|
Mùa thu ở
đây đẹp não nùng
Thu,
2010
Lần trước còn học trong Thủ
Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức
giấc lúc
trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như
những
bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài
đường. Trên
phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc.
Kiệt đứng
trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.
Breakfast
@ school with
Richie & Jennifer
Thơ mỗi ngày
Love in
a mist
Yêu trong sương mù
In May 1904, Guillaume
Apollinaire crossed the Channel in pursuit of Annie Playden, an English
governess (see right). He stayed with an Albanian friend in the London suburb of Chingford, near Epping Forest. He had first come to woo Annie
the previous autumn,
staying at 3 Oakley
Crescent,
off the City Road,
not far from Angel, Islington. The house still stands, though it is
known only
to devoted Apollinaireans. Last week, we went for the first time to
look at the
even more obscure Chingford residence, 36 Garfield Road. Would it be a
worthwhile monument to the first great avant-garde poet of the
twentieth
century? According to Leonard Davis of the Chingford Historical
Society, a
plaque was proposed in 1980 but never materialized.
We regret to say it is just
as well. Garfield Road
- named after the American president James Garfield, assassinated in
1881 - is
a dismal assortment of small ugly houses, with a huge vacant lot in the
centre.
No 36, modernized out of recognition, had blinds drawn, preventing us
peeping
into Apollinaire's living room. The expedition's sole mo1hent of cheer
occurred
as we returned to the railway station, where we spotted an oblong
Victorian
pillar box built into the wall. It was surely used by Apollinaire to
post letters
to Annie. His vain courting became the subject of one of his most
famous poems,
"La Chanson du mal-aimé" (Song of the poorly loved):
One foggy night in London town
A hoodlum who resembled so
My love came marching up to
me -
The look he threw me caused
my eyes
To drop and made me blush
with shame.
Annie is also memorialized,
kaleidoscopically, in "LeӃmigrant
du Landor Road". Of Chingford,
however, the poet left hardly anything besides his pleasure in watching
the
golfers on the nearby Links.
A single publication is
dedicated to the English adventure: One
Evening of Light Mist in London by John
Adlard,
little more than a pamphlet, published by Tragara Press in an edition
of l45.
We located a copy at the Fortune Green Bookshop, a mysterious operation
which
has a shop front in West Hampstead
but is
closed to the public. On request, however, the proprietor kindly agreed
to open
up for us, and one evening of light mist we made our way there to take
possession of the book: mint, numbered 26, a steal at £10.
*
Trên TV, độc giả đã từng
'chứng kiến' 'anh cu Gấu' chạy theo BHD nơi cổng trường Đại Học Khoa
Học Sài Gòn.
Chưa ghê bằng Apollinaire,
tác giả câu thơ mà GNV thuổng, "Ouvrez-moi cette porte où je frappe en
pleurant", còn là tác giả Mùa Thu Chết, và còn là tác giả của cái cú
chạy
theo em nữ quản gia, suốt con kênh nối liền Pháp và Anh, để năn nỉ.
Thua, và bèn làm bài thơ trên,
nguyên tác tiếng Tây, GNV sẽ lục tìm, và dịch sau…
[Hình, TLS Oct 1, 2010]
La Chanson du Mal-Aimé
Bài hát cho người
tình phụ
A Paul Léautaud.
Et je chantais cette romance
En 1903 sans savoir
Que mon amour à la semblance
Du beau Phenix s'il meurt un
soir
Le matin voit sa
renaissance.
[Và nếu
tôi ngợi ca cuộc tình
này
Vào năm 1903, ấy là vì không biết
Tình tôi giống như Phượng Hoàng xinh đẹp
Nếu chết buổi chiều
là để sống lại sáng ngày hôm sau]
Un soir de demi-brume à Londres
Un voyou qui ressemblait à
Mon amour vint a ma rencontre
Et le regard qu'il me jeta
Me fit baisser les yeux de honte
Buổi chiều Luân Đôn, sương mù
chập choạng,
Một tên ma cà bông giống
Tình tôi tới gặp tôi.
Và cái nhìn mà nó ném cho tôi,
Khiến tôi cúi mặt vì xấu hổ
[Bài thơ dài, đây là khổ đầu]
Hai, trong những bài thơ
tuyệt vời của Apollinaire, là bài Cầu
Mirabeau, và bài L’Adieu,
[Mùa Thu Chết]
cả hai đều đã được Bùi Giáng dịch; bạn nào còn giữ bản dịch, xin cho TV
để
làm một
cú vinh danh nhà thơ, nên quá đi chứ, nhỉ?
