|
Sinh
Nhạt Gấu!
Back from school
Nạn nhân bắt cóc Dugard lên
tiếng
Jaycee Dugard, nạn nhân người
Mỹ bị cóc, lần đầu tiên phát biểu công khai kể từ khi người ta tìm thấy
cô sống
cùng với những người bị cho là đã bắt cóc cô cách đây 18 năm.
BBC
Cái tít, và dòng tiếp theo,
hiện diện cũng lâu lắm rồi, trên Bi Bì Xèo. Gấu đã tính lèm bèm, nhưng
cũng ngại,
vì đã lèm bèm nhiều lần rồi, về trình độ viết tiếng Việt của ông Yankee
mũi tẹt
làm cho Đài này, và cũng hy vọng sẽ có người lên tiếng.
Lâu quá, nhịn không nổi nữa, đành
phải xì ra vậy.
Nạn nhân bắt cóc Dugard
lên
tiếng là cái quái gì?
Đọc mới ra là, “Nạn
nhân bị bắt
cóc, cô Dugard, lên tiếng”
Câu dưới, “bị cóc” là bị cái
quái gì?
Câu văn bị thiến mất, chữ “bắt”.
Obama
[Nobel]
vs
Putin [contre les Droits de l'Homme]
Ở Nga, những người tranh đấu
cho nhân quyền là những nạn nhân đầu tiên
của những vụ vi phạm nhân quyền mà họ tố cáo.
Bị coi như kẻ thù của nhân
dân, bởi chế độ, họ bị đánh đập, bắt bớ, tra
tấn. Và làm thịt.
Ui chao, đâu có thua
gì đàn em VC!
Làm sao thua?
by Hendrik Hertzberg
October 19, 2009
And I
know that throughout
history the Nobel Peace Prize has not just been used to honor specific
achievement; it’s also been used as a means to give momentum to a set
of
causes. And that is why I will accept this award as a call to action, a
call
for all nations to confront the common challenges of the twenty-first
century.
Obama
Hơn ai hết, O. hiểu tại sao ông
được Nobel. Cái gọi là “momemtum” của ông sau này sẽ được coi như là
tay da đen đầu tiên tạo ra cú hích, trở thành tổng thống Mẽo, và, tạo
cú hích, rửa
nỗi nhục tra tấn cho cả Mẽo đen lẫn Mẽo trắng, lẫn Mẽo da mầu!
Liệu có ai còn nhớ, Norman
Borluag, là ai?
Hầu như chẳng ai.
Ông là một nhà nông học, người
Mẽo, đã từng được Nobel Hòa bình, vào năm 1970.
Người đã tạo ra phép mầu về mùa
màng, vị cha già của cuộc “cách mạng xanh”.
Có thể, Obama sẽ không bị quên như vậy! (1)
(1) ...
. Si le public ignore son
nom, c'est bien que la renommée n'a pas grand-chose à voir avec le
services
rendus à l'humanité.
Qui se souvient qu'un autre
agronome - américain, celui-là -, Norman Borlaug, reçut le Prix Nobel
de la
paix en 1970? Pratiquement personne. Et pourtant, Borlaug fut celui qui
mit au
point au Mexique les semences « miraculeuses» et les techniques
agricoles dont
Swaminathan s'est servi en Inde. C'est la collaboration entre ces deux
hommes,
entre Mexico et Delhi, qui a
donné
naissance à ce que l'on a appelé la « révolution verte » dans l'Asie
des
moussons.
La carte de
la famine coïncide avec celle
des ideologies
fausses
*
Có vẻ
như, ngoại trừ thằng
cha Gấu này ra, không một ai để ý đến cái chuyện Obama rửa nhục cho
nước Mẽo
[phục hồi nhân phẩm, chữ của VC] khi nói KHÔNG với tra tấn?
Và thằng Gấu bèn ngớ người, tự
hỏi, tại làm sao mi lại là cái thằng độc nhất nhận ra điều này?
Và nó bèn hiểu ra rằng thì là, hình ảnh, tay quận trưởng đá binh binh
vào cái thân người lăn lộn
trên mặt
đê sông Hồng, đã đi theo suốt cuộc đời thằng bé Bắc Kít ngày nào.
