|
In a
surprise, Obama wins Nobel Peace Prize
Tổng Thống Da Đen Đầu
Tiên Của Mẽo được Nobel hòa bình
Tuyệt Cú Mèo!
Nobel
văn chương 2009
"The
most overwhelming experience for me was living under the
dictatorial regime in Romania.
And simply living in Germany,
hundreds of kilometres away, does not erase my past experience," Müller
has said. "I packed up my past when I left, and remember that
dictatorships are still a current topic in Germany."
Đoạn trên, được BBC dịch phóng
là:
Với sự trải nghiệm quá lớn
trong chế độ độc tài cộng sản tại Romania, bà Herta Mueller
từng nói:
“Tôi đóng dấu ấn lên quá khứ của mình và chúng ta hãy nhớ rằng chế độ
độc tài
vẫn còn là chủ đề hiện tại ở nước Đức”.
Nguồn
Câu
tiếng Việt, không chỉnh:
1. Với sự trải nghiệm quá lớn
trong chế độ độc tài cộng sản tại Romania, [thì sao?], rồi
mới tới câu,
bà Herta Muller đã từng nói.
2. “Tôi đóng dấu ấn lên quá
khứ của mình và chúng ta hãy nhớ rằng chế độ độc tài vẫn còn là chủ đề
hiện tại
ở nước Đức”.
Câu này sai. Đúng ra, bà tính
nói như vầy, tôi ôm gọn quá khứ mà mang đi theo cùng với tôi.
Cái tít
cuốn mới
nhất của bà giải thích rất rõ, ý này:
Atemschaukel (Everything I
Possess I Carry With Me: Chúng
ta đi mang theo quê hương, gà chó gì cũng đừng bỏ lại)
Đây là kinh nghiệm
1954 của Dân
Bắc chúng ta.
Câu
trên Gấu mạn phép BBC dịch
là:
Kinh
nghiệm dữ
dằn nhất đối với tôi là sống dưới chế độ độc tài ở Romania.
Và cái chuyện, giản dị sống giản dị đời mình ở Đức, cách xa đó hàng
trăm cây
số, chẳng làm sao xóa được kinh nghiệm quá khứ đó của tôi. Tôi mang
theo cùng
với tôi quá khứ đó, và luôn luôn nhớ, rằng, những chế độ toàn trị thì
vẫn là
một đề tài hiện tại ở Đức.
Gấu không hiểu 'đóng
dấu ấn' nghĩa là gì, ở đây.
Ở trong Nam,
một trong những cách sử dụng của
nó, thí dụ, là:
Tớ đã đóng dấu ấn [của tớ, tất nhiên] lên em đó rồi!
Tuệ
Sĩ, điệp khúc Dương Cầm
Đặng Tiến
Lướt
Tin Văn Cũ
Tuổi Bụi
Nhờ tù VC, Gấu tôi phát giác ra
được, ít nhất là hai chân lý, rất ư là tuyệt vời,
một liên quan tới cơ thể con người, và một, tới miếng ăn là miếng tồi
tàn.
*
Đã có lần Gấu
ví von, anh chàng Thiệp ở trên núi Hu Tát hạ sơn, la ỏm tỏi,
Không Có Vua, đâu có khác gì Zarathoustra
của Nietzsche truyền giao "tin mừng", Thượng Đế đã
ngỏm củ tỏi.
Thượng Đế ngỏm
củ tỏi, Con Người, ở đây tập trung vào một người, có tên là Đảng,
thay thế.
Tới Tuổi Bụi,
Con Người cà chớn này bắt buộc phải đem ra mần thịt.
Đây là thông
điệp thứ nhì của NHT.
*
Hồi đọc Cửa Tùng Đôi
Cánh Gài của Nhất Hạnh, khi nó mới ra lò, Gấu còn trẻ măng,
"chàng" cứ nghĩ, chuyện Phật Giáo. Về già, mới vỡ ra, đây là nói về một
anh chàng... VC, từ biệt thầy, là Marx, hạ sơn, đi tìm quỉ để giết, trừ
hại cho
dân lành, cuối cùng khám phá ra, chính mình mới là quỉ, do tu luyện
chưa tới
nơi, hiểu sai Marx.
