|
Về
Nhà 2010
Gấu Cái
là người đầu tiên viết
về xứ Lào, chốn nương thân đầu tiên sau khi may mắn bỏ chạy, và may mắn
chạy
thoát, quê hương xứ Mít, ngay từ khi còn ở trại tị nạn Thái Lan.
Thời gian ở Trại
Cấm Sikiew, đói quá, bả viết, và gửi cho tay Hàn Lệ Nhân, khi đó đang
làm một số
báo đặc biệt về xứ Lào. Ông này ở Tây, và sau khi đăng bài, ông còn gửi
vô Trại
một số báo, trong kèm tờ money order 50 phật lăng.
Tuyệt!
Chẳng bù với ông bạn
quí, đi từ Mẽo qua thăm Gấu, loa phóng thanh kêu rầm trời, ông nhà văn
lùn lé có
bạn thân từ bên Mẽo qua, xin ban đại diện cho được gặp!
Ông đi cùng với một em
gái nữ phóng viên, sau khi hỏi han thằng bạn cũ, cũng ghi âm, cũng nói
thêm vài
dòng, tao mang về cho tụi nó nghe, chúng nó thèm nghe giọng nói của
mày, người
về từ địa ngục gì gì đó, cuối cùng, ông giúi cho GNV 300 tiền bath
[tiền Thái]
tương đương đúng 10 đô Mẽo!
Vợ
chồng Gấu sống sót Trại tị
nạn, những ngày khốn khó nhất, hoàn toàn nhờ ông cha người Tây, hình
trên. Đói
quá, là viết thư ra, là ông tới trại tù, mấy lần đầu, khi còn ở Nhà Tù
Quốc Tế Bangkok, sau, gửi money order, tệ lắm
cũng 100 đô Mẽo, hai, ba ngàn tiền bath gì đó.
Cả nhà
thờ Chúa.
Có ông em, sau khi phục
vụ Chúa tại Trái Tim của Bóng Đen, là xứ Phi Châu, cũng qua Thái, cũng
làm Cha,
hiện phục vụ Chúa tại tỉnh Ubon. Mấy bà chị cô em của Cha đều là nữ tu.
Cha năm nay 89 tuổi, vẫn minh
mẫn, tuy chân tuy run lẩy bẩy. Cha nói, Cha chỉ muốn ở Nhà Thờ, không
muốn đi đâu
hết, cho tới ngày Chúa gọi.
Không
chỉ một truyện ngắn,
Gấu Cái còn cả một lố truyện viết về Xứ Phật, hăm he in hoài!
Trong Asia Literary Review, số Mùa Hạ, có
một
bài viết thật là tuyệt vời về Lào. GNV mua tờ báo, vì bài viết này, và
bài thơ
của thi sĩ Mít ở Mẽo, làm thơ về cái cú làm thịt VC của tuớng Loan,
post dưới
đây.
Cái ông
bạn của Gấu, trong
hình, lai lịch cũng ly kỳ lắm. Thổ công xứ Lào. Bữa nào rảnh, kể.
Looking For Laos
Tìm Xứ Lào
Tác phẩm
của GNV & Thảo Trần tại thư viện
do thân hữu TV tặng
Tks. NQT
"BỖNG DƯNG MUỐN
KHÓC" VỚI THÀNH NHÀ MẠC TUYÊN QUANG
Ở tỉnh
Sơn Tây của GNV cũng có thành Sơn, đồn Tông..., không biết đã bị VC làm
thịt chưa?
Kafka’s Last Trial
During his lifetime, Franz
Kafka burned an estimated 90 percent of his work. After his
death at age 41, in
1924, a letter was discovered in his desk in Prague, addressed to his friend Max
Brod.