Và ở dưới đáy sông kia, là xác ông già của nó!
*
Thì ra ông Nguyễn Quốc Trụ
(NQT) đã ngoài bảy bó, cây đa cây đề của làng văn báo hải ngoại có gốc
Bắc Kỳ
[tức Yankee mũi tẹt?]….
Lê Diễn Đức: talawas.
Cái cụm
từ ‘tức Yankee mũi tẹt’
của “cái tay quê Hưng Yên” này, để giải thích nó, Gấu phải viện tới
Jean Améry,
thực hiện "cú đúp": vừa giải thích “cũng Yankee mũi tẹt”, vừa giải
thích, “tại sao bác
ghét talawas? (1)
Le lecteur, s'il veut bien
consentir à se joindre à moi, devra m'emboîter le pas dans cette
obscurité que
j'ai voulu éclairer justement pas à pas. Ce faisant, il se heurtera à
des
contradictions dans lesquelles je suis tombé moi-même. Ainsi, dans le
passage
sur la torture, la signification que je devais donner au concept de
dignité ne
m'était-elle pas claire du tout, et je l'écartai pour ainsi dire d'un
geste de
la main, alors que plus tard, dans mon travail sur la condition juive,
j'ai cru
comprendre que la dignité est le droit à la vie que vous confère la
société.
De même, tandis que
j'écrivais sur Auschwitz et la torture, je ne comprenais pas encore
clairement
que ma situaation ne pouvait se ramener entièrement au concept de "victime
nazie" ; ce n'est qu'en arrivant à la fin de mon travail et en
méditant sur la nécessité et l'impossibilité d'être juif que je me
reconnus
aussi dans l'image de la victime
juive.
Nói rõ hơn, chỉ một thằng Bắc
Kít di cư 1954 thì mới đau
cái đau thắng trận hai lần: Một, như là ‘nạn
nhân
Nazi’, một, như là ‘nạn nhân Do
Thái’!
Gấu ngộ [độc] điều
trên, không phải do đọc Jean Améry, mà là do lần mò xuống sông Mekong tắm,
trong những ngày chờ vượt sông,
qua đất Thái, và nhìn thấy cái xác của Gấu trôi lềnh bềnh trên mặt
sông.
Gấu đã
lai rai ba sợi về chuyện này, nhiều lần rồi, cơi như là cái cớ,
prétexte, để
phạng chính Gấu, và những đấng bạn quí của Gấu!
(1) Nguyên văn bài
viết
Bài đọc thêm:
Tin Văn vs
Talawas
*
30 /4
À, nhân tiện nói tới 30/4, năm nay người ta vẫn cho nghỉ lễ lớn, 4
ngày, nhưng
không mít tinh hội họp rầm rộ cờ hoa như mấy lúc trước, có lẽ phần
nào âm
thầm thừa nhận sự đau đớn của cái chiến thắng năm 34 năm trước.
Có thể vài năm nữa, ngày 30 tháng tư sẽ được gọi là ngày thống nhất hơn
là ngày
giải phóng, dinh thống nhất có lẽ cũng sẽ được “ trả lại tên cho em”
thành dinh
độc lập. Biết đâu được!”
“ trả lại tên cho em “ là tên tập cuối của bộ phim truyền hình “ biệt
động sài
gòn”
Vượt quá tội ác và hình phạt
Jean Améry
Tựa lần xuất bản năm 1966
PAR-DELÀ LE CRIME ET LE
CHÂTIMENT
ESSAI POUR SURMONTER L'INSURMONTABLE
Comment
"penser" Auschwitz quand on en
réchappa ? Que faire du
ressentiment? L'esprit peut-il sortir indemne de la confrontation avec
l'univers
concentrationnaire? La foi est-elle indispensable à l'âme révoltée?
