổ... rất hay và rất đúng (theo cách nhìn của … [tôi]. Cũng như có độc giả đã cho rằng họ cảm ra được cái dự cảm, báo bão cho một toàn cầu hoá trong "Amers" của St. John Perse. Đó không chỉ là tài hoa văn chương, mà còn là cái tầm nhìn, cái mũi của loài... "cô độc" (chẳng biết dùng từ gì, nên tôi phang đại vậy), như Xuân Diệu "nghếch mũi lên trên trăm triệu năm / thở lại những mùa xuân cũ" chơi, những khi ông ta quá oải (tôi đoán mò vậy)…
[...]
Sau này, khi có ai học thơ TTT, muốn trích dẫn ông, họ không có nguồn để dẫn. Sách là nguồn dẫn, không ai lại nói "theo ông GNV ở trang web Tin Văn (nay đã không còn), Thanh Tâm Tuyền là một cánh chim báo bão", ví dụ.
*

Tks. NQT

Primo Levi trả lời tờ Partisan Review, 1987

 What If?



Simone Weil: The War and Iliad

Tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
 Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.
 Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
 Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá khứ”?

Sự Câm Lặng



Một chủ nhật khác

Lần trước còn học trong Thủ Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức giấc lúc trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như những bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài đường. Trên phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc. Kiệt đứng trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.


The Nobel Prize in Literature 2010

Landscape of Violence
Orhan Pamuk

Liệu có thứ kêu là văn chương Thế Giới Thứ Ba? Liệu có thể sắp xếp cho ra, establish – mà không sợ biến thành trò tầm phào, hay nâng bi miệt vườn, đặc sản, parochialism - những đức tính, đạo hạnh cơ bản của những xứ sở mà chúng ta gọi là Thế Giới Thứ Ba?

Literature and Exile
Văn chương và Lưu vong

Note: Bài viết trên giải thích, phần nào, thái độ của một số độc giả Mít, đối với những nhà văn lưu vong, mà lại viết bằng 1 thứ tiếng không phải tiếng Mít như Linda Lê.

Họ khư khư ôm lấy chân lý, nhà văn Mít thì phải viết bằng tiếng Mít, và dù sống ở đâu, thì cũng phải khư khư ôm lấy hình ảnh quê hương Mít!

Đây là tâm lý phát sinh từ chủ nghĩa quốc gia cực đoan, theo GNV. Khi được Nobel, Llosa phát biểu, Gấu nhớ đại khái, bây giờ tôi trở thành nhà văn của tất cả mọi quốc gia rồi!

Witness of Poetry

Linda Lê : “J'aime que les livres soient des brasiers"

Bà cảm thấy thế nào khi sống tại nước Pháp hiện nay?

Tôi gần như luôn luôn cảm thấy mình sống trong tình trạng lưu vong. Tôi tin rằng mặc dù sống ở Pháp đã lâu vậy mà tôi chưa bao giờ nói: đây là xứ sở của tôi. Nhưng tôi cũng không nói Việt Nam là xứ sở của tôi. Tôi coi tiếng Pháp là tình yêu sâu đậm của mình. Đó là cái neo độc nhất cắm vào thực tại mà tôi luôn thấy, thật hung bạo, Tôi rất lo ngại về sự bùng phát của một thứ chủ nghĩa quốc gia dữ dằn ở Âu Châu. Tôi có cảm tưởng Âu Châu ngày càng trở nên lạnh nhạt, và càng ngày càng bớt bao dung. Có lẽ chúng ta đang ở trong một thời hòa bình chỉ ở ngoài mặt, có vẻ như hòa bình, những cuộc xung đột ngầm chỉ chờ dịp để bùng nổ, tôi sống trong sợ hãi một cú bộc phát lớn. 

Trong Cronos, bà đưa ra một lời kêu gọi, về một sự phản kháng. Phản kháng như thế nào, theo một hình thức nào, vào lúc này, theo bà?