“Dearest Max,” it began. “My last request: Everything I leave behind me
. . .
in the way of diaries, manuscripts, letters (my own and others’),
sketches and
so on, to be burned unread.” Less than two months later, Brod,
disregarding
Kafka’s request, signed an agreement to prepare a posthumous edition of
Kafka’s
unpublished novels. “The Trial” came out in 1925, followed by “The
Castle”
(1926) and “Amerika” (1927). In 1939, carrying a suitcase stuffed with
Kafka’s
papers, Brod set out for Palestine on
the last
train to leave Prague,
five minutes before the Nazis closed the Czech border. Thanks largely
to Brod’s
efforts, Kafka’s slim, enigmatic corpus was gradually recognized as one
of the
great monuments of 20th-century literature.
Đốt 90
% tác phẩm khi còn sống.
Khi hấp hối, dặn bạn đốt tiếp!
Cuộc vượt thoát vào phút chót
của Brod mà chẳng thú vị sao!
GNV bất giác lại nghĩ đến
chuyến tầu chót của đám nhà văn Mít, nhờ làm cho Mẽo!
Nhờ vậy mà một nền văn
học đã được cứu tử!
@ Wasaga
Beach
Lạc hà
dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất
sắc
Ráng
chiều rớt xuống cùng vào
lúc cánh cò đơn chiếc bay lên
Mặt nước hồ và trời dài thăm thẳm cùng một mầu
Tưởng
nhớ Thảo Trường
Witness of
Poetry
Ocean Vuong
The Photo
After the infamous 1968
photograph of a Viet Cong officer executed by South Vietnam's
national police
chief.
What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the
pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.
Like all photographs this one
fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet
a white man
was lighting a cigarette.
ASIA LITERARY REVIEW
SUMMER 2010
Nhưng tôn vinh
cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm
thơ,
không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài
người, như
Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý,
đẩy đưa
đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi
phi lý ấy
chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ
chẳng bao
giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay
làm thơ
như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng
thì vẫn là
cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi
chi, biết
không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng
là tự
nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một
đời để
ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng
trăng” từ
“Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi
quán” đến
Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một
phương,” đến
Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu -
hỏi thực
cũng như chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi
đến đâu
- nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng
Chương
đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách
nói
thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì
mới biết
được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời?
Ai
biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết.
Thay nhau
nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng
ta cần
nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
TTT
GNV này cứ lần
lữa mãi, chưa làm sao dịch nổi vài dòng của Simone Weil, qua đó, chúng ta mới
hiểu ra được
Cái Đẹp của Thơ, đúng theo nghĩa của Dos: Cái Đẹp sẽ cứu chuộc thế
giới.
Chán thật!
Và có “tỉnh lớn” thì mới biết
được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời?
Ai
biết?
Thơ là
lời và hơn lời. Đã đến
lúc chúng ta cần nghe thơ.
Three
Poems by
Charles Simic
Migrating
Birds
If only I had a dog, these
crows congregating
In my yard would not hear the
end of it.
If only the mailman would
stop by my mailbox,
I'd stand in the road reading
a letter
So all you who went by could
envy me.
If only
I had a car that ran
well,
I'd drive out to the beach
one winter day
And sit watching the waves
Trying to hurt the big rocks
Then scatter like mice after
each try.
If only
I had a woman to cook
for me
Some hot soup on cold nights
And maybe bake a chocolate
cake
A slice of which we'd take to
our bed
And share after we've done
loving.
If only
these eyes of mine
would see better,
I could read about birds
migrating,
The vast oceans and deserts
they cross
And their need to return to
this shithole
After visiting many warm and
exotic countries.
Eternities
A child lifted in his
mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding
around him in the park,
Could they be the same person?
The
blind woman who may know
the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
All lit up in the night sail
past their kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.
All Gone into the Dark
Where's
the blind old street
preacher led by a little boy
Who said the world will end
next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark
naked and proud of herself?
Where's
the poet Delmore
Schwartz I once saw sitting
In Washington
Square Park gesturing
theatrically to himself?
Where's the young man in a
wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about
wanting to kill more Vietnamese?
Mr
Undertaker, sitting in a
window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of
us, equally in the dark
As you busy yourself around
the newly arrived dead?
LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
Note:
Cả ba bài đều tuyệt!
