|
Thu,
2010
Thu
& Sóc
Thơ mỗi ngày
Độc giả
TV quả là mê thơ!
Trang Thơ Mỗi Ngày hiện nay
Top 10, dù là đàn em!
Để ăn mừng, mời độc giả đọc 3 bài, cùng lúc, theo kiểu ‘thế
chân vạc của thơ’!
Dạ
Vũ Ký Bắc
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì.
Hà đương cộng tiễn tây song
chúc,
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.
Lý Thương Ẩn
Lúc mưa
đêm, làm gửi về bắc
Ngày về
chưa biết bao giờ,
Ba sơn mưa tối, ao thu dâng
đầy.
Bao giờ khêu nến song tây,
Cùng nhau kể chuyện mưa bay
đêm nào?
Trần Trọng San dịch
Giọt mưa trời khóc
CHINESE POEM
I read a Chinese poem
written a thousand years ago.
The author talks about the
rain
that fell all night
on the bamboo roof of his
boat
and the peace that finally
settled in his heart.
Is it just coincidence
that it's November again,
with fog
and a leaden twilight?
Is it just chance
that someone else is living?
Poets attach great importance
to prizes and success
but autumn after autumn
tears leaves from the proud
trees
and if anything remains
it's only the soft murmur of
the rain
in poems
neither happy nor sad.
Only purity can't be seen,
and evening, when both light
and shadow
forget us for a moment,
busily shuffling mysteries.
ADAM ZAGAJEWSKI
Thơ Tầu
Tôi đọc thơ Tầu,
viết từ một ngàn năm trước.
Thi sĩ nói về những giọt mưa
đêm,
rơi trên mái thuyền tre,
và sau cùng đem đến sự bình
an cho trái tim của mình.
Liệu chỉ là tình cờ,
Tháng Chạp lại tới,
với sương mù,
và hoàng hôn nặng nề?
Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở
đâu đó?
Thi sĩ đặt nặng vào giải
thưởng, thành công
nhưng thu này, thu tới
vặt lá ra khỏi đám cây cao
ngạo
và nếu có gì còn lại,
thì chỉ là tiếng thầm thì của
mưa
trong những bài thơ
chẳng hạnh phúc, mà cũng
chẳng buồn bã.
Chỉ có sự tinh khiết là không
thể nhìn thấy
Và buổi chiều, khi cả hai,
ánh sáng và bóng tối,
đều quên chúng ta trong
thoáng chốc
vì bận bịu trao đổi những
điều bí ẩn
Liệu chỉ là nhân duyên
Một người nào đang sống, ở
đâu đó?
Tuyệt!
Đúng ‘air’ Lý Thương Ẩn:
Gặp đã khó, xa nhau càng khó;
có nhau trên đời, chưa từng gặp nhau,
lại càng cực khó!
Thôi thì cứ hẹn, kiếp
sau, kiếp
khác, mình gặp nhau,
thì Gấu này sẽ kể cho nghe,
về cái đêm ao thu dâng đầy,
nhé?
Trang Thơ Pessoa
Tưởng
nhớ Thảo Trường
Đọc
Nguyễn Lệ Uyên – Chiến tranh
dưới ngòi bút Thảo Trường một bài dài, lèm bèm, dàn trải đủ thứ,
chỉ để đi đến kết luận, Thảo
Trường là 1 nhà văn trung thực.
Thì đúng như thế rồi.
Có điều
thật khó hiểu là, làm
thế nào mà nhà văn trung thực này sống sót 17 năm tù cải tạo, và khi
thoát ra được,
ông vẫn tiếp tục viết, không hề cằn nhằn, kết án tụi VC về cái vụ bỏ tù
ông lâu
quá, một điều nhà phê bình nhớn Đặng Tiến, không làm sao hiểu được! (1)
(1) Ông
viết về Thảo Trường,
trên BBC:
Một tâm hồn nhân hậu và phóng
khoáng như thế, mà phải trải qua vòng 17 năm lao lý qua 18 trại giam,
sau khi
chiến cuộc đã chấm dứt, là điều giới làm văn học không hiểu.
Ngày nào đó, chính trị phải
trả lời văn học.
Thấy có
bài mới của DT, về TT, trên
talawas.
Để ghé mắt ‘đọc chơi’, rồi tiếp tục lèm bèm về 'bạn hiền'!
Trong
khi đó, một nhà văn nhà
thơ cùng nhóm Sáng Tạo với ông, ra tù, tự hỏi chính mình, làm thế nào
lại viết,
làm thế nào coi như đếch có chuyện chó gì xẩy ra?
Khó thật. Giả như nhà thơ viết
lại, thì thơ của ông sẽ như thế nào?
