|
Happy Birthday
to
U, Jenny.
25.9.09
Richie & Jennifer
Tribute
to PCL & VHNT
Nguyễn Quốc
Trụ 05.08.2002
Những chi tiết thơ trong một cõi không thơ *
Sự thành công của những nhà thơ trẻ như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,
... liệu có thể giải thích như là "sự thất bại của thành công", của lớp
nhà thơ đàn anh, hay nói một cách khác: Ở nơi nào có người chết, ở đó
có hy vọng?
Chúng ta sẽ cùng nhìn vào cõi "Tôi Âu Cơ một mình" của họ...
1. Đọc Thơ Trẻ, ở
trong nước
Con đường đê mang tên Âu Cơ đổ
xuống đường Lạc Long Quân giấc mơ trăm trứng,
Em Âu Cơ một mình.
.....
Em một mình Âu Cơ.
Sống đồng nghĩa với sáng tạo. Và thơ, là sự thăng hoa của ngôn ngữ và
cảm xúc để cứu rỗi và tôn vinh Con Người, bắt đầu từ bản năng thuần
khiết".
(Vi Thùy Linh)
Thơ sống ở những miền sâu thẳm nhất
của hữu thể, trong khi những ý thức hệ, và tất cả những gì mà chúng ta
gọi là tư tưởng và quan điểm tạo thành những tầng hết sức mỏng manh hời
hợt của ý thức.
(Octavio Paz) (1)
Thế giới bao la,
nhưng trong em, ôi sao sâu thẳm (2)
Ôi, phải già cỡ nào mới chinh phục
được tuổi trẻ?
Mới sống nhịp đời hối hả, như em? (3)
Đàn ông những năm bốn mươi,
không còn yêu mình nữa.
Lũ con gái mười lăm
đêm nằm
khóc.
Mỗi sáng
yêu
một thất vọng tạm thời.
Em là con ngựa đau chẳng khiến tàu
thèm bỏ cỏ
buồn tập tễnh
về ăn giỗ mình
(Phan Huyền Thư)
Hoàng Hưng có thể là người đầu tiên nhận ra hiện tượng thơ trẻ, nhưng
hai câu hỏi của ông, (Bạn vẫn làm thơ, có điên không đấy? và Bao giờ
thì Thơ chết?), thật sự không trực tiếp liên can tới Thơ Trẻ. Theo tôi,
nó bắt nguồn từ câu thơ nổi tiếng của Hölderlin: Tại sao thi sĩ trong
một thời khốn kiếp như thế này? (bản dịch tiếng Pháp: Pourquoi des
poètes en temps de détresse?: Tại sao thi sĩ trong thời khốn khổ đọa
đầy?), và "Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thực là dã man", của triết
gia Adorno.
Hơn thế nữa, cái khoảng cách giữa Chế Lan Viên tiền-cách mạng và những
nhà thơ được Hoàng Hưng nhắc tới, và cõi thơ "Tôi Âu Cơ một mình", là
một khoảng cách khá dài, và cần rất nhiều giả dụ, đề xuất...
Trong bài viết "Thơ của tôi không dành cho bạn", Phan Huyền Thư hình
như đã nhìn ra khoảng cách đó, nghĩa là khoảng cách mà tôi gọi là không
có thơ - cái thời đại khốn kiếp - khi đưa ra thách đố cho Thơ Trẻ: nó
có lẽ sẽ làm cái phần còn lại, tức cái phần mà lớp thơ đàn anh bỏ lỡ,
khi cố tình đẩy thơ về với đám đông, với cách mạng. Bởi vì, nên nhớ một
điều, và điều này thật quan trọng: Trong bài viết của Hoàng Hưng, ông
không hề nhắc đến những dòng thơ của một Chế Lan Viên, khi đã về với
cách mạng, hoặc một dòng thơ của chính ông, cho dù tự hào "Hèn" [tôi
thích từ "Mèng"] hơn nhiều, như... Và khi ông trích dẫn câu thơ "Nhưng
tôi không thấu hiểu/Cái gì mạnh, cái gì đáng sợ treo ngược con
người..." ông đã hiểu, như chính tác giả những câu thơ đã hiểu: Hơn cả
một chế độ, cho dù toàn trị, là một cõi người không có thơ: Cái thời
đại khốn kiếp!
Cũng theo một cung cách như vậy, Kundera đọc Kafka, và tìm ra bao nhiêu
chi tiết thơ, trong một cõi không thơ...