En 1943, Jean Améry fut
torturé par la Gestapo pour son activité dans la Résistance belge, puis
déporté
à Auschwitz parce que juif. Au long
des pages
de cet Essai pour surmonter l'insurmontable, l'écrivain autrichien
explore avec
lucidité ce que l'univers concentrationnaire lui a enseigné sur la
condition de
tout homme meurtri par une réalité monstrueuse. Ce livre "sur les
frontières de l'esprit" est la manifestation éclatante d'un esprit sans
fronntières, d'un humaniste rayonnant.
Né en 7972 à Vienne, Hanns Maier - qui prit
en 7955 le
nom de Jean Améry - étudia la littérature et la philosoophie. En 7938,
il
émigra en Belgique. Après la guerre et sa déportation, il retourna à
Bruxelles
et se consacra à une œuvre critique et littéraire d'une véhémence et
d'une élégance
remarquables, couronnée par de nombreux prix. Il s'est donné la mort en
7978 à
Salzbourg.
*
Làm sao 'suy tư" Lò Cải Tạo, sau khi thoát ra?
Liệu cái đầu vẫn còn nguyên, sau cú Lò Cải Tạo?
Liệu Niềm Tin, phải có nó, nếu muốn làm... VC?
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Je te serre dans mes bras
or je pense déjà à toi les jours qui viennent
Ôi, ôm Em trong tay,
Mà đã nhớ Em
Những ngày sắp tới
Après
ma libération, sur le
chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier
et
écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je
ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis
toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au
camp : « II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe,
comme si
rien n'était modifié. »
Et maintenant je me dis : «
Quand serai-je capable d'une telle chose ? » Pour re-écrire.
Propos recueillis et traduits
par Le Huu Khoa
Khi ra
khỏi trại tù, trên
đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ
lưu giữ
trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi
chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ,
khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy
ra,
chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi:
"Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy?" Để lại viết.
L'Express 8-14 Oct 2009
60 năm rồi ư? Vậy mà tưởng mới hôm qua, vẫn bắt người chỉ bằng
một cái lắc, hay gật đầu!
“A
hero who didn’t like heroism”
Marek Edelman, the last
military commander of the Warsaw
ghetto uprising,
died on October 2nd, aged 90
Thủ lãnh sau cùng, người chỉ huy cuộc nổi
dậy Warsaw,
mất, thọ
90 tuổi.
“Một vị anh hùng không thích chủ nghĩa anh hùng”
Nobel
văn chương 2009
Tôi ra
đi được là một may
mắn. Tôi đã ra đi quá muộn, bởi vì tôi đã bị bầm dập quá lâu. Điều đó
mới là
vấn đề, chứ không phải chuyện tôi ra đi. Ơn trời là còn có một nước
khác, nơi
người ta có thể đến và tôi có thể hòa được cùng ngôn ngữ. May mắn này
không
phải người ra đi nào cũng có được.
Muller
Ui chao, đúng là nói giùm Gấu!
Tuyệt thật.
Khi Gấu
mới tới trại tị nạn, gửi thư cầu cứu ma đàm TD, nhờ bà, và nhiều người
khác nữa sau đó, lên tiếng [viết
thư cho ông chủ tịch PEN MIT HAI NGOAI...], Gấu "đi" được.
Cái thư đầu tiên Gấu nhận từ bà, là, sao đi muộn thế, hết mùa vượt biển
từ lâu rồi.
Nhớ, khi đó, đọc, nản vô cùng, không lẽ lại quay về? NQT
*
Thời
gian là chiến thắng vượt
quá sự thất trận, và chiến thắng này là một điều mà những kẻ thắng trận
không
thể nào tiên đoán, hay hiểu được. Một chốn tới, một bãi biển lánh nạn ở
bờ bên
kia của sự bại trận, những cái tên trên những nấm mồ chỉ đường, được
nâng niu,
gìn giữ không phải bởi vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ thần chiến
tranh với
cành cọ vàng và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con hầu, một đầy tớ gái,
của
chính sự thất vọng chán chường. Và cô bé đứng trầm ngâm, bất động.
Con người thực ra đâu cần sự
thành đạt, cho lắm. Điều này lại càng đúng, ít ra là, đối với cả một
quốc gia,
một dân tộc. Về cái chuyện này, thất bại có khi lại là một điều tốt,
cho nó.