Chúng
ta hẳn cũng đã nhiều người
biết, ‘giai thoại’ về nhà thơ Akhmatova, khi xếp hàng chờ đến lượt thăm
nuôi
con, thời gian đỉnh cao của Đại Thanh Trừng, Đại Khủng Bố Stalin, và
một bà đứng
đằng sau ghé tai thì thầm, này, tả được không, và bà gật đầu, được!
Vấn nạn ở đây là: Tả là tả như
thế nào, được là được ra làm sao?
Theo tôi nghĩ, đây là vấn đề
cốt tuỷ của văn chương sau trại tù, đúng vấn nạn của Ardorno, sau Lò
Thiêu mà còn
lèm bèm làm thơ thì thật là dã man.
Nhà văn
Tưởng Năng Tiến, trên
talawas, than:
Hết
Võ thị Hảo rồi đến
Thuận. Viết gì mà thấy ghê. Ngày nào mà cũng đọc một hai
bài như
vậy thì chắc chết, chết chắc!
Liệu
đây là thứ văn chương hậu -
Lò Cải Tạo, xuất phát bờ phía bên kia của… Lò?
NL,
trên Blog của ông, coi
thứ văn chương của Primo Levi về Lò Thiêu, trong If This Is A Man, là báo cáo
[report].
Hay đây
mới chính là thứ văn chương... trung thực?
Căng
thật!
*
Bây giờ
khoan nói chuyện ông
bạn Nghiêm. Nói chuyện tác giả "Người tù binh nằm trong nôi": Thảo
Trường.
Tôi gặp lại anh ở
"office": một
Car Wash của con trai, sang Mỹ từ 1975.
Tại Little Saigon, lẽ
dĩ nhiên!
Như thể Nghiêm, Thảo
Trường và tôi đã có hẹn
gặp lại, từ thuở còn Sài-gòn.
Anh kể chuyện "ngày xưa": Bữa đó,
mình cho mấy mẹ con đi trước, tính đi chuyến sau. Thế là dính luôn 8
năm tù
Bắc, 9 năm tù Nam-
Tếu thật, tôi vẫn
nghi, anh chàng này rồi
khổ với tính tếu: Nếu không tếu, không viết nổi Bà Phi, rồi bị sếp hành
lên
hành xuống, do có kẻ "mét": Thằng đó nó tả "Quí Phu Nhân"
đấy, cho nó xuống hầm P.48 (?) đi!
Nếu không bị tính
tếu xúi dại, đã đi cùng
vợ con...
Kể ra nói chuyện
ngày xưa lúc này là quá
hợp: Little Saigon đang ngợp một mầu cờ, nhân vụ Trần Trường.
Trước 1975, Thảo Trường thuộc loại
đàn anh
của tôi. Anh có tên trong tờ Sáng Tạo, nhưng theo "một nghĩa nào đó",
anh chẳng mắc mớ gì với chủ trương "đạp đổ", làm cách mạng văn học
của nhóm này. Cho tới giờ này, tôi vẫn không hiểu được tại sao anh có
mặt
"ở đó"?
Bởi vì truyện
ngắn của Thảo Trường
"hiền khô", lại không "mới". Cái cũ "nhất" ở anh,
là kỹ thuật truyện ngắn. Thứ truyện ngắn không nhắm vào tiểu sảo, không
mà mắt
người đọc với những kỹ thuật mượn từ độc thoại nội tâm, điện ảnh... vốn
rất
được ưa chuộng hồi đó, kể luôn cả chuyện, cho nhân vật tuôn ra đủ thứ
tư tưởng,
hoặc ăn nói theo kiểu ba phải (nghĩa là lạm dụng nghịch lý, ra cái điều
thông
thái: Đời chẳng đáng gì nhưng đâu có gì đáng (như) đời, la vie ne vaut
rien
mais rien ne vaut la vie, André Malraux).
Ngay hồi đầu đọc
anh, tôi đã ngạc nhiên,
anh cứ một mình đi một đường, an nhiên tự tại, thong dong mà viết.
Bây giờ thì tôi hiểu.
Với một
chút tếu, với chút thong dong tự tại, vậy là có thể qua được địa ngục.
Little Saigon
What If?
Trong
ghi chú về Vụ Án, ông có nói về sự thiếu thân quen (un manque
d'affinités), với
Kafka...