Đó là thứ tình cảm bực tức, muốn làm một cái gì đó, muốn nổi loạn, khi tôi theo dõi những biến động, Đôi khi tôi cảm thấy gần như ở trong tình trạng bị chúng trấn áp đến nghẹt thở. Tới mức có lúc tôi ngưng không đọc báo hàng ngày, không nghe tin tức trên đài nữa. Như nữ nhân vật Cronos, tôi thỉnh thoảng ở trong tình trạng cảm thấy mình bị cự tuyệt, bị sự chối từ cám dỗ…. Như nữ nhân vật này, tôi chỉ có thể chiến đấu bằng ngòi bút. Có thể 1 ngày nào đó những biến động bắt buộc tôi phải hành động khác đi. Nhưng vào lúc này, trong xã hội mà tôi sống trong đó, khí giới độc nhất của tôi là viết.

Dù có thể chẳng được hồi đáp

Tôi luôn viết với thứ tình cảm là tôi có thể giảng đạo ở giữa sa mạc. Nhưng điều đó không đánh gục tôi. Ngược lại. Một cách nào đó, vậy mà lại hay. Đừng bao giờ cảm thấy mình viết ra là được chấp nhận. Nếu không bạn sẽ bị ru ngủ bởi sự hài lòng, thoải mái. Bằng mọi cách, cố mà đừng để xẩy ra tình trạng tự hoang phế, hay thương thân trách phận. Tình cảm hài lòng, và oán hận là hai tảng đá ngầm lớn mà tôi cố gắng tránh né.

Những cuốn sách của bà hay nói tới đề tài bị bỏ bùa…  

Đề tài này luôn ám ảnh tôi. Nó đầy rẫy ở trong những tiểu thuyết của Henry James, trong có những phụ nữ bị mồi chài bởi những tên sở khanh. Văn chương tuyệt vời nhất là khi nó mê hoặc, quyến rũ. Tôi mê những nhân vật giống như là một cái mồi, sẵn sàng phơi mình ra để mà được… làm thịt. Bản thân tôi, cũng đã từng bị mê hoặc, hết còn chủ động được, trước một vài người, trong đời tôi, và tôi luôn quan tâm tới điều này.
*

Đây là đề tài ‘ban phát’, thay vì ‘giải phóng’ bà 'Thấm Vân Thấm Dần Thấm Tới Đất' [mô phỏng cái tít “Mưa không ướt đất” của 1 nữ văn sĩ nổi tiếng trước 1975 ở Miền Nam] từng đề cập.
Và một trong những tiểu thuyết thần sầu của Henry James mà LD nhắc tới ở đây là Washington Square. Cuốn này đã được quay thành phim, với nhân vật thần sầu, Monty Cliff, đóng vai anh chàng sở khanh đào mỏ.
Nhân trong nước đang ì xèo về phim Cánh Đồng Bất Tận chuyển thể từ tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư, TV bèn ‘lệch pha’qua nhân vật đàng điếm sở khanh Monty Cliff, một trong những kép độc được mấy em gái thời Gấu mới lớn mê mẩn, không chỉ 1 anh ta, mà còn, nào là Elvis Presley, Gregory Peck, Clark Gable...  tên nào Gấu cũng thù, do hồi đó Gấu mê một em, và thần tượng của em là những đấng trên
Gấu Cái cũng mê Elvis Presley lắm, từng trốn học đi coi phim có anh ta thủ vai chính!

*

Điểm Sách London 7 Oct 2010

MONTGOMERY CLIFT was a lush, a loser and a masochist; for more than 15 years he was also one of the finest actors in America - as Clark Gable put it, 'that faggot is a hell of an actor.' His beauty, his drinking, his homosexuality, his failure and his unaccountable talent have all re-formed themselves as elements of the icon that stands in for Clift, a potent image of the suffering star. Having seen himself in Howard Hawks's Red River (1948), Clift, so the story goes, knew that fame was coming to him, and grabbed the opportunity to get drunk anonymously one last time. In the years of his renown, it could seem as though his aim was to hold on to that anonymity while in the throes of stardom. For all that, he clearly loved the limelight, and in some perverse way tried to turn celebrity into concealment. The sad joke of his career was that his fame outlived his success; after Red River, he couldn't even be anonymous in failure. 

*