Nhìn vào cõi "Âu Cơ một mình" của họ, liệu chúng ta có thể cảm nhận,
điều này: Thay vì một chủ nghĩa anh hùng đầy thi vị chết người "đường
ra trận mùa này đẹp lắm", là một chủ nghĩa anh hùng của điêu đứng và
tiều tụy ("un héroisme de la détresse et de la souffrance", chữ của
Walter Benjamin, khi viết về nhà thơ Baudelaire), và từ đó, là tuyên
ngôn về một "thơ của tôi không dành cho bạn": bởi vì thơ của tôi chỉ là
tiếng kinh cầu của cơ thể, của thân xác, của trái tim của tôi, theo
nhịp điệu của bản năng thuần khiết....?
Có thể có người "ôi dào", vẫn chỉ là ca tụng thân xác! Nhưng, thay vì
"dolce vita", "buồn ơi chào mi" của một Âu Châu hậu chiến, ở đây là một
chán ngán, và khổ đau, và người đọc chắc có thể đã mường tượng ra, sợi
dây dẫn từ những dòng thơ mở đầu thơ trẻ, từ con bọ, con gián rờ mò
tôi... tới bữa tiệc nhân sinh: về ăn giỗ mình.
Bài viết của Hoàng Hưng, theo tôi, "hỏng" ở cái tựa đề, và ở câu kết
luận. Phiên gác: Gác cái gì? Tại sao gác? Nếu thơ vẫn cần phải có người
gác, thì thà đừng sống sót qua thiên niên kỷ: Hãy chết đi, mục nát ra,
và trở thành phân bón cho tân thiên niên kỷ, như một nhà tranh đấu cho
nhân quyền Trung Quốc, Ngụy Kinh Sinh, đã từng cầu mong cho thế hệ của
mình.
Thơ trẻ chiều nay chưa tới, nhưng ngày mai
sẽ tới (PHT). Tôi sợ rằng, ngày mai cũng vẫn còn anh lính gác ở
trước bữa tiệc nhân gian, bữa tiệc thơ,
hay bữa giỗ của mình...
2. Tản mạn về Thơ, nhân
một chuyến đi
Car le fascisme, ce n'est pas
d'empêcher de dire, c'est d'obliger à dire.
(Bởi vì phát xít không cấm nói, mà bắt phải nói.)
Roland Barthes
Cho phép tôi mở đầu bài viết này bằng một kỷ niệm khá thú vị, liên quan
tới tập thơ của một nhà thơ ở trong nước.
Trong chuyến trở về Hà Nội mới đây, trong khi lang thang bên những tiệm
sách tại một con phố có nhiều tiệm sách, cũng kế bên Bờ Hồ, chợt nhớ
lời một người bạn hỏi thăm về chuyến đi lần trước (về có kiếm được tập
thơ của Vi Thùy Linh hay không), tôi hỏi người bán sách, một cô gái. Cô
trả lời, không biết, không nghe tên, và nói thêm, ở đây không bán sách
những tác giả không nổi tiếng.
Mặc dù còn có những lý do khác nữa, hẳn là thế, nhưng tôi tự hỏi chính
mình, liệu chuyến đi, chỉ là để tìm một cuốn sách?...
Chuyến trước, là bản văn Vô Kỵ giữa chúng ta, nằm kế bên Bờ Hồ, trong
khi tác giả của nó, Đỗ Long Vân, một người Hà Nội, sau những ngày viễn
du phươngTây [Hãy cho anh một tí Paris, để anh làm thi sĩ, mô phỏng thơ
Thanh Tâm Tuyền), đại học Huế, đài phát tin Phú Lâm, sau cùng - nghĩa
là sau 1975 - hẻm Hồ Biểu Chánh (Phú Nhuận), rồi nằm luôn tại đó. (Tôi
tự hỏi, có lần nào anh thăm lại căn nhà bên Bờ Hồ. Chắc là có, nhưng ở
lại luôn, khó: như người hùng phản-anh hùng Kiều Phong, anh cũng chẳng
còn biết mình là người Khiết Đan, hay là Hán...)
Thế rồi tôi được gặp tác giả. Qua điện thoại. Cô cho biết, tập thơ đã
tuyệt bản, ở nhà cháu còn một hai cuốn, bị gián nhấm, cháu sẽ đem đến
cho chú.
Và ngay tối đó, cô đem đến, tiếc quá, tôi không được gặp, vì lúc đó
đang ngồi với một số người bạn tại nhà tác giả của một nỗi buồn...
Lẽ dĩ nhiên, không thể lấy một trường hợp cá biệt như trên, để suy ra
rằng, "độc giả" ở trong nước đã "mù", không đọc ra được thơ Vi Thùy
Linh, nhưng quả là đã có "hơn một độc giả", theo nghĩa, giới phê bình
thưởng ngoạn, đã không chịu nổi thơ Vi Thùy Linh. Không phải một ông,
mà nhiều ông khác nữa, trong đó có cả một ông bạn tuy mới quen nhưng
khá thân - phải nói rất thân, tuy không cùng tuổi tác.