Cái
thiếu đó, theo tôi là do sự kiện này: Kafka là nhà văn hoang tưởng. Ông
kể hoài
những hoang tưởng đó. Chúng thật tuyệt vời, thật đáng nể. Ông chẳng khi
nào rời
khỏi đề tài này. Ông chẳng hề dang tay để giải thích cho bạn, những cơn
hoang
tưởng đó che giấu cái gì, ý nghĩa của chúng ra sao. Ông để cho độc giả
tự mình
xoay sở, về ý nghĩa những câu chuyện có tính hoang tưởng đó, làm sao
giải thích
chúng, và thực thế, những giải thích thì thật vô cùng. Chỉ riêng cuốn
Vụ Án có
chừng 20 cách giải thích. Ý thức được sự quá đỗi khác biệt về phẩm chất
(qualité), giữa tôi và Kafka, tôi luôn chọn một con đường khác, trong
những cuốn
sách của mình. Tôi bắt đầu bằng cách viết về những trại tập trung, tiếp
đó, về
những gì đã xẩy ra cho tôi, nhưng luôn luôn với một ưu tư, là làm sao
cắt
nghĩa, làm sao cho con đường trở nên bằng phẳng. Người ta thường chê
cách viết
của tôi là mô phạm. Cả nửa cuốn “Đây có phải một người” là để cố gắng
giải
thích cho chính tôi, và là cho độc giả, những lý do của cái bất bình
thường bề
ngoài, là cái tạo nên những trại tập trung Đức quốc xã. Cũng vậy, trong
Hệ thống
tuần hoàn (Le système périodique), tôi cố gắng giải thích cái vị trí
lập lờ, mù
mờ của tôi, giữa hóa học và văn học. Tôi chẳng hề, hay là gần như chẳng
bao giờ
chọn lựa, trừ trong mấy truyện ngắn, con đường của Kafka, tôi chẳng bao
giờ cho
thả giàn cái điều còn ở trong tiềm thức.
Người
ta cho rằng Kafka là một nhà văn giết đời sống (un écrivain qui tue la
vie), ca
ngợi sự trống vắng, hoài nhớ cuộc đời và tình yêu. Không khí hiếm
hoi ở
trong truyện của ông là cái tinh túy của một cuộc đời đã mất. Người ta
chẳng hề
kiếm thấy điều này ở Primo Levi, ngay cả khi ông nói về những trại tập
trung...
Chúng
tôi có những số mệnh khác hẳn nhau. Kafka lớn lên trong một hoàn cảnh
đối nghịch
nặng nề với người cha, ông là kết quả của ba nền văn hóa trộn vào nhau
– văn
hóa Do Thái, Prague, và Đức. Ông là người khốn khổ vì những liên hệ
tình cảm, bực
bội ở nơi làm việc, và sau cùng bị bịnh nặng. Ông chết trẻ. Còn tôi,
mặc dù
quãng đời ở trại, vốn khắc đậm ở nơi tôi, tôi có một đời sống khác hẳn,
đỡ khốn
khổ hơn so với Kafka. Với tôi, là chuyện, cái gì tốt thì kết cục tốt,
như thể
cái chuyện tôi sống sót Lò Thiêu làm cho tôi lạc quan một cách kỳ cục,
nếu có
thể nói, ngu đần. Bây giờ tôi không còn lạc quan nữa. Nhưng khi đó, tôi
đã lạc
quan. Khi đó, tôi cứ thế dàn trải ra, một cách không thuận lý, hết kết
cục hạnh
phúc này tới kết cục hạnh phúc khác, ấy là nói về cuộc phiêu lưu cá
nhân của
tôi – nó làm cho tôi giầu có một cách đáng kể, bởi vì tôi trở thành nhà
văn nhờ
nó - qua tất cả những thảm cảnh trần gian.
Cho
dù nói về những chuyện khủng khiếp, nhưng “Đây có phải một người” của
tôi thực
là xa cách với Kafka. Rất nhiều độc giả nói rằng, đây là một cuốn sách
lạc
quan, và thanh thản (serein), nó nâng bổng người ta lên, từng chút từng
chút,
nhất là ở chương chót. Thật là phi lý, khi nghĩ rằng, từ cái hố sâu là
Lager lại đẻ ra một thế giới tốt đẹp hơn. Bây giờ tôi quan niệm khác:
Lager
chỉ đẻ ra Lager. Rằng một kinh nghiệm như thế chỉ đẻ ra cái xấu, cái
ác. Khi
người ta thấy rằng, một Nhà Nước hiện đại như thế, có tổ chức, có kỹ
thuật, có
tính hành chính cao như thế, mà lại đẻ ra Lò Thiêu, người ta có một ấn
tượng khủng
khiếp, rằng Lò Thiêu có thể tiếp tục xuất hiện. Kinh nghiệm đó có thể
tái sinh,
tôi không nói là nó sẽ như vậy, nhưng mà là có thể như vậy, tôi nhận
thấy thế,
và tôi sợ.
Ông
đã từng chứng kiến sự dã man của trại tập trung. Liệu Kafka có thể có
được cái
kinh nghiệm đó, dù không sống?