L'Adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Le Pont Mirabeau
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut-il qu'il m'en souvienne
La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l'onde si lasse
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
L'amour s'en va comme cette eau courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Hai câu
khủng nhất, trong bài
Trên Cầu Mirabeau, là:
Comme
la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente
Ôi,
đời sao chậm quá,
Ôi, hy vọng sao hung bạo quá (1)
(1) Anh viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta.
J'écris depuis que tu me lis.
Les mots sont en retard sur nos vies
Cầm Dương Xanh
The Nobel
Prize in Literature
2010
Trong
bài viết Xứ sở với ngàn
bộ mặt, VL nhắc tới tuổi thơ, những năm đầu đời, mê Faulkner, ‘y chang’
GNV, thời
gian mới ra trường, đi làm Bưu Điện, gặp lại BHD, ở nơi con đường băng
ngang vườn
Tao Đàn khi em trên đường đi tới trường Gia Long, sau bao năm năm
tháng, nghĩa
là sau cái lần bị ông bố tống cổ ra khỏi nhà, thời gian gia đình BHD
dời con phố
Phan Đình Phùng lên khu Ngã Sáu Gia Long.
And in
a way I was, because I
was reading voraciously, and with growing admiration, a number of
writers
considered by Marxists at the time to be 'gravediggers of Western
culture':
Henry Miller, Joyce, Hemingway, Proust, Malraux, Celine, Borges. But,
above
all, Faulkner. Perhaps the most enduring part of my university years
was not
what I learned in lecture halls, but what I discovered in the novels
and
stories that recounted the saga of Yoknapatawpha County.
I remember how
dazzling it was to read - pencil and paper in hand - Light in August,
As I Lay
Dying, The Sound and the Fury and the like, and to discover in
those
pages the
infinite complexity of shade and allusion and the textual and
conceptual
richness that a novel could provide. Also to learn that to tell a story
well
required a conjuror's technique. The literary models of my youth have
palled,
like Sartre, whom I can no longer read. But Faulkner is still a major
writer
for me and every time that I read him, I am convinced that his work is
a
novelistic summa, comparable
to the great classics. In the 1950S in Latin
America, we read mainly European and North
American
writers and hardly looked at our own writers. This has now changed:
readers in Latin America discovered
their novelists at the same time
as the rest of the world did so.
THE COUNTRY OF A THOUSAND
FACES
Bởi vì tôi ngốn sách như điên, và, cùng với sự ngưỡng mộ tăng dần là
con số những tác giả, được đám Mác Xít thời đó coi là "những kẻ đào mồ
chôn văn hóa Tây Phương": Henry Miller, Joyce, Hemingway, Proust,
Malraux, Celine, Borges. Nhưng, trên tất cả là Faulkner. Có thể nói,
những năm học đại học, cái phần dai dẳng còn đọng lại ở trong tôi thì
không phải là từ những bài học tại giảng đường mà là những gì tôi khám
phá ra trong những tiểu thuyết, truyện ngắn kể về một miền đất giả
tưởng Yoknapatawpha County.
*
Khi
dịch Phu
Nhân ở Somerset, Gấu sống thời gian mỗi cuối tuần lên gặp
em BHD
đi nghỉ hè ở Đà Lạt, và nhớ luôn,
cuốn tiểu thuyết Faulkner thủ trong túi, đọc lai rai suốt quãng đường
mấy trăm cây
số Sài Gòn – Đà Lạt, 'vô tình' để lọt cái cảnh ngồi bên BHD trên chiếc
tắc xi già
leo không nổi con dốc, cứ lên tới đỉnh là lại tụt xuống, và, nhân đó,
nhớ...
Camus: ‘Phải tưởng tượng Sisyphus hạnh
phúc’.