Tôi nhớ tới câu của Barthes, khi đọc những bài viết về thơ Vi Thuỳ Linh
trên báo chí, qua một diễn đàn trên lưới, và "Thơ và Thơ Trẻ" hiện đang
là chủ đề nóng (hot) tại đây; thành thử, để tránh trùng lập, tôi xin
tản mạn chung quanh một chuyến đi, và về một hai tác giả mà tôi hân
hạnh được gặp.
Đọc trong nước, tôi vẫn thường "băn khoăn" về một hiện tượng: họ rất tự
hào về một thời văn chương lẫm liệt, về chủ nghĩa anh hùng trong thơ
ca, về những đóng góp của, thí dụ như một thần đồng Trần Đăng Khoa. Sau
này, tôi đọc được một hai lời giải thích (cứ tạm cho là như vậy). Một
của nhà thơ Joseph Brodsky, khi nhắc tới một số thi sĩ Nga (trong
Chuyện Trò Với Joseph Brodsky, tác giả Solomon Volkov, chương về nữ thi
sĩ Marina Tsvetaeva). Theo ông, đây là nỗi bất hạnh mà xã hội, nhất là
xã hội quyền thế [thí dụ như xã hội toàn trị] đem ra tròng vào cổ những
nhà thơ, bắt phải lọc ra một đầu đàn. Áp dụng vào thực tế Việt Nam,
chúng ta có thể nói: bởi vì có một chủ nghĩa thơ ca thần thánh chống Mỹ
cứu nước, cho nên bắt buộc phải có nhà thơ tiên phong, nhà thơ-cung
đình (tạm dịch từ poet-tsar của Brodsky) tương xứng. Và ông cho rằng,
thơ ca đòi hỏi "nhiều hơn thế, không chỉ một cái đầu của một chủ soái".
Trong khi lọc ra một vị chủ soái - thí dụ như Tố Hữu - xã hội tự kết án
nó, tự trói nó vào hình thức này, hoặc khác, của chuyên quyền, độc
đoán.
Nhìn theo quan điểm này, người ta sẽ hiểu tại sao trong nước đả phá
những nhà thơ như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư [cho phép tôi chỉ nhắc
tới hai nữ thi sĩ này, do chỉ đọc và có tác phẩm của họ, như là tài
liệu dẫn chứng, khi viết]. Trên tờ Tia Sáng, số tháng Năm 2002, Ánh
Sáng, tác giả bài viết "Thơ: nỗi buồn ai hiểu?", đã "xác nhận" ý của
Brodsky, khi cho rằng, "Thi ca cũng có bảng A, bảng B... giành nhau một
quả bóng trên sân và hào hứng nhất là cái danh chức chụp giựt giữa: a)
các nhà thơ, và, b) các nhà thơ trẻ... Phan Huyền Thư nóng nảy đứng
ngoài, chúng tôi đã thôi lem luốc, không còn thò lò mũi, chừng nào mới
được vào cúng bái?" Khi viết như vậy, liệu tác giả đã có ý nghĩ, những
nhà thơ trẻ đang manh nha " nổi loạn ", mong được " tròng vào cổ " cái
chức vị nhà thơ đầu đàn?
Octavio Paz, trong "Thơ ca, Xã hội, Nhà nước" cho rằng, thật "khẩn
trương" (urgent), yêu cầu đánh tan mọi mập mờ đánh lận con đen, giữa
cái gọi là nghệ thuật của quần chúng, của tập thể, với cái gọi là nghệ
thuật "quan phương" (official art). Một bên, là nghệ thuật được gợi
hứng từ niềm tin, lý tưởng của xã hội, một bên là nghệ thuật được viết
dưới ánh sáng của Đảng (art subjected to the rules of a tyrannical
power). Tư tưởng Ky Tô giáo đã nhập thân vào những đế quốc quyền uy,
nhưng thật lầm lẫn khi coi nghệ thuật Gothic hoặc Phục Hưng là do quyền
lực giáo hoàng sáng tạo ra. Quyền lực chính trị có thể sử dụng, và còn
có thể thúc đẩy một dòng nghệ thuật, nhưng nó chẳng bao giờ sáng tạo ra
nổi nghệ thuật. Còn điều này nữa: về lâu về dài, nó tạo ra phản ứng
phụ, làm cho nghệ thuật "thất kinh" (mãn kinh đúng hơn, nhưng cái từ "
thất kinh " này lại có được cái bóng chữ của nó !) bất lực, nghĩa là
hết còn đẻ đái gì nữa.