NY
Review Book 2005
Xuống
phố, vô tiệm sách, vớ được
cuốn trên. Đọc sơ sơ mấy dòng, thì vỡ ra tới hai điều rất ư là quan
trọng, với
riêng GNV:
Tại làm
sao mà Gấu bị cái rìu phá
băng Simone Weil bổ trúng đầu, đúng dịp Trần Trường Cờ Máu Hình Bác,
tại ngay trung tâm Tiểu Sài Gòn, Cali?
Bản văn ‘Iliad hay là Bài thơ của Sức mạnh’ của Weil có
một chị/em song
sinh.
Khủng hơn nữa, cả hai tác giả, đều là nữ, và đều tự tử.
Bởi vì
ngay cái tít của bài
Intro cho cuốn sách trên, đã giải thích: Đây là câu chuyện của
hai Iliads
Introduction: A tale of two Iliads
INTRODUCTION
A TALE OF TWO ILIADS
The
critic Kenneth Burke once
suggested that literary works could serve as "equipment for living,"
by revealing familiar narrative patterns that would make sense of new
and
chaotic situations. If so, it should not surprise us that European
readers in
times of war should look to their first poem for guidance. As early as
the fall
of 1935, Jean Giraudoux's popular play La
guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to
think of
their country as vulnerable Troy
while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the
play's English title). Truth was the first casualty of war, Giraudoux
warned.
"Everyone, when there's war in the air," his Andromache says,
"learns to live in a new element: falsehood."
Giraudoux's
suggestion that
the Trojan War was an absurd contest over empty abstractions such as
honor,
courage, and heroism had a sinister real-life sequel when Giraudoux was
named
minister of wartime propaganda in 1939. In the wake of Munich,
Minister Giraudoux announced that the most pressing danger to French
security
was not the Nazis but “one hundred thousand Ashkenasis, escaped from
the
ghettos of Poland
or Rumania.”
After
September 1939, the
analogy between the crisis in Europe
and the Iliad - which opens with broken truces
and failed attempts to appease Achilles' wrath-seemed altogether too
apt.
During the early months of the war, two young French writers of Jewish
background, Simone Weil and Rachel Bespaloff, apparently unaware of the
coincidence, wrote arresting responses to the Iliad
that are still fresh today. During the winter of 1940, Weil
published in the Marseilles-based journal Cahiers
du Sud her famous essay "L'Iliade,
ou le poème de la force." Three years later - after both Weil and
Bespaloff had fled France
for New York - Jacques Schiffrin, a
childhood
friend of Bespaloff's who had become a distinguished publisher,
published
"De l'Iliade" in New York under the
Brentano's imprint.
The
idea of bringing these
two complementary essays together was first pursued by Schiffrin and
Bollingen
editor John Barrett. After Mary McCarthy translated both essays into
English
plans were made to publish them in a single volume.' When rights to
Weil's
essay proved unavailable, Bespaloff's "On the Iliad"
appeared separately in 1947, as the ninth volume in the
Bollingen series, with a long introduction - nearly half as long as
Bespaloff's
own essay-by the Austrian novelist Hermann Broch, author of The
Death of Virgil. In their respective essays, Weil
and Bespaloff adopt some
of the same themes while diverging sharply in their approach and
interpretation. In her essay Weil condemns force outright while
Bespaloff
argues for resistance in defense of life's "perishable joys."
[suite]
NEW YORK REVIEW BOOKS CLASSICS
WAR AND THE ILIAD
SIMONE
WElL (1909-1943) was
one of the first female graduates of the Ecole Normale Superieure and
taught
philosophy in provincial schools from 1931 to 1938. A socialist, she
worked for
a time on the Renault assembly line and volunteered to fight against
the
Fascists in the Spanish Civil War. In 1938, a mystical vision led Weil
to
convert to Roman Catholicism, though she refused the sacrament of
baptism. Weil
fled France for the
United
States
in 1942, where, in solidarity with the people of Occupied France, she
drastically limited her intake of food, so hastening her early death
from
tuberculosis.
RACHEL
BESPALOFF (1895-1949) was born to a Ukrainian
Jewish family-her father was the Zionist theoretician Daniel
Pasmanik-and
raised in Geneva.
Bespaloff intended to pursue a musical career, but after an encounter
with the
thinker Leo Shestov, she devoted herself to the study of philosophy.
One of the
first French readers of Heidegger, Bespaloff published essays in the
1930s
about Kierkegaard, Gabriel Marcel, Andre Malraux, and Julien Green,
among other
philosophers and writers. In 1942, she left France
for the United States,
where
she worked as a scriptwriter for the French Section of the Office of
War
Information before teaching French literature at Mount Holyoke.
In 1949, Rachel Bespaloff committed suicide, leaving a note that said
she she
was "too fatigued to carry on."
Một chủ nhật khác
Lần trước còn học trong Thủ
Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức
giấc lúc
trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như
những
bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài
đường. Trên
phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc.
Kiệt đứng
trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.