Rảnh, GNV sẽ dịch hầu quí vị, sau!
Ui chao, đọc cái câu về anh chàng thương
binh ngồi ghế lăn, được mẹ đẩy, miệng hô làm thịt thêm VC mà chẳng
‘lạnh’ sao?
Một độc
giả, cũng mới biết đến
trang TV ít lâu nay, do tình cờ, và trở thành một thân hữu, lần đầu
tiên
đọc thơ Joseph Huỳnh Văn, sửng sốt la lên, ‘lạnh’, y chang TTT!
Ui
chao, GNV này chưa từng thấy
có ai nhận xét, bằng cái tính từ ‘lạnh’, cho cả hai cõi thơ, như thế!
Nhưng hai cõi lạnh, trên, khác nhau!
On Poetry
The Age of Citation
By DAVID ORR
Published: September 17, 2010
Ngô
Bảo
Châu, Nobel Toán
Đi
‘giang hồ’, về, lục lọi mớ
sách ngổn ngang vì những lần dọn nhà, chỉ để kiểm chứng giai thoại giải
thích tại
sao không có Nobel Toán: Bà vợ của ông Nobel quả có lén lút quan hệ
‘ngoài luồng’,
‘lề trái’, với Mittag Leffler, một cây toán
người Thuỵ Điển vào lúc đó, và giả như có Nobel
Toán, ngoài ông này ra, còn ai xứng đáng hơn?
Giai thoại này còn cho thấy, toán
gia thì toán gia, có ai thoát ra ngoài thường tình?
Chứng cớ hiển nhiên, nóng hổi:
Nghe tin hành lang, ngoài ta ra thì còn ai nữa xứng đáng hơn, để lãnh
Fields, thế
là họ Ngô ta bèn vội vàng xin cái quốc tịch Tây.
Cái sự
xin vô quốc tịch Tây
này của NBC xem ra hơi giống GNV, khi hăm hở học tiếng Tây, từ những
ngày còn học
trường Nguyễn Trãi, Hà Nội, chỉ để làm sao viết được cái thư cám ơn Ông
Tây,
chồng Cô Dung của GNV: Không có ông, là không có GNV.
C'est à vous que je dois tout!
Có thể,
chính là do hăm hở
học tiếng Tây, mà GNV được hạnh phúc hạnh ngộ BHD, những ngày ở Sài
Gòn, vì ông
bô của em là một cây tiếng Tây, chủ nhân cả lố sách dậy tiếng Tây,
trong có bộ
Classes Francaises (?).
Ui chao, Gấu đã từng được em cho phép làm vệ sĩ, những lần theo
em đi đòi
tiền bán sách học tiếng tây của ông bố, tại một số tiệm sách ở
Sài Gòn!
Những
nhà toán học thù ghét
nhau, tất nhiên, nhưng họ thù ghét nhất, là những nhà vật lý học, theo
René Thom,
người Pháp, giải thưởng Fields 1958, khi 35 tuổi.
Thom,
tác giả câu GNV đã từng
thuổng, những nhà toán học thì buồn vì không thể chia sẻ niềm vui khám
phá với
những kẻ vô thần về toán [les mathématiciens sont tristes de ne pouvoir
faire
partager la joie de leurs découvertes aux non-mathématiciens], còn
là tác giả của Thuyết tai ương, thảm họa [Théorie des
catastrophes].
*
Il vient de recevoir la
médaille Fields, le « Prix Nobel » des mathématiciens.
Rencontre avec un
extraterrestre.
"On m’appelait “vit la nuit”
», se souvient Cédric [Villani]
Gặp gỡ người ngoài hành tinh có nick là 'vit
la nuit'.
Hình như cái tay Thái Dúi gọi
NBC là ‘viên ngọc của người nước Ngô’?
Đúng là những cái tên tiền định,
Của… Gấu: Khẩu súng của cả nước!
Gấu
được bạn PNC, trong Thất
Hiền, ban cho cái nick là Trâu Nước: Làm hùng hục như trâu!