Miss
Trask đâu có thì giờ để
làm công tác xã hội với những người lối xóm. Hay để ngồi lê đôi mách về
giá cả
cuộc sống thường nhật, bữa này thịt cá hơi bị mắc, hay không làm sao
kiếm được
một bó rau muống, hay ca cẩm về đám trẻ bây giờ mất dậy quá, "anh anh
tôi
tôi" với cả bậc tiên chỉ! Bởi vì mỗi phút của cuộc đời của cô thì đều
được
tập trung cao độ về những đam mê bất khả: búng tay một cái là dúm tro
than kia
biến mất, và Bông Hồng Đen lại xuất hiện, trước cặp mắt mừng rỡ đến
phát khùng
phát điên lên được của anh cu Gấu!
Làm sao đám người “mưa đêm
tỉnh lẻ” lại có thể đem đến cho Miss Trask, những ngôi nhà đỉnh gió hú,
những
cánh rừng ma, những rừng thông Đà Lạt, và chiếc tắc xi già, nặng nhọc
leo lên
đến đầu con dốc, là hết hơi , bèn từ từ lùi xuống: Phải tưởng tượng Cu
Gấu hạnh phúc [Tưởng tượng gì nữa, khi có BHD ngồi kế bên!]
*
Sinh
tại Arequipa,
miền nam Peru,
1936, những tác phẩm đầu tay của VL đậm đà hương vị, và những bất công
của quê
nhà của ông. “La Ciudad y los Perros”, cái tít tiếng Anh “The Time of
the
Hero”, thực không đúng với nó, là một giả tưởng dựa trên quãng đời
chẳng sung sướng
gì của tác giả, khi còn là thanh niên, theo học tại một trường quân sự
ở Lima. Thường
xuyên hiện diện trong tác phẩm của ông, là những tình cảm rắm rối,
nhiều khi trái
ngược nhau, về quê hương Peru của ông, nhưng đề tài và nhân vật của ông
ngày càng
trở thành phổ cập. Còn một đề tài trở đi trở lại hoài trong tác phẩm
của ông, là
sự truy tìm [điều, chủ nghĩa] không tưởng, và những hậu quả thường
xuyên là tai
hại của nó, về chính trị, cho đời sống riêng tư của từng cá nhân, và
được ông
khai triển bằng những đường hướng khác nhau, ở trong những cuốn như
“The War of
the End of the World”, “The Real Life of Alejandro Mayta” và “The Way
to
Paradise”, một nghiên cứu, nhìn từ đối điểm, những cuộc sống của họa sĩ
Paul
Gauguin, và người bà mang hai dòng máu Pháp-Peru của ông, Flora
Tristán, một nhà
nữ quyền thời kỳ đầu của phong trào này.
*
Wellsprings, Suối
Nguồn, tập
tiểu luận mới nhất, 2008 của VL, gồm đa
số những bài đã từng in ấn, về một số tác giả, tác phẩm ảnh hưởng nhiều
tới ông,
hoặc những đề tài mà ông thực sự quan tâm: 1. Bốn thế kỷ Don Quixote.
2. Những
giả tưởng của Borges. 3. Ortega y Gassett và Sự Sống Lại của một người
Tự do.
4. Sự thách đố của chủ nghĩa quốc gia. 5. Giả tưởng và Thực tại tại Mỹ
La Tinh.
6. Isaiah Berlin, người hùng của thời của chúng ta. 7. Cập nhật Karl
Popper.
TV sẽ
giới thiệu bài “Sự thách đố của
chủ nghĩa quốc gia”, vì cái chủ nghĩa quốc gia này, quả đúng là của mấy
anh VC
như Thái Dúi!
*
Gấu đọc VL, lần đầu tiên, là qua
bài viết Sự thực của những lời dối trá, đăng trên tờ Partisan
Review, và sau đó, tóm tắt, đăng trên Văn, của NXH.
Biết tới Amos Oz, và nhiều tác giả khác nữa, như Czeslaw Milosz,
Norman Manea...,
qua tờ báo khuynh tả này!
Coetzee, là qua tờ NYRB. Từ Coetzee, ra cả một lô những tác giả khác,
đa số, Mít chưa từng đọc!
Ngay cả Borges, cũng do GNV này lôi ra ánh sáng!
Linda Lê, cũng GNV giới thiệu, nhân đọc TLS điểm cuốn Vu Khống của
bà.
Chê!
Trong
Những Sắc Màu Khác, tập
tiểu luận, của Orhan Pamuk, có bài:
Mario Vargas Llosa và Văn học của Thế Giới
Thứ Ba.
TV sẽ dịch, trong những kỳ tới.