Về
Nhà 2010
Bạn cờ của
GNV
Vientiane 15.9.2010
Hẹn gặp
lại!
NQT
Ông bạn
thắt cà vạt, vừa đi
hội họp về, vội tới, sợ lỡ độ cờ, là 1 người sinh đẻ tại Lào, có cơ
ngơi ở Cố
Đô Lào, rất mê văn nghệ, có chẳng thiếu 1 số Văn, nhưng cũng đốt hết,
sau
cái ngày 30 Tháng Tư ở xứ Mít, và có thời gian cũng bị quy thành phần!
Thú vị làm sao, còn 1 tí, trong có bài điểm sách, trên.
Đọc, thì đúng cái
air HPA, và sư phụ của bạn quí, là Blanchot. Đúng cái giọng "Le Livre
à venir",
của Blanchot: tất cả chưa hoàn tất, không muốn hoàn tất!
Ui
chao, GNV mất quê hương Bắc
Kít, ông trời cho quê hương Nam Kít. Khi mất cả hai, ông bù cả hai. Xứ
Phật và
Xứ Lạnh.
Tks. NQT
The Nobel
Prize in Literature
2010
Mario Vargas
Llosa và Văn học của Thế Giới
Thứ Ba.
Orhan Pamuk
Liệu có
thứ kêu là văn chương
Thế Giới Thứ Ba? Liệu có thể sắp xếp cho ra, establish – mà không sợ
biến thành
trò tầm phào, hay nâng bi miệt vườn, đặc sản, parochialism - những đức
tính, đạo
hạnh cơ bản của những xứ sở mà chúng ta gọi là Thế Giới Thứ Ba?
Witness of
Poetry
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Bóng ma của một ông bố.
Tiểu sử:
3 tháng Chín, 1963: Sinh tại
Đà Lạt (Việt Nam).
Cha là kỹ sư. Ông chỉ nói tiếng Việt, ngược hẳn với bà mẹ của Linda Lê.
1968: Cuộc tổng tấn công Tết
Mậu Thân của Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam. Trên đường di tản, lần
đầu
tiên trong đời, Linda Lê nhìn thấy những xác chết ở bên đường.
1969. Gia đình định cư tại
Sài Gòn.
1975: Quân đội Bắc Việt tiến
vào Sài Gòn
1977. Linda Lê, mẹ, và ba chị
em của bà, rời Việt Nam
định cư tại Havre. Ông bố không có ý định rời bỏ đất nước, đã ở lại.
1981: Học lớp dự bị
(préparatoire) tại trung học Henri-IV.
Thập niên 80: Xuất bản hai
cuốn đầu tay, "những tiểu luận về tiếng nói" (des "essais de
voix"), mà sau đó bà chối bỏ (renier), một thứ "văn phong cứng nhắc
như bị nịt, quá mang tính ứng dụng", chúng không còn có trong thư mục
những cuốn sách của bà.
1992: Cuốn sách mặc khải của
bà, tiểu thuyết "Những phúc âm của tội ác", do nhà Juliard ấn hành.
1995. Ông bố, mà từ lâu, cả
hai vẫn thường xuyên liên lạc qua thư từ, tính làm một chuyến du lịch
Pháp.
Nhưng chết trước đó ít lâu. Linda trở về Việt Nam lo
việc an táng.
1995-1997: Linda Lê viết
"Les Trois Parques" (Ba vị nữ thần số mệnh), một thứ "huis
clos" (hộp kín), gồm mấy chị em, (hai chị em ruột, một chị em họ),
trong
khi chờ đợi ông bố. Ông này chết, ở cuối cuốn tiểu thuyết. Liền sau đó,
bà trải
qua một cơn khủng hoảng tưởng biến bà trở thành điên và câm. "Tôi có
cảm
tưởng sống trong những cơn ác mộng, trong đó, con người kêu la mà chẳng
có âm
thanh nào thoát ra khỏi cổ họng. Tôi có cảm giác như bị ai bóp họng,
nghẹt thở.
Lần đầu tiên, tôi có cảm tưởng rằng những con chữ cũng chẳng có thể
giúp đỡ gì
cho tôi."
1998: Viết trở lại. Xuất bản
"Tiếng Nói", nhà xb Christian Bourgois (từ năm 1993).
( L'Express số đề ngày 17
tháng Năm 2002)
Jennifer Tran chuyển ngữ
Trang Linda Lê
Văn
phong của Linda Lê, theo
GNV, làm nhớ tới Kertesz, qua bài viết Ngôn
Ngữ Lưu Vong, thứ ngôn ngữ không
trụ vào được một nơi chốn, một quốc gia...
Trong bài “J'aime que les livres
soient des brasiers" bà cũng
cho biết, tiếng Pháp gây khó cho bà,
[nhưng ngược lại, bà cũng gây khó cho nó theo tôi].