Kính chiếu
yêu, là lý thuyết, là tinh tuý của chủ nghĩa Marx. Cây gươm thần,
đám đệ tử Marx không kiếm ra, vì bị Rùa Thần ở Hồ Gươm mang đi tuyệt
tích giang
hồ. Không có gươm thần thì đành thay thế bằng tra tấn, bằng khủng bố.
*
Torture,
writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured.
Sebald: Chống
Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử
tự nhiên về huỷ diệt [Against the Irreversible. On Jean Améry.
On the
natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].
Améry viết,
tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng
bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo
Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra
tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời
Nhật Ký Tin Văn
Fight for Kafka's Papers Winds
through Israeli Courts
By Christoph Schult
Before his death in 1924, Franz Kafka left his papers to Max Brod who
rushed
them out of Czechoslovakia
ahead of the advancing Nazis. Now, the daughter of Brod's late
secretary wants
to sell them to a German institute. But the legal battle in Israel
has
become Kafka-esque.
"I escaped
the Holocaust," the old woman says. She worked for the Israeli airline
El
Al for 30 years, but she never felt like visiting Germany.
"I couldn't
forgive".
Giá mà đốt hết, là xong.
Vụ Án mới, hiện đang xẩy ra, liên quan tới "kho tàng bí ẩn" mà Kafka để
lại, là những trang viết của ông, giữa cô con gái của thư ký của Brod -
người đã không nghe theo di chúc của bạn mình, là Kafka, đốt hết, đốt
hết, và, thay vì vậy, ôm kho tàng ra khỏi Czechoslovakia, trước khi [VC
vô được Sài Gòn] Nazi xâm lăng đất nước này - và nhà nước Israel. Cô
con gái, nay là một bà già, phán:
"Tôi đã từng chạy thoát Lò Thiêu. Tôi không thể tha thứ".
Ôi Chúa thương yêu và nhân từ.
Xin Người đừng tha thứ cho tụi nó. Cái lũ khốn kiếp VC nằm vùng, cái lũ
bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC, cái lũ Cớm chìm cho VC, đã làm mất Miền
Nam,
gây ra Lò Cải Tạo, gây họa tầy trời, là đẩy đất nước vào cơn băng hoại
vô phương thoát ra
khỏi.
[Nếu
bạn nhìn vô cặp mắt
xanh
của xừ luỷ]
Booker
prize goes to Hilary
Mantel for Wolf Hall
Hilary Mantel wins the 2009
Booker prize
for her fictionalized life of
Thomas Cromwell, Wolf
Hall.
Hilary Mantel đoạt Booker, với tác phẩm Wolf Hall,
tiểu thuyết hoá
cuộc đời Thomas Cromwell
Note: Tin Văn đã "ngửi ra mùi của bà Hilary", nên đã đi một đường
"xoa... xoa", trước khi thông báo giải thưởng, qua bài điểm sách về
ông Trùm Cách Mạng Pháp, Robespierre, trên.
Thính mũi thật!
Nhà đại phê bình gật gù khen Gấu!
*
Văn của bà này, độc hơn thịt vịt!
Chúng ta thử đọc mấy dòng mở ra bài viết của bà:
Ông ta [Robespierre] mong ước
chuyện sẽ
kết thúc một cách tồi tệ.
Và quả thế thực: một viên đạn súng lục thổi cái hàm của ông vào hư vô!
[Ui chao, Gấu lại nhớ tới cái cảnh ăn hai trái claymore của VC ở nhà
hàng nổi
Mỹ Cảnh, nơi bờ sông Sài Gòn, và khẩu súng lục "tùy thân" của ông
trưởng đài, Sếp của Gấu - dựng ngay bên súng của Gấu - “bèn bay vào hư
vô”! Gấu
Cái mỗi lần đọc đến khúc này là rùng cả mình!]
Cũng đúng đêm hôm đó, 27 Tháng Bẩy, 1794, ông ra hiệu cho đám cai tù
đem cho
ông cây viết, tờ giấy. Ông tính viết chi dzậy? Chúng ta chẳng hy vọng
chi, về
điều mà ông ta viết ra, sẽ làm hậu thế hiểu ông. Ông đã có dịp may của
mình:
Năm năm tung hoành trong chính trường. Sử gia George Rude tính nhẩm,
ông đăng
đàn diễn thuyết chừng 900 lần.