*
Steiner, trong A Death of Kings,
cho rằng,
trước cái tuổi dậy thì, thì ba món ăn chơi ngỡ ngàng hứng thú, thứ ưu
việt, của
giống người là âm nhạc, toán học và cờ tướng. Liền đó, ông vinh danh
Lévi-Strauss và cơ cấu luận: Levi-Strauss nhìn thấy ở trong sự phát
minh ra
giai điệu “chiếc chìa khoá mở ra niềm bí ẩn tối thượng’ của con người –
nó là
cái manh mối mà nếu chúng ta mò theo thì có thể sờ vô được cái máy trời
đặc dị,
cái thiên tài chủng loại.
[Music and mathematics are among the
preeminent wonders
of the race. Levi-Strauss sees in the
invention of melody "a key to
the supreme
mystery"
of man - a clue, could we but follow it up, to
the singular structure and genius
of the
species].
Trước tuổi dậy thì?
Nhan sắc đó chớ nên tàn nhẫn
vội! Đinh Hùng
Vẫn
trong bài viết, Steiner
cho biết Mozart viết những dòng ‘thần nhạc’ - thứ âm nhạc đầy thẩm
quyền, không
thể nào nghi ngờ được, và quyến rũ, khả ái - trước khi lên tám [Mozart
wrote
music of undoubted competence and charm before he was eight]. Mới lên
ba, như
người ta kể lại, Gauss đã biểu diễn những cuộc chơi toán học rất ư là
rắc rối,
phức tạp, và khi chưa được 10 tuổi, cậu đã chứng tỏ mình là 1 nhà toán
học lanh lẹ thần kỳ và cũng khá sâu xa [At the age of three, Karl
Friedrick Gauss
reportedly
performed numerical computations of some intricacy; he proved himself a
prodigiously rapid but also a fairly deep mathematician before he was
ten]…
Kỷ niệm, kỷ
niệm
Đại Gia Gatsby
50 ngàn Kíp, tiền Lào. Mua tại Mường Luổng, Cố Đô Lào.
Xuất bản 'Đại gia Gatsby' ở
Việt Nam
Nhìn mặt nổi, thì
đúng như dịch giả, và đa số nhận định, The Great Gatsby (1925)
là một
tác phẩm phê phán xã hội Mẽo, giấc mơ Mẽo; ẩn tàng ở trong đó còn có cả
chủ
nghĩa bài Do Thái, nhưng đây chính là một câu chuyện tình thê lương,
được viết
bằng một giọng văn cay đắng ngọt ngào, doux-amer, chữ của Beigbeder,
không thể
nào bắt chước được, một giọng văn đạt tới đỉnh cao, sau khi tác giả của
nó phải
hì hục viết 160 cái truyện ngắn để mua áo dài cho bà vợ Zelda.
Cuốn
truyện còn mang hơi hám tự thuật, vì Gatsby, một cách nào đó,
chính là
Fitzgerald. Sinh tại Saint Paul, Minnesota, [hình như đây là nơi trú
ngụ và sau
cùng an nghỉ của nhà thơ TTT?], ông chẳng bao giờ thành công trong cái
việc lòn
lỏi vào thế giới của những đại gia, những câu lạc bộ của các tỉ phú, và
còn bị
đội banh football Princeton khinh khi, và không bao giờ qua khỏi vết
thương
lòng này! Mặc dù không như nhân vật của mình, bị làm thịt, tuy nhiên,
ông cũng
ngỏm năm 44 tuổi, vì nhậu, vì chẳng còn ai biết đến mình, 8 năm sau,
đến lượt
bà vợ chết cháy trong nhà thương điên.
Những cuốn tiểu thuyết lớn ghét người ta kính trọng
chúng. Chúng thích sống,
nghĩa là được đọc, vò xé, nghiền nát, đối chứng, tranh cãi, nhận chìm.
Đã đến
lúc phạng cho Hemingway một hèo. Ông dám nói đùa: Một tác phẩm lớn là
thứ mọi
người đều nói tới nhưng đếch có ai đọc.