Khó
dịch LD lắm, nó đòi hỏi,
phải thật rành văn học thế giới. Phải có ám ảnh về lưu vong, về cái
chết, về tự
huỷ...
Nhân LD về VN, giới thiệu thêm
một bài viết của LD, về Melville, trên
Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Dos, Mars, 2010
Melville,
entre Neptune et Saturne
Titan mélancolique,
l'inventeur de Moby Dick et de Bartleby se disait un « plongeur de la
pensée ».
Un nouveau tôme de ses œuvres paraît dans La Pléiade.
Par
LINDA LÊ
«A quoi
bon fignoler ce qui,
de par son essence même, est d'aussi courte vie qu'un livre moderne.
Quand bien
même j'écrirais les Évangiles en ce siècle, je finirais dans le
ruisseau »,
confiait Herman Melville en juin 1851, pendant qu'il parachevait Moby
Dick, à
son ami Nathaniel Hawthorne, lequel voyait en lui, comme il le notait
dans son
journal, un homme résigné à être anéanti, incapable ni de croire ni
d'être à
l'aise dans son incroyance, aimant raisonner sur ce qui dépasse le
savoir
humain. Melville, écrivain populaire à ses débuts, ayant connu un
succès
flatteur avec Taipi et Omoo - récits
d'aventures polynésiennes
qui lui valurent, disait-il, une réputation abominable, car il risquait
de
passer à la postérité en tant qu'« homme qui a vécu parmi les
cannibales» -,
devint rapidement, dès qu'il se tourna vers le roman allégorique
saupoudré
d'ingrédients métaphyysiques, un« héros de la plume» impécunieux, en
butte à
une critique d'une froideur ou d'une hostilité désolantes, à l'origine
de la
mévente de ses livres.
Tôt descendu dans l'arène,
après la faillite puis la mort de son père, il avait été, tout jeune
encore,
employé de banque, avait travaillé à la ferme d'un de ses oncles, avant
de se
faire maître d'école, puis de s'engager comme mousse sur un navire
marchand en
partance pour Liverpool et, en 1840, à l'âge de 21 ans, de rejoindre
l'équipage
d'un baleinier, qu'il déserta en 1842 pour se retrouver chez les
cannibales. Ce
furent les plus longs voyages qu'il entreprit. De ces expéériences, il
tira la
matière de trois ouvrages, Taipi
(1846), Omoo (1847) et Redburn (1849).
Dès lors, ayant à peu
près cessé de rouler sa bosse, il s'installa dans une ferme de
Pittsfield, dans
le Massachusetts, mena une existence de terrien, tout en se voulant, de
manière
de plus en plus opiniâtre, un« plongeur de la pensée » et en composant,
après Redburn et La Vareusee Blanche,
récits maritimes dont il minimisa la portée en
les qualifiant de corvées accomplies à des fins lucratives, des romans
cyclopéens qui ne rencontrèrent que l'incompréhension ou
l'indifférence. À bout
de ressources, il envoya à des magazines américains des contes où,
selon
l'expression de Philippe Jaworski, le préfacier de l'édition de La
Pléiade, les
narrateurs sont les « greffiers de l'insolite, du merveilleux ou de
l'inquiétant ». Il fit
aussi un séjour en Orient et, à son retour, donna des conférences sur
les
thèmes les plus variés, essaya en vain d'obtenir un poste de consul,
alla vivre
à New York où, en 1866, il fut nommé inspecteur des douanes, emploi
qu'il
devait seulement quitter à la fin de 1885, ayant entre-temps mené à
bien des
poèmes, sans déroger, c'est-à-dire en s'en tenant à ce «quelque chose
d'intraitable» en lui qui le poussait à dynamiter les conventions.