Ông đã nói, đã phán [như Gấu đã phán!]. Tất nhiên.
Nhưng liệu ông có được lắng nghe không?
[Tớ phán, đồng bào Tây mũi lõ có nghe không?]
Thì cứ nói mẹ ra, chắc là không.
Sảnh đường Cách Mạng, loa liếc tệ lắm.
Nhất là Nhà Hát Lớn Hà Lội…. (1)
(1)
HE EXPECTED it to end badly, and it did: a bullet from a pistol which
shattered
his jaw, a night of unspeaking agony, death without trial. During that
night -
ninth Thermidor, or 27 July 1794 - he made signs that he wanted a
pen and
a paper. What would he have written? We cannot hope that it would have
helped
understand him. He'd had his chance, you’d think: five years in
politics. The
historian George Rude estimates that Robespierre made some nine hundred
speeches . He had spoken, of course; but had he been heard?'
Literally speaking, perhaps not. The halls of most
Revolutionary assemblies had poor acoustics….
Amos
Oz: Nobel 2009 ?
Bát
Nhã
Tribute
to PCL & VHNT
The
emergence of memory
Unrecounted
Thơ
trí tuệ vs Thơ tình cảm
Ngày
mai đi nhận xác chồng
Kỷ
niệm, kỷ niệm
*
Trở
lại Tipasa
Albert Camus
Một bài viết ngắn, gọn, nhưng
đâu có dễ đọc, nếu không biết... sơ sơ về
Camus?
Đây là
một trong những bài viết
tuyệt vời của Camus. Trong bài viết, Camus cho rằng, chính là do chiến
đấu quá
lâu cho công lý [chân lý nước Mít là một] khiến VC biến thành.. bọ,
thành ruồi!
For there is
merely bad luck in not being loved;
there is misfortune in not loving. All of us, today, are dying of this
misfortune. For violence and hatred dry up the heart itself; the long
fight for
justice exhausts the love that nevertheless gave birth to it. In the
clamor in
which we live, love is impossible and justice does not suffice. This is
why Europe hates daylight and is only
able to set injustice
up against injustice.
Bởi vì có cái xấu số trong chuyện không được yêu, có cái bất hạnh trong
không yêu. Tất cả chúng ta, ngày này, đều chết vì bất hạnh. Bởi vì bạo
lực và thù hận làm trái tim tự nó khô cằn, càng chiến đấu cho công
lý lâu chừng nào thì càng làm cạn kiệt tình yêu chừng đó, và đừng mong
chi chuyện sinh sôi ra lại. Trong cái âm thanh và cuồng nộ mà chúng ta
đang sống ở trong nó, tình yêu thì bất khả, và công lý thì không đủ.
Chính vì thế mà Âu Châu ghét ánh sáng ban ngày, và chỉ có thể lấy
bất công chống lại bất công.
Le retour de Camus
Alors
que s’approche le
cinquantième anniversaire de la mort d’Albert Camus, en janvier 1960,
deux
livres américains rendent hommage à l’écrivain et moraliste français.
Le
premier, par David Caroll, professeur à l’université de Californie, est
consacré à « Camus l’Algérien ». S’appuyant notamment sur son
autobiographie
inachevée, Le Premier Homme, publiée
en 1994, il rend compte du rôle du problème algérien dans l’élaboration
de la
philosophie morale de l’ancien Algérois. Camus, on le sait, refusa de
prendre
parti dans la guerre d’Algérie. Il avait défendu les droits des «
musulmans » à
la veille de la Seconde Guerre mondiale, mais quand le conflit éclata,
en 1954,
il fit valoir que l’on n’était pas obligé de choisir entre la justice
et le
massacre des innocents.
Le
second ouvrage, par David
Sherman, qui enseigne la philosophie à l’université du Montana, revient
en
profondeur sur les accusations d’inconsistance philosophique dont a été
victime
l’ancien résistant de la part du camp sartrien, dans les années 1950,
avant et
après le début de la guerre d’Algérie. Dans un compte rendu de ce livre
publié
dans les Notre Dame Philosophical Reviews, publication en ligne de
l’université
catholique de Notre Dame (Indiana), le philosophe sénégalais Souleymane
Bachir
Diagne approuve le travail de réhabilitation mené par Sherman.