Liệu có
thứ kêu là văn chương
Thế Giới Thứ Ba? Liệu có thể sắp xếp cho ra, establish – mà không sợ
biến thành
trò tầm phào, hay nâng bi miệt vườn, đặc sản, parochialism - những đức
tính, đạo
hạnh cơ bản của những xứ sở mà chúng ta gọi là Thế Giới Thứ Ba?
On the Moral Brink
October 28, 2010
J. M. Coetzee.
Nemesis
by Philip Roth
Houghton Mifflin, 280 pp.,
$26.00
Nobel Hòa Bình
Mass murder
History and its woes
How Stalin and Hitler enabled
each other’s crimes
Oct 14th 2010
The Economist
IN THE middle of the 20th
century Europe’s two totalitarian empires, Nazi Germany and Stalin’s Soviet Union, killed 14m non-combatants, in
peacetime and
in war. The who, why, when, where and how of these mass murders is the
subject
of a gripping and comprehensive new book by Timothy Snyder of Yale University.
Witness of
Poetry
Linda Lê :
“J'aime que les livres soient des brasiers"
Linda
Lê may mắn còn có chỗ bỏ
neo, khi bà chọn tiếng Pháp, và tiếng Pháp chọn bà.
Trường hợp W.G.
Sebald, mới thảm. Ông không có 1 thứ tiếng để viết, dù viết bằng tiếng
Đức, như
đoạn sau đây cho thấy.
Mặc dù cái sự nổi tiếng bất thần, cái chết
thê lương của ông thật khó mà
gọi là cái chết của một tác giả người Đức nổi tiếng. Mặc dù cả nghiệp
viết, ông
viết bằng tiếng mẹ đẻ, đất mẹ chẳng hề biết tới ông, 1 kẻ vắng mặt cả
về thể
xác lẫn tinh thần. Ông sống ở Norwich, thuộc Anh trên 30 năm và chết ở
đó vì tai
nạn xe hơi, thật lặng lẽ, chẳng tham gia vào bất cứ một sinh hoạt nghệ
thuật,
hay dòng chính dòng phụ nào, nói chi dòng văn học tiếng Đức.
Ở Đức, sách của ông cũng được điểm, nhưng ngoài ra là chấm hết, đại
chúng
chẳng hề biết đến ông. Khi được dịch ra tiếng Anh, ông được nồng nhiệt
chào
đón, nhất là ở Mẽo. Susan Sontag hê lớn, đây này, làm sao nói nhà
văn nhớn,
văn chương nhớn không còn nữa?
Nhưng với Mẽo, hay bất cứ 1 nước nào khác, cái chuyện ông ghẻ lạnh với
đời,
với đất mẹ, và với chính ông, thì không có gì là ghê gớm: ông là một di
dân viết
về di dân, vậy thôi.
Liệu có thể coi ông là nhà văn Đức? Cũng khó
nói. Thứ tiếng Đức mà ông
sử dụng
có vẻ kỳ kỳ so với đám nhà văn Đức chính cống.
Ông là nhà văn Anh? "Tôi sống ở Anh trên 30 năm nhưng vẫn chẳng cảm
thấy
ít ra đây là nhà của mình".
Có vẻ như ông chẳng có nhà, cả ở trong đời
thực, lẫn trong tác phẩm.
The Permanent Exile of W.G. Sebald
On 14 December 2001, German novelist Winfried
Georg Sebald, who had spent the greater part of his life as an emigrant
in England,
died
in a car crash. Observers of that year’s Christmas festivities in
Sebald’s
native country couldn’t help noticing that the writer’s death had come,
at
least for the German publishing industry, as something of a Christmas
gift.
Every last book store’s Christmas decoration featured Sebald’s works.
The
literary press unequivocally named Sebald author of the year. A friend
told me
that his father, a middle-aged German physician, had received four, and
given
away three, Sebald novels as Christmas presents.
And yet, in spite of Sebald’s sudden
celebrity,
his tragic death could by no means be called that of a celebrated
German
author. Even though he had stuck to his native language throughout his
entire
career as a writer, Sebald had always remained peculiarly absent from Germany’s
literary world. Spatially removed – he had been living in Norwich for more
than thirty years when he
died – Sebald had led a rather secluded life, and had shown little
inclination
to participate in any kind of literary scene, let alone the German one.