Visionnaire au cerveau encyclopédique,
Protée ayant touujours soin d'innover, analyste clairvoyant des
contradictions
humaines (les géants de la littérature, disait-il, excellent à décrire
les
incohérences d'un caractère, puis à les débrouiller pour le vif plaisir
du
lecteur), liseur avide, pratiquant des classiques tels que Shakespeare,
Montaigne, Rabelais, Dante, mais aussi Fenimore Cooper, découvert dans
l'enfance, et Robert Burton, l'auteur de L’Anatomie
de la mélancolie, célébré dans l'adolescence (Melville n'avait pas
seulement une grande familiarité avec leurs œuvres, il en incorporait
la
substance même, comme il le fit avec les productions de Hawthorne),
prophète
doué d'un génie comique et d'un incomparable talent de conteur
tragique, Noé
accueillant dans son arche en papier des « hommes au rebut », voleur de
feu
dont la mission était de jeter à bas toutes les idées reçues, Melville
datait
de sa vingtième année son véritable développement mental: il rentrait
des mers
du Sud et décidait de se vouer corps et âme à l'écriture.« Nul ne peut
lire un
bel auteur et le savourer jusqu'aux os sans se faire ensuite une image
idéale
de l'homme et de son esprit. Et si vous cherchez bien, vous trouverez
presque
toujours que l'auteur vous a fourni quelque part son propre portrait »,
notait
Melville dans Hawtborne et ses mousses,
hommage rendu par un disciple à un maître. Où trouver, dans les
publications de
Melville, un reflet de lui-même? Chez le drôle d'individu en quête du
pays des
fées dans La Véranda? Chez l'ironiste
de cette merveille extravagante qu'est Moi
et ma cheminée? Chez l'inexplicable Bartleby, le scribe qui répond
à tout:
«Je préférerais pas », formule de résistance passive, refus de soi qui,
d'après
Blanchot, ne se crispe pas sur le refus, mais ouvre à la défaillance, à
la
perte d'être, à la pensée? Ou chez l'humble biographe d'Israël Potter
qui, d'un
livre dépenaillé, sauvé des mains des chiffonniers, fait une chronique
foisonnante de la vie d'un obscur combattant de la guerre
d'Indépendance '?
Gilles Deleuze faisait
observer que dans la littérature melvillienne se côtoient deux espèces
de
personnages: à un pôle, les monomaniaques ou les démons, tels le
luciférien
capitaine Achab dans Moby Dick ou le
satanique Claggart qui, dans le dernier récit de Melville, commencé en
1888 et
sans cesse remanié, Billy Budd,
marin, accuse injustement ce dernier d'être un intrigant et un
fomentateur de
sédition; à l'autre pôle, des anges ou des saints hypocondres: Bartleby
le
copiste, Billy Budd l'innocent condamné à être pendu à la grand-vergue,
Cereno,
l'un des protagonistes de Benito Cereno,
longue nouvelle sur l'esclavagisme et la philanthropie, qui permit à
Melville
de faire de la mer un théâtre, lieu d'affrontement. Un bateau est un
microcosme. C'est, dans Billy Budd,
fable christique inspirée d'un fait divers, un huis clos où un enfant
trouvé
bénit un père de substitution. C'est, dans Benito
Cereno, une cargaison d'esclaves mutinés face à un représenntant du
Nouveau
Monde et à celui du Vieux Continent. C'est, dans L'Escroc
à la confiance, une société composite aux prises avec un
filou qui, sous de multiples avatars, se fait passer pour un
cosmopolite et un
citoyen du monde, allant jusqu'à conclure avec un sceptique un accord
stipulant
qu'il lui rembourserait toute perte découlant de sa confiance en
l'humaanité.
Parue en 1857, cette« mascarade », cette farce plurivoque est sans
doute le
roman le plus déconcertant de Melville qui, à travers des discussions
portant
aussi bien sur Platon, Shakespeare, la métempsycose, la haine des
Indiens, que
sur la bonté, revient sur un motif tissé de livre en livre, la charité
ou la
suspecte bienveillance, tout en s'amusant à créer des originaux et à
dérouter
par ses« rapides coups de sonde jetés à l'axe même de la réalité ».
L'imposture, la folie, la trahison, la solitude et le silence,
l'orgueil et la
chute, les naufrages spirituels et les glorieuses ascensions, la
dépravation et
la nosstalgie de la pureté, sont au cœur des fictions prométhéennes de
Melville, aventurier de l'absolu qui s'est éternisé en étant à
l'avant-poste de
la modernité.
NOUVEAUTÉS
HERMAN MELVILLE
Œuvres, t.
IV, édition de Philippe Jaworski avec la collaboration de David
Lapoujade et
Hershel Parker, éd. Gallimard, « Bibliothèque de La Pléiade ",1424 p.,
55
€ jusqu'au 31 mai 2010.
Derniers poèmes,
édition d'Agnès Derail et Bruno Monfort, préface de Philippe Jaworski,
éd. Rue
d'Ulm, 220 p., 15 €.
LE
MAGAZINE LITTÉRAIRE MARS
2010
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Ghi chú
trong ngày
Hội
chứng Nhà Thổ
Không biết từ khi nào mà xứ
ta bị nhiễm hội chứng trang trí phố xá kiểu nhà thổ như bây giờ ?
Phố phố đèn lồng đỏ, băng rôn
đỏ, đèn nháy đỏ, tím, hồng cứ là loạn xạ. Xưa chỉ có bên Tàu mới có
kiểu ấy,
vài nước văn minh như Sing, Hà Lan, Đức, Thái...chỉ tập trung vào một
chỗ gọi
là phố đèn đỏ. Ấy nhưng ở ta thì hiện nay: cả thành phố đều ...đèn đỏ !