Frédéric Beigdeber [phê bình gia của một số tạp chí như Voici,
Paris-Première, Lire…]
Beigdeber viết về Gatsby:
Những tiểu thuyết lớn đều có tính dự báo, prémonitoire. Colette phán,
‘tất cả
những gì người ta viết thì sau cùng đều trở thành thực’ [‘tout ce qu’on
écrit
finit par devenir vrai’]. Cái nước Mẽo tham tiền hám của, ích kỷ mà
Fitzgerald
mô tả ngày càng tệ hại đi và trở thành người tình của Trái Đất. Những
giấc mơ
huy hoàng sau cùng biến thành những cái lưỡi bằng gỗ nhớp nhúa [do nốc
nhiều
rượu quá]. Thế giới là một bữa tiệc, party, của lạc thú, một bữa tiệc
khởi đầu
tuyệt vời, nhưng kết thúc thật thảm hại, giống như cuộc đời [một tiến
trình phân
huỷ]. Đừng bao giờ tỉnh dậy. Fitzgerald là một người ngoan đạo, với ông
hạnh
phúc, phải sòng phẳng với nó, và tội lỗi thì phải bị trừng phạt. Tất cả
những
thần linh thì đều đã chết; những cuộc chiến, đã thực hiện, những hy
vọng ở con
người, lầm lạc [Tous les dieux morts; toutes les guerres, faites; tous
les
espoirs en l’homme, trompés. Fitzgerald: This side of Paradise].
Chỉ còn có mỗi một việc để làm là mô tả đám trưởng giả, quí tộc New York,
sáng ngời đến trở thành mù lòa, và sau cùng tắt ngấm, như những loài
khủng long
NKTV
Qiu
Thầy
Vũ
Gấu nhớ là, đã
học được qua thầy Vũ, câu của Pascal, trong 1 trong những giờ học trên.
Chúng ta đã xuống
thuyền. Nous sommes embarqués.
Câu ‘Chúng ta đã
xuống thuyền’ của Pascal thường được dùng theo cái nghĩa của đám hiện
sinh,
chúng ta đã nhập cuộc, đã dấn thân. Bữa trước đọc một bài viết của một
tay thi
sĩ ở trong nước lèm bèm về câu này, nhưng ông ta hiểu theo nghĩa, chúng
ta bị
ép buộc, bị đẩy xuống thuyền, và hình như ông còn nhớ sai tên chủ nhân
câu nói.
(1)
(1)
Còn hơn thế, nhà
văn hôm nay cần học chấp nhận sinh phận làm “kẻ bị đẩy xuống tàu”. Đây
là từ
dùng của Albert Camus. Không phải là nhập cuộc (engagement), bởi nhập
cuộc ít
nhiều còn mang tính tự nguyện, mà là bị đẩy xuống, theo nghĩa mạnh nhất
của từ
này. Ông thêm: Nhà văn như kẻ đi trên dây giữa hai bờ vực, một bên là
tuyên
truyền cho thế lực, bên kia là xa hoa giả trá. Hắn cần giữ thăng bằng
giữa hai
thứ quyền lực đầy cám dỗ đó. Hơn
nữa, giữa truyền thống và hiện đại,
dân tộc và
đất nước, tổ quốc và thế giới, trách nhiệm công dân và ý hướng tính
sáng tạo
của nghệ sĩ trước vũ trụ vô cùng. Do đó, hắn luôn phải chấp nhận
sống
cùng bấp
bênh và hiểm nguy thường trực. Vì chỉ như thế, hắn mới còn “sáng tạo”
theo đúng
nghĩa nguyên ủy của từ.
Insara
Thú thực, ông nhà
thơ này khủng quá, ông gán cho Camus nhiều câu, nhiều ý khủng quá. Hơn nữa, câu gạch đít trên, hình như sái văn
phạm, GNV đọc, mà thực sự không thể hiểu ý của nhà thơ định nói cái gì!