William Faulkner đọc Con
Đường Trở Lại, The Road Back, của Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu
luận, Diễn văn, Công Thư [Public Letters], nhà xb The Modern
Library, NY, ấn
bản 2004.
Quãng
đời của Gấu, thời gian
sau này, khi đã ra được ngoài này, quả đúng như sư phụ Faulkner phán ở
trên, một chiến thắng vượt quá sự thất trận, và chiến thắng này VC
không thể
tiên đoán được!
Sau hai lần về, thoát nhục,
và thoát chết, Gấu càng ngộ ra điều này.
Thoát nhục, thoát chết, là
chuyện có thiệt.
Thoát nhục, thì như Gấu đã
lèm bèm nhiều lần, nhờ một ông bạn nhà văn VC báo động.
Thoát chết, như sau này Gấu
được biết, qua lời nhắn của một người bà con, qua một người bà con: Nói
với nó,
đừng bao giờ có ý nghĩ trở về nữa. Hai lần về mà thoát chết, là may lắm
rồi.
Không có lần thứ ba đâu.
Đừng có ngu mà len lén về!
Bát
Nhã
Thơ
trí tuệ vs Thơ tình cảm
Bản
dịch của Đào Duy Anh
chép: Quản chi lên thác xuống ghềnh/ Cũng toan sống thác với tình cho
xong (câu
1951, 52). Nhưng theo ông Bảo, câu đó phải là Quản chi trên các dưới
duềnh.
Theo ông, câu này dựa theo 2 điển tích về hai nhà thơ đời Sở, Hán là:
"Dương Hùng đầu các nhi tử, Khuất Nguyên tự trầm Mịch La" (Dương Hùng
đâm đầu từ trên lầu gác xuống chết, Khuất Nguyên nhảy xuống sông Mịch
La tự vẫn).
Các nhà khảo cứu hiện đại có
lẽ đã bỏ qua tích này, và đều theo Kiều Oánh Mậu chữa thành lên thác
xuống
ghềnh. Mới đọc tưởng có vẻ hợp với anh lái buôn Thúc Sinh, nhưng lại
không đúng
cốt truyện và không thể hiện được vốn kiến thức uyên thâm của Nguyễn Du.
Tuyệt!
Tuy nhiên, cái sự sai lệch này,
theo Gấu, là do nhân gian muốn có một bản Kiều dễ đọc, dễ hiểu, so với
bản Kiều
của tầng lớp tinh anh, tinh thông điển cố.
Nguồn
Tạp chí Talawas
nặng học thuật hơn tôi hình dung. Điều này có lẽ cũng cần thiết trong
hoàn cảnh
sách vở học thuật rất ẹ của VN hiện nay. Nhưng có lẽ cần thêm bài của
các tác
giả Việt để cân bằng với số lượng các bài dịch. Chúc thành công.
Phan Nhiên Hạo
Cá hoá rồng!
Chúc
mùng, chúc mừng! NQT
Đọc lại
V[I]P
Bây giờ
Gấu mới có thì giờ đọc ông
đại phê bình nâng bi ông tiên chỉ.
Có một
lúc anh đi ra bàn làm
việc ở góc nhà, mò mẫm, rồi đem lại chỗ chúng tôi trang nhất của tờ
Việt Herald
số gần đây đã gấp nhỏ lại để góc dưới tay mặt của trang báo nằm ở trên,
cho
thấy bài tôi mới viết, “Câu chuyện văn học miền Nam: Tìm ở đâu?”, bài
đã và
đang gây nhiều thảo luận thú vị. Anh đưa tôi coi, tôi nói, “ô, như vậy
là anh
đã đọc bài này rồi.” “Đọc rồi nhưng quên rồi,” chị nói hộ anh. Tôi cụt
hứng,
tính kể anh nghe, song bỏ ý định đó, về vài ý kiến của người đọc đăng
dưới bài
đó trên trang Blog Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn Hữu tại website của đài
Voice of
America. Chị bảo tôi, “bây giờ ảnh không nhớ những chuyện vừa xảy ra.”