This reluctance on the part of Sebald, the
person, to promote the books of Sebald, the author, resulted in a
peculiar
situation. In Germany,
his books were initially well reviewed, but otherwise went largely
unnoticed.
When translated into English, however, his works quickly became
surprisingly
successful, especially in the USA,
where Susan Sontag went so far as to propose Sebald as a possible
answer to her
rhetorical question ‘Is literary greatness still possible?’. To the
German
public, Sebald’s success in the English-speaking world came as a bit of
a
mystery, as no one could quite imagine how his peculiar German style
could
possibly be translated into English – the slowness of it, its
longwinded
sentences, its abundance of archaisms, its overall reminiscence of the
nineteenth century.
Obviously the reception of Sebald’s work in
the
English-speaking world and in Germany
was fundamentally different. In the English translations, the
foreignness of
Sebald’s style seemed natural and self-evident – after all, Sebald was
an
emigrant writing about emigrants. In German, where his style felt no
less
outlandish – as it seemed to date from a bygone era – Sebald’s books
created a
kind of awkwardness, as readers were unsure whether to regard his way
of
writing as headstrong traditionalism or self-conscious anachronism.
Either way,
Sebald’s success in the Anglo-Saxon world did not go unnoticed in Germany:
in the
years before his death, his novels finally started to find their way
into the
book shops, and Sebald received the prestigious Heinrich Heine Award.
Was Sebald a German author? He wrote in
German,
but the use to which he put his native tongue was so different from any
contemporary form of the language that this can hardly count as a
criterion.
Was Sebald an English author? ‘I have lived here for thirty years,’ he
said
shortly before his death, ‘and yet I do not feel in the least at home
here.’ It
seems as if there was no such thing as a home country for Sebald
anymore, only,
as for the emigrants in his novels, the loss of home countries. It
seems as if
Sebald had emigrated, permanently, into his books. Thus it would be
wrong to interpret
the above quote in the sense that Sebald did not enjoy living in Norwich. He had
been a
teacher at the University of East Anglia for many years, was Founding
Director of
the British Centre for Literary Translation, and among his students and
colleagues,
Max – as Sebald called himself in England – is remembered
with
warmth.
His role as a teacher of Creative Writing
classes, it may be added, was another factor which estranged Sebald
from Germany’s
literary world, as such workshops are
a phenomenon largely unheard of and often frowned upon in Germany.
It was
chiefly with this background that I interviewed Sebald in 2000, about
his
experiences with teaching aspiring authors, and about his view of the
differences between England
and Germany.
A conversation which might help us, now, to understand a little bit
better
where this permanent emigrant saw himself.
Source
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Ghi chú
trong ngày
Khi Milosz coi sự từ bỏ của
ông, cái lô
gíc toàn trị - một lô gíc có vẻ nuốt sạch mọi hoàn cảnh trí thức ngang
ngược,
khó bảo, trái nghịch… vào chính nó – như là “một cuộc nổi loạn của cái
bao tử”,
thì đây không giản dị là một chuyển động tiêu cực, nhưng là một cách
gìn giữ niềm
tin với những trực giác về điều tốt và giá trị thực.
Cố gắng giải thích, trong Cầm Tưởng, 1953, hoàn cảnh của mình,
ông miêu
tả một khoảnh khắc trong thời kỳ Đệ Nhị Chiến, khi, trong một đám đông
dầy đặc
luần quần tại một nhà ga xe lửa tại Ukriane, giữa những đinh tai nhức
óc của
những khẩu hiệu phát ra từ những chiếc loa phát thanh, ông nhìn thấy
một ông
chồng, bà vợ và hai đứa con thầm thì với nhau.
“Đó là một nhóm người, như hòn đảo nhỏ trong một đám đông, và đám đông
này
thiếu một điều chi rất ư riêng biệt để cho nó trở thành một cuộc sống
của con
người khiêm tốn, và bình dị."
Ui chao, đây đúng là ý nghĩ của
Gấu, khi
đang ăn hỏa tiễn của VC, co rúm người lại, vậy mà vưỡn không quên nhớ
đến… cô
bạn:
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi
nhớ bám
riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng
cơn hấp
hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những
giờ phút
lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung
quanh
thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu
thương
cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị
như thế
nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
NKTV
Mộ Gió
Truyện
ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Hồi ấy chị lên mười ba, em
nhỏ hơn
hai tuổi.