Camus quả là một
nhà văn đi trên dây, nhưng một đầu dây là quê hương Algérie mà ông chỉ
là 1 kẻ
ăn cướp, một tên thực dân, một tên ‘chân đen’, và một bên là nước Pháp
của ông,
cái dây này được đưa vào ám dụ, như là một bên là sự bần cùng, và một
bên là
ánh sáng mặt trời, mặt trời Địa Trung Hải.
“Il y a la beauté
et il y a les humiliés.”
“Le bonheur et
l'absurde sont inséparables”
“Il y a la beauté
et il y a les humiliés.”
Có cái đẹp và có
những người bị sỉ nhục.
Ui chao sao mà
đúng y chang tình cảnh Mít, trước và sau Anus Mundi [hậu môn của thế
giới]
Trước, cả nhân
loại nằm mơ ngủ dậy, biến thành Mít.
Sau, Mít, có
nghĩa là, bị sỉ nhục!
Vào thời cực
thịnh của Camus tại miền nam Việt Nam, trên tờ Sáng Tạo của nhóm, Thanh
Tâm
Tuyền đã coi Camus muốn làm một kẻ "juste", đứng ở lưng chừng trời,
ngó xuống thế gian... và kết luận: cái chết của Camus đã nhốt chặt ông
vào quá
khứ.
Khi gọi Camus là
một "juste", Thanh Tâm Tuyền gợi đến kịch phẩm "Những người công
chính" (Les Justes) của Camus, (bản tiếng Anh dịch là Những Tên Sát
Nhân
Chính Trực, The Just Assassins); người viết đọc, vẫn những ngày đầu,
thời mới
lớn, trong một thành phố Sài Gòn đang còn thanh bình, và chỉ còn nhớ
mài mại,
đây là về một tay khủng bố không chịu ra tay khủng bố, chỉ vì có những
đứa trẻ
tại hiện trường.
Ui chao, lại nhớ
đến tên khủng bố, VC nằm vùng DH, tà tà chạy Honda, tà tà thẩy bom vô
trạm gác
Ngụy, tà tà đi tiếp!
DH đã từng tuyên
bố, do đọc Camus mà đi làm Cách Mạng!
Có vẻ như, trong
khi vinh danh Vũ Hoàng Chương, TTT đã vinh danh Camus, như là một lời
tạ lỗi:
Làm thơ. Làm thơ
hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người
vào cõi
phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là
đời chúng
ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống
một đêm nào
ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy
với một
mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không
thể làm”
được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm
được mà
lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải
không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của
thơ và
của việc làm thơ.
*
Nhưng, liệu có ai
bị đẩy xuống tầu không nhỉ?
Ui chao, Gấu có
một kỷ niệm thật là tuyệt vời về một kẻ bị đẩy xuống tầu, là, bà cụ
thân sinh
của Gấu, những ngày tù cải tạo tại nông trường Đổ Hoà, Cần Giờ, chiến
khu Rừng
Sát ngày nào.
Thầy Chương
Lần cuối mà miền Nam tự do có
buổi sinh
hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào Tháng Ba năm 1975, tại phòng
trà của
Khánh Ly, do Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Ðã 35 năm tròn rồi.
Sau đó là
cảnh chia ly tan tác. “Vàng tung cánh hạc”... như ánh chớp chợt lóe rồi
vụt
tắt.
Dư âm còn lại là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi
tối đen
của thơ và nhạc...
QD
Tác giả nhớ lộn,
vì theo bài viết trên Diễn Đàn Thế Kỷ, post lại bài viết trên Văn, thì
đó là
ngày 16.1.1975.
Nhưng câu phán, "Sau đấy là cõi tối đen...", thì quả là thần sầu, bởi
vì, một cách nào đó, từ đó vọng lên câu của Holderlin:
Tại sao thi sĩ trong thời khốn kiếp?
Và cùng với nó, là những lèm bèm của Heidegger về đêm đen, về hậu kỳ,
mạt kỳ
của thơ, và nhất là những lời lèm bèm của ông, về Rilke: Thi sĩ của đêm
đen.