*
Tình
yêu như trái phá, con
tim mù lòa
Cái vụ
dịch dọt này, đang ì xèo
trên Da Màu, Gấu nhớ là cũng đã có 1 lúc, ngứa ngáy, nói leo, như thế
này:
Câu hát của ông nhạc sĩ họ Trịnh
này, chỉ là để nói về một cái chân lý cũ rích, con tim mù lòa nó có lý
do mù lòa
của riêng nó, người không mù lòa không làm sao hiểu được, nhưng được
nói bằng cái
ngôn ngữ của thời của ông, tức là thời của trái phá, của lựu đạn, của
pháo kích…. Mấy anh chết rét bỏ chạy cuộc
chiến, có
biết gì về trái phá đâu, mà cũng chê bai, dịch sai!
Cũng vậy, là 1 anh trong số này, chẳng thể nào phân biệt được pháo kích
và oanh kích nó đau đớn
khác nhau
ra làm sao.
Tất nhiên
Cái tay TTD, này, GNV thời
gian tập tành đọc sách Tây, và tất
nhiên, đọc
Camus, thấy ông ta dịch Camus, phục quá đỗi. Nhưng về già, mới hiểu ra
mấy đấng
này, trong có đấng DT, bạn hiền của GNV, chẳng hiểu tí chó nào về Camus!
Nói rõ hơn, mấy cha này, lành
lặn, không 1 tí thương tật, thiếu 1 ngày lính, cho nên đếch đọc được
bất cứ cái
gì, nói gì Camus!
Và mới vỡ ra mấy giai thoại, đọc
từ hồi lớp đồng ấu, trong quốc văn giáo khoa thư.
Thứ nhất, là cái chuyện anh
nhà quê đi mua kính, vì nghĩ, cứ đeo cái kính vô, là đọc được chữ!
Thứ nhì, là từ Khổng Tử.
Ông
này phán, mỗi lần bạn tính đọc sách là phải chay tịnh, không gần… đàn
bà ít lắm
là 1 tuần lễ, cho cái tâm nó sạch, nó sáng ra thì mới đọc sách thánh
hiền được!
Hà, hà!
Trong
câu phán của Adorno, có
ý đó: Sau Lò Thiêu, sau Lò Cải Tạo, mà còn chưa được nếm mùi trái phá,
thì thật
là dã man, khi bàn về những nhà văn như Camus, thí dụ!
Chính là do nỗi lo sợ từ bỏ
thế kỷ không một tí thương tật, mà nhà văn Gunter Grass phải thành thực
khai báo
trước Đảng, thân thể tôi có 1 vết chàm, do hồi nhỏ hung hăng con bọ
xít, nhỏ máu
ngón tay, viết đơn xin vô lực lượng SS.
Cả cuộc viết của Steiner, là
từ vết chàm: lẽ ra phải có mặt tại Lò Thiêu.
Cái
chuyện sợ chết bỏ chạy,
theo VC, trước 1975, thì hiểu được. GNV này cũng đòi phen, tính chuồn.
Nhưng quái
đản, ở lũ khốn này, là thái độ của chúng, vẫn viết, như chưa từng có gì
xẩy ra!
Ngay ở
đám VC chính hiệu, trước
tình hình nước Mít bây giờ, chúng cũng phải tự vấn lương tâm, và tìm
hiểu coi có
cái gì sai trái, và nó bắt đầu từ lúc nào. Tất cả tác phẩm của Miền Bắc
gần đây,
là chủ yếu xoáy vào vấn nạn trên, từ đám già như Tô Hoài, như Nguyễn
Khải… cho đến
đám trẻ sau đó, như Vương Trí Nhàn, và sau đó, như Võ Thị Hảo, và sau
nữa, như
Thuận, vậy mà đám khốn kiếp nằm vùng, hay bỏ chạy, vẫn tỉnh bơ, vẫn
viết như chẳng
có gì xẩy ra, vẫn tiếp tục viết, chẳng hề có chuyện ngưng nghỉ, rồi lại
bắt đầu
viết trở lại!
Một đất
nước như hiện nay, có
bao phần đóng góp của đám nằm vùng, chúng tỉnh bơ, phủi tay, không có
chúng tớ!
Chúng vẫn viết, như thể lương tâm trắng bốc! Đọc cái bài viết mới của
DT, về Thảo
Trường, những gì lấn cấn, là ông cho vô ngoặc, “ngoài đề”
(Khi một lý tưởng
thất bại thì biến thành ảo tưởng. Nhưng cũng có khi chiến thắng hóa lý
tưởng
thành ảo tưởng: ngoài đề.)
(Có kẻ không muốn
chen chân vào hào quang của người chiến thắng, thì nấp vào bóng mát của
cây
lọng người quân tử sa cơ: ngoài đề.)
Ngoài đề, tuyệt!
Thế thì DT, ở
trong hay ở ngoài, đề?
|
|