Mười bảy tháng Mười năm đó, ba má đi
đám giỗ, để hai chị em lại nhà. Lúc xách cặp chèo ra cửa má ngoái lại
dặn chị :
- Ở nhà coi chừng em...
Chị dạ. Má rải lời dặn dò nằm lển nghển khắp nơi. Chị
ngó ngoài sân thấy “Coi chừng ông trời chuyển mưa thì đem củi vô nhà“
và ”Đóng
cái cổng rào lại” đứng dựa hàng bông lồng đèn kêu cọt kẹt, bước vô nhà
vấp “Lấy
chổi rơm quét mạng nhện trên bàn thờ” và “Nhà hết gạo rồi, con lội bộ
lại đằng
tiệm mua nấu đỡ” thì nằm nép trong góc bếp. Ở sàn lãn gió thổi xập xòe
làm “Còn
mấy con cá rô đem kho tiêu” đập đuôi xao xác vách thùng.
Một mình chị làm bao nhiêu chuyện đó cũng xong, nhưng
em cứ cà nhổng chạy chơi với chuồn chuồn thì ức. Ba hay nói phải chia
việc mà
làm, “mỗi người có một bổn phận...”. Con trai kiếm cá con gái hái rau,
con trai
ra ruộng rẫy con gái vùi đầu trong xó bếp. Bao giờ con trai trở thành
đàn ông
nó có bổn phận đưa tay đánh, còn con gái (giờ đã là đàn bà) thì giơ
thân ra chịu
đòn. Vụ đó ba không dạy, hai chị em tự biết thôi.
Những bài học về bổn phận chị thuộc nằm lòng, nên khi
em đòi đi tiệm mua gạo thay vì bắc ghế quét mạng nhện bàn thờ, chị buộc
lòng gật
đầu. Làm chị phải nhường em.
Chị thích được đi tiệm để săm soi mấy cây kẹp tóc thèm
chơi. Nhưng tiệm cũng là thiên đường của em, với những cục kẹo sặc sỡ
như những
cái bong bóng sặc sỡ. Dù mỗi lần em đi tiệm dường như răng lại mòn hơn,
dù em
hay chểnh mảng kiểu như mua đường cát về tới nhà thấy cát nhiều hơn
đường, còn
lẫn lộn thêm mấy con cuốn chiếu. Bữa trước đi mua đậu trắng em về với
cái túi
không, đậu chảy theo cái lỗ thủng rải dọc đường như cô công chúa Mỵ
Châu để lại
dấu vết cho chồng. Bữa trước nữa em lội sông mang gạo về, má phải đem
mớ gạo ướt
mèm xay bột.
Sẽ xảy ra vài kịch tính ở quãng đường giữa nhà và tiệm
tạp hóa bà Tư Mốt: một nhánh cây gãy lộ ra ổ ong mật, một con diều của
ai đó
mắc kẹt trên đọt so đũa, một tiếng chim hót nghe gần... cũng làm chân
em chậm lại
mươi phút hay vài giờ hay hết phim, nếu nhà bà Tư Mốt đang mở một cái
phim võ
thuật kiểu như Ngôi chùa Thiếu Lâm tự.
Nên trưa ấy quá bữa rồi mà gạo chưa về tới nhà, chị tưởng
em còn hóng hớt đâu đó. Cái mẻ kho nằm nguội ngắt chờ cơm.
Nhiều ngày sau đó, khi xóm nhỏ nháo nhác vì một cư dân
mười một tuổi đã biến mất, chị vẫn nghĩ em đang chơi đâu đó. Chị giận
sôi những
người đã tỏ ra thất vọng khi không tìm thấy thi thể em, ở ngoài đồng
hay dưới
đáy sông. Một câu đố không tìm ra câu trả lời, ông trời cà chớn quá.
Nhiều tháng sau đó, khi ba má vẫn vật vã rã rượi, chị
vẫn nghĩ em đi chơi đâu đó sẽ về. Cho tới khi má rọi cái ảnh em hồi
mười tuổi
đặt lên bàn thờ, đứng chung với mấy ông bà già u mặc. Trong ảnh, em mặc
áo thun
vàng đồng phục của đội bóng nhi đồng trường lúc đang nhận giải ba cấp
huyện,
mặt em nghiêng về trái khoe mụt ruồi lớn như con ve chó, giống như hình
ảnh
cuối cùng của buổi sáng ấy chị ngó thấy em chạy vù đi.