Normalien,
Bachir Diagne,
actuellement professeur à l’université Columbia
de New York,
a été l’élève d’Althusser et de Derrida, et connaît bien les arcanes de
l’intelligentsia française. Tout en s’emmêlant un peu dans les dates,
il
rappelle la méchante querelle qui éclata en 1952 du fait de Francis
Jeanson, un
fidèle de Sartre. Jeanson publia dans la revue de ce dernier, Les Temps
modernes, un article critiquant L’Homme révolté, paru l’année
précédente.
L’article était intitulé « Albert Camus ou l’âme révoltée », titre
ironique
évoquant la « belle âme » selon Hegel, figure de l’homme, écrit Diagne,
«
incapable d’agir, étant prisonnier de sa posture éthique, pris entre
deux
options qu’il juge également répréhensibles ». Ignorant Jeanson, qu’il
ne
connaissait pas, Camus adressa sa réponse directement à Sartre («
Monsieur le
directeur »), affirmant n’avoir pas de leçon à recevoir de ceux qui «
n’ont
jamais placé que leur fauteuil dans le sens de l’histoire ». Allusion
cinglante
à l’absence d’engagement de Sartre dans la Résistance, alors que Camus,
lui,
avait risqué sa vie, en animant le mouvement Combat. Sartre répondit
avec
brutalité, l’accusant de surcroît d’incompétence philosophique. La
rupture
entre les deux hommes était consommée.
En jeu,
le point de vue
développé par Camus dans L’Homme révolté, selon lequel ni le
capitalisme ni le
communisme ne méritaient d’être soutenus. Avant cela, Camus s’était
attiré une
critique du même ordre de la part de Roland Barthes, après la parution
de La
Peste, fin 1947. Barthes lui reprochait de refuser un véritable «
engagement »
et de préférer la morale à la politique.
Sherman considère que nous assistons aujourd’hui à
une «
renaissance » de Camus, et Diagne souscrit à ce point de vue. «
L’effondrement
des certitudes idéologiques fait que Camus n’est plus persona non grata
et
mérite d’être redécouvert comme “un philosophe de notre temps”, selon
les mots
qui clôturent le livre de Sherman. » Depuis la chute du mur de Berlin,
l’heure
est en effet, écrit Sherman, à l’engagement au profit de valeurs «
éthico-politiques cosmopolites telles que le dialogue entre les
cultures et les
droits de l’homme », état d’esprit qui rencontre exactement l’attitude
de
Camus. Sherman
souligne aussi un autre aspect très actuel de la position de l’écrivain
français, son refus de l’esprit de système au profit d’une observation
attentive du monde réel. Autre forme d’opposition à l’auteur de L’Être et le Néant et de la Critique de la
raison dialectique.
David Sherman, Camus,
Wiley-Blackwell 2009 (non traduit en français).
www.booksmag.fr
Thanh Tâm Tuyền, trên tờ Sáng Tạo, ngay sau khi Camus tử nạn xe hơi,
cũng đã
từng chỉ trích Camus, y chang, "Kẻ Chính Trực, đứng ở lưng chừng trời",
“belle âme” selon Hegel, figure de l'homme, écrit Diagne,« incapable
d'agir,
étant prisonnier de sa posture éthique, pris entre deux options qu'il
juge
également répréhensibles ». Và nhà thơ kết luận: Cái chết đã đóng chặt
Camus
vào dĩ vãng.
*
Gấu này
cũng có vài kỷ niệm về
Trần Phong Giao. Và luôn cả về đấng bạn quí của Gấu, là người viết bài
này.
Những kỷ niệm liên quan tới cả hai, và tới một vài chi tiết trong bài
viết.
Bảo là vui thì cũng được và bảo
là buồn thì cũng vẫn được.
Cũng chẳng tính viết ra, bởi
vì, như người ta nói, người chết rồi, thì kể như xong, xấu tốt gì cũng
xong. Nhưng
lại nghĩ lại, đã chắc gì những điều sắp viết ra đây, làm xấu đi hình
ảnh một đấng
TPG.
Và một đấng bạn quí!
(1) Xìn
Phóng, như DTL viết, là nick của TPG.
Gánh
Nặng Tuổi Thơ
Kun Ở Xứ Mít
|