Bởi thế, mà Heidegger, trong "Tại sao thi sĩ, trong thời điêu đứng?",
coi Rilke là thi sĩ của đêm đen, của mạt kỳ, của thời điêu đứng.
Chỉ có triết gia, thì mới lèm bèm về thơ, tới chỉ, và chỉ có Heidegger,
với
kinh nghiệm, đã từng phò Nazi, thì mới phán về thơ thời mạt kỳ, tới
chỉ. Bài "Tại
sao thi sĩ trong đời điêu đứng?", quả là bảnh nhất trong những bài phán
về
thơ, và nhất là, thơ tù.
Giả như không có những ngày tháng điêu đứng, cay nghiệt đó, liệu anh có
yêu em
nhiều như vậy không?
Cầm Dương Xanh
Spy Hook, bản tiếng Tây,
trong bộ ba [Spy] Hook, Line &
Sinker
Prélude… truyện
điệp viên, nhưng trên
hết, còn là một
cuốn tiểu thuyết, thứ thiệt, có riêng cho nó một
sự tự
chủ, un vrai romnan, ayant sa propre autonomie.
Len Deighton, một văn phong,
thật duyên dáng, thật sang trọng, với chất hài bí mật, đặc Anh...
Berlin Xanh
Berlin-Kreuzberg:
Mùa Đông
1987. Qua những con phố xám xịt, Quân Cảnh Anh truy lùng Bernard Samson
- cựu
điệp viên dã chiến, bị thất sủng, bị ô nhục, và có lẽ, kẻ độc nhất cả
hai bên
đều hài lòng trừ khử, nếu tóm được.
Với Bernard, thành phố quê
hương tuổi thơ của anh có quá nhiều chỗ trú ẩn, cho một tên điệp viên
khi bị
săn đuổi.
Nhưng trong thành phố của
những mặt nạ và những bí mật, nơi có quá nhiều kẻ thù - cả hai thứ,
nhìn thấy,
hoặc không nhìn thấy – một điều kể như hơi bị chắc: chẳng chóng thì
trầy,
Fiona, bà xã của Bernard, phải đi bước đi kế tiếp, trên bàn cờ gián
điệp. Bỏ
ngũ, phản bội, nhân viên KGB, nhưng dù thế nào, dù cái gì đi chăng nữa,
thì
vưỡn là.. bà xã!
Và cái sự tái xuất hiện bất
ngờ, sững sờ, ngất ngư… của Fiona sẽ tạo
ra một xen hứa hẹn nhiều gay cấn, và sẽ là xen tàn cuộc cho tất cả.
Nếu cứ
tin mấy dòng tóm tắt nội
dung ở bìa sau, như trên thì bạn sẽ thật ngỡ ngàng, khi đọc hết, chỉ
chương đầu
của cuốn Spy Line. London có
thể không, nhưng tay trùm MI6 ở Berlin nếu thực sự
muốn khử Samson, thì thực dễ ợt, vì chính ông ta đã cho một tay đánh xe
đến chỗ
trú ẩn của Samson, mời tới dự một xen hỏi cung một anh KGB trở cờ, để
tham khảo
ý kiến, vì Samson vốn là một tay nhà nghề, trên cả nhà nghề, trong vai
trò điều
tra này. Xong, còn mời về nhà, giới thiệu bà vợ tuyệt đẹp của anh ta,
và cái
xen ở nhà này mới thê luơng làm sao, chứng tỏ Deighton, quả đúng thi sĩ
của
truyện điệp viên, và có lẽ phải thêm, một thi sĩ buồn!
Ghi chú
trong ngày
"Vĩ Đại
Thay, Là Đồn
Công An!
Đó là nơi tôi có hẹn với Nhà
Nước."
'What a great thing is a
police station!
The place where I have the
rendez-vous with the State'.
[Phu quân tôi, nhà thơ]
Mandelstam thường nhắc câu trên, của Khlebnikov.
Nadezhda
Mandelstam: Hy Vọng
Chống Lại Hy Vọng
|
|