Cái ảnh là kết cuộc cho những chờ đợi nhưng hi vọng đã
bay hơi theo ánh mặt trời. Má sực nhớ biết đâu thi thể thằng nhỏ trôi
ra biển hay
bị kẹt dưới chân cầu nào, rồi âm thầm tan rã. Biết đâu giờ hồn nó vất
vơ vất vưởng
đói ăn. Ba má bắt đầu kêu em về trong những bữa cơm. Có lần chị quên
không dọn
dư ra một cái chén, ba bợp tai chị cắm đầu, nói “đã kêu mày coi chừng
em rồi
mà...”.
Coi như chị đã được định tội xong, và định sẵn cho mọi
lỗi lầm dù chẳng mấy liên quan như chuột cắn ổ gà, dông làm ngã cây đu
đủ... Nếu
mỗi lần đau trên người chị mọc sợi lông, thì những lần má ngồi khóc bên
sông,
những lần ba buông đũa giữa bữa cơm bởi tiếng bầy trẻ trai đi bắn chim
ngang
nhà, những cái tết lặng lờ qua, những khói nhang tối tối, những lần giở
quần áo
em ra giũ bụi... đã biến chị thành con khỉ.
Và nếu mỗi lần đau là một giọt nước, một hạt cát thì chị
thành sông, thành đồi cát năm ba mươi tuổi.
Chị sống một mình. Mỗi khi định cười giòn thì chợt nhớ
mình đã để mất đứa em. Mỗi khi định lấy ai đó làm chồng thì nhớ trong
cơn mê sảng
má thảng thốt kêu Võ, Võ ơi. Mỗi khi định sống cho ra con người thì nhớ
ba lúc
lâm chung vuốt mãi mắt mới chịu nhắm.
Chị vẫn tin em đi chơi đâu đó. Nhà vẫn cặm trên nền cũ,
vườn cũ, kiểu cũ. Cây nào chết thì trồng lại y giống cây đó. Đoạn rào
nào gãy
thì được thay giống hệt. Chị chôn chị chỗ buổi sáng em guộn mấy tờ giấy
bạc mua
gạo vô dây lưng quần cộc xanh dương, áo màu xám tro lấm lem mủ chuối
vẫy tay rẽ
trái chạy vù về phía tiệm tạp hóa bà Tư Mốt. Lúc đi em không đóng cửa
rào làm mấy
con gà đi qua nhà hàng xóm bươi tơi bời giồng cải họ mới gieo.
Một bữa chị qua hàng xóm mượn trẻ con nhổ tóc ngứa, đang
ngủ gà gật, đang lúc hờn hờn cái thân mình chẳng có đứa nhỏ để sai vặt,
chợt
nghe bên nhà chó sủa. Chị hỏi vóng qua hào ranh. Người đó ngập ngừng:
- Cho tôi hỏi nhà chú Mười Hưng.
- Phải rồi, nhà ba tui đó, cậu kiếm ai?
- Em Võ nè, chị Hai...
Người đó nói vậy. Chị không biết cách nào mình đã về đến
nhà, bay, hay bò lết, hay nhảy ào xuống hào càn qua những dây rau
muống. Chỉ biết
chị phải về sụp xuống trước bàn thờ, để thưa:
- Đó, ba má thấy chưa, con đã nói là thằng Võ đi chơi mà...
Chị quỵ ở đó rất lâu, tóc xấp xải trải xòe ra đất, lưng
khum khum như một ngôi mộ. Chị không hỏi em đã đi đâu, chẳng ích gì...
Đàn ông
rong ruổi đường xa, đàn bà vạ vật ngồi canh cửa, đời phân công vậy mà...
Nguồn
Note:
Truyện này hao hao
chuyện đời GNV!
Thằng em bỏ đi xa, vô nước Nam Kỳ, hơn nửa thế kỷ sau, về, chị vuỡn
còn, Đất Bắc vẫn
còn, chỉ không còn đứa em!
Nó không làm sao nhận ra quê cũ, chị cũ!
Cũng
hao hao chuyện Lưu Nguyễn
lạc Địa Ngục.
Về.
Quê hương biến thành Thiên Thai!
Còn gọi là Thiên Đàng Xạo Hết Chỗ Nói!
|
|