Quả là anh không nhớ những
chuyện vừa mới xẩy ra, vì một lúc sau, anh chợt nhìn thấy trang báo còn
nằm
trên mặt bàn, chỉ cho tôi thấy tên tôi dưới tựa bài báo, như thể anh
mới nhìn
thấy lần đầu.
Trùng Dương: Viễn
Phố: Người đàn bà đằng sau bộ ‘Văn Học Miền Nam
1954-75’
Tiền
Vệ
May
mắn thay, cũng trong thời gian này, vào đầu thập niên 1980, có tin về
việc cơ
quan Social Science Research Council (Brooklyn, New York) cùng phối hợp
với cơ
quan American Council of Learned Societies (New York, New York) thành
lập một
Ủy ban Liên hợp về Đông Nam Á (Joint Committee on Southeast Asia). Họ
rao nhận
đơn xin học bổng để nghiên cứu về các vấn đề của Đông Nam Á, đúng ra là
về ba nước
Việt, Miên và Lào, do ba cơ quan Ford Foundation, National Endowment
for the
Humanities và Henry Luce Foundation đứng ra tài trợ. Học bổng, nếu tôi
nhớ
không sai, là trên 20,000 Mỹ kim, với thời hạn nghiên cứu là một năm.
...
Dù vậy, hai đề án nghiên cứu
khác cùng nạp và được chấp thuận (cùng năm với dự án nghiên cứu về báo
chí miền Nam
của nhóm Đỗ Ngọc Yến và các bạn) đã tạo được những thành quả đáng kể.
Đó là đề
án nghiên cứu văn học miền Nam 1954-1975 của nhà văn Võ Phiến, mà kết
quả là
cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, đã xuất bản đến lần thứ ba và hiện có
tại Việt
Nam Thư Quán trên Web (**). Việt Nam Văn Học Tổng Quan là cuốn đầu của
dự án
bẩy cuốn sách mà nhà văn Võ Phiến đã hoàn tất trong đời sống lưu vong.
Đây cũng
là cuốn sách đầu tiên viết về nền văn học miền Nam, 1954-1975, một thời
kỳ có
lẽ là phong phú tưng bừng nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. (Độc giả
muốn
tìm hiểu những yếu tố đã đóng góp vào sự phồn thịnh của văn học miền
Nam trong
vòng có 20 năm ngắn ngủi ấy nên đọc bài viết "Văn học miền Nam" của
chị Thụy Khuê, RFI, Pháp.)
Trùng Dương: Văn học miền Nam: Những nỗ
lực hải ngoại thập niên đầu 1975-1985
Blog NXH & Bạn bè trênVOA
Đoạn
trích dẫn, trên, cho thấy:
Võ Phiến có lẽ đã bị bịnh đãng trí của những người già.
Đoạn dưới cho thấy: Bộ Văn Học
Sử Mít, ở hải ngoại, của Võ Phiến, được viết bằng tiền của Mẽo.
[Tiền của ai thì cũng được. Nhưng đúng ra Võ Phiến phải ghi rõ sự kiện
này, trong tác phẩm của ông. Lần đầu đọc VH Tổng Quan, Gấu nghĩ, có vị
Mạnh Thường Quân nào, hoặc cộng đồng Mít hải ngoại, chi tiền]
Note: Làm gì có cái Uỷ ban Nghiên cứu Khoa
học Xã hội, mà chỉ có Social
Science Research Council, thưa
ông Võ Phiến.
Và có cái gọi là
"Joint Committee on Southeast Asia", như Trùng Dương cho biết, ở trên.
Lẽ ra ông nên công khai lên tiếng và tạ ơn Mẽo, thì mới đúng, bằng cách
để đúng cái tên bằng tiếng Mẽo của nó, cái cơ quan đã cấp cho ông trên
hai
chục ngàn đô! (1)
[Hình như là 25 ngàn. VL cho biết, cũng đợp được cùng một số tiền như
trên, để viết về Thơ, còn VP, về Văn]
Bây giờ lên tiếng vẫn còn kịp!
NQT
(1)
Đừng nghĩ là Gấu này
vạch lá
tìm sâu. Đây là một sự kiện rất quan trọng. Trong hợp đồng, khi lấy
tiền, có thể
có ghi khoản này.
Bữa nào rảnh, Gấu viết về vụ “thế giới tự do” lấy tiền của Xịa,
viết văn, mà không ai hay, đến lúc ngã ngửa ra, thì đều có mùi đô la ở
trong kít
rồi!
Sự giúp đỡ về tài chánh?
Hình như "thuật ngữ" được sử dụng ở đây, là, một cái "lôn" [loan]? NQT
Một vấn đề bỏ ngỏ: Giả như không có lôn, không có phân [fund], liệu có
Văn Học Tổng Quan, có các hội đoàn, cộng đồng Mít hải ngoại?
*
Tờ Le Magazine Littéraire
có tới
hai số về Zweig.
Bài viết Võ Phiến, nhà văn Bình Định của Gấu, dựa trên số báo
cũ hơn,
không nhớ số.
Kiếm
thấy rồi. Số Tháng Hai
1997, một trong những số báo đầu tiên của Gấu, ở hải ngoại, thời gian
viết cho
Văn Học của NMG.
Cái tít nhà văn Bình Định,
dành cho VP, là từ cái tít Zweig, nhà văn Âu Châu.
Gấu nhìn ra quan hệ thầy trò
giữa hai ông nhà văn. Zweig, là từ địa linh nhân kiệt, ông thần đất Âu
Châu, mà
ra. Còn VP, từ Bình Định, và tất cả những địa linh nhân kiệt của nó, và
cùng
với họ, là những giấc mơ "hoang đường": Viết lại căn cước, lịch sử,
và con người Mít qua những chiến công của Nguyễn Huệ: Vượt sông Bến
Hải, ra
Bắc, làm cỏ Mãn Thanh, dọn sạch Kít Bắc!
*
Trong những lần đụng trận với
NTV, Gấu có kể, về cái cú mặc khải Cái Ác Bắc Kít, vào một buổi tối,
[hình như
vậy, một buổi tối], ở một thư viện Toronto, cầm lên cuốn Ngôn ngữ và
Câm
lặng... thì anh lắc đầu, cái mày thấy
đó, là ở trong mày. Steiner chỉ như chất xúc tác, làm bật nó ra. Chứng
cớ là,
tao đã từng đọc cuốn đó, ở Sài Gòn, vào những năm 1960, mà đâu có ‘mặc
khải’
như mày!
Tất cả những "mặt
dầy" đi xin làm bồi, viết không công cho Chợ Cá, cho diễn đàn xứ khỉ ho
cò
gáy Kông Gô Ru… là đều do gợi ý của NTV, những ngày sau đó. Anh biểu
Gấu, mày phải viết cho tất cả các “mặt trận”, để “hoành dương”, ‘thông
tri” về
Cái Ác Bắc Kít đến cho đám Mít hải ngoại, và trong nước. Một khi nhìn
rõ kẻ
thù, thì mới mong có ánh sáng ở cuối đường hầm.
*
Khi tính nhìn lại VP, là Gấu hy vọng ông đọc, và có thể, ông sẽ có vài
lời, mà chỉ có ông mới có thể, về bộ sách của ông. Nhưng, không kịp nữa
rồi, qua đoạn trích dẫn trên cho thấy.
Giống như trường hợp đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Mộng
Giác. Gấu hy vọng, người còn sống, sẽ có cơ hội để 'sửa chữa' một vài
điều 'sai sót' của tác phẩm.
Nhưng có vẻ, chẳng ai cần.
Chán thế!
Gấu còn bị hiểu lầm, là 'vô ơn', 'có vẻ như Hai Lúa không ưa NMG'...
[Lại] chán thế!
NQT
Tribute
to PCL & VHNT
Thông
báo của Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng
Sau 9 năm hoạt động trên internet (1995 - 2004), VHNT quyết định đình
bản vì nhiều khó khăn trong việc điều hành và biên tập trong năm vừa
qua. Thành
thật cám ơn sự ủng hộ của bạn đọc, các thân hữu cộng tác trong thời
gian qua.
Trân trọng
Nguồn
Dọn
|