Áp dụng nhận xét của Paz vào trường hợp thơ ca Việt Nam trước và sau,
cứ lấy thời điểm 1975 làm một cái mốc, liệu chúng ta có được "niềm tin"
sau đây: thơ trẻ trong nước là một phản ứng nhằm chống lại một thời kỳ
thi ca lẫm liệt, và chống lại phản ứng phụ của nó.
Có lẽ chúng ta "bắt buộc" phải hiểu dòng thơ của Vi Thuỳ Linh theo
nghĩa như vậy:
Khoả thân trong chăn,
Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên.
Cũng như nỗi sợ của thi sĩ:
Thiếu phụ
Hai mươi tuổi.
Một độc giả vội vã sẽ cự: Thiếu nữ chứ, tại sao lại thiếu phụ?
Ba trăm năm rồi, tác phẩm Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn qua bản
dịch nôm của Đoàn Thị Điểm bị cấm giảng dậy trong các nhà trường của xã
hội miền bắc trong suốt thời kỳ chiến tranh cho tới sau thời đổi mới,
chỉ vì nội dung phản chiến của nó. Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh,
nho sĩ Đặng Trần Côn đã phải đào hầm, đọc sách dưới địa đạo, và viết về
tâm tình của người đàn bà Việt Nam nhớ chồng đi lính. Từ Lạng Sơn cho
đến Cà Mâu, hình bóng in dấu trong tâm khảm của người Việt là hòn đá
vọng phu của người đàn bà chờ chồng. Ngay cả văn bản giới thiệu và chú
giải về Chinh Phụ Ngâm khúc của một người có vai vế trong Đảng, và
trong giới trí thức là Đặng Thai Mai cũng phải sau thời đổi mới, mới
được xuất hiện.
Ở đây chúng ta nên mở một dấu ngoặc, về hiện tượng kỳ quái ở Nam Kỳ, là
năm 1945, chính phủ Nam Kỳ đã chọn ngay đoạn mở đầu của tác phẩm Chinh
Phụ Ngâm khúc làm quốc ca. Đây là trường hợp đặc biệt nhất thế giới về
một quốc ca mà nét chính không phải là hiếu chiến mà là phản chiến.
Chính giấc mơ thanh bình của người dân Nam Bộ đã bị những thế lực ngoại
dân tộc chi phối, và cản trở cho đến nay:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Bài hát Dạ Cổ Hoài Lang (Nhớ chồng khi nghe tiếng trống ban đêm) của
ông Sáu Lầu ở Bạc Liêu năm 1916 đã mở đầu cho điệu vọng cổ, sau này là
nền tảng âm nhạc của sân khấu cải lương, giống như giấc mơ Thiên Thai
của miền bắc, qua ca khúc của Văn Cao. (Người ta đã chẳng từng coi chủ
nghĩa cộng sản là mùa xuân vĩnh viễn của nhân loại, như một mùa đào
chưa từng phai một lần cùa Văn Cao?) Hoài vọng kia cũng như giấc mơ nọ
còn là ám ảnh của cả dân tộc suốt thế kỷ 20.
Trần Mạnh Hảo, qua một bài viết đăng lại trên diễn đàn Talawas, có lẽ
đã chỉ bám chặt vào "nghĩa đen" của những từ như "thèm chồng", khi lên
tiếng đả kích thơ trẻ. Ông tiện tay phạng luôn cả những người lên tiếng
ca ngợi thơ trẻ, và lên tiếng thách thức, ca ngợi cho lắm vào, hãy thử
chứng minh, hay ở chỗ nào? Bài viết này, một phần, là toan tính tìm ra
cái hay của thơ trẻ ở trong nước, qua hai "đại diện" của họ.
Trong bài viết "Hình Tượng" (Figures, trong Figures I, tủ sách Points,
bộ môn Tiểu luận, nhà xb Seuil, 1966), Gérard Genette [tôi tin rằng ông
đã từng đọc hơn một bài viết theo kiểu TMH, nên đành bỏ công] giải
thích, thế nào là một hình tượng, như nó được sử dụng trong thơ văn.
Trích dẫn câu của Racine, "Tôi không suy nghĩ hay hơn Pradon và Coras,
tôi viết hay hơn họ", tác giả lập luận: có một "tư tưởng" - hiểu như
một nghĩa, vốn được coi như là "của chung", giữa những nhà thơ hay và
dở; và có thể được diễn tả theo kiểu "thường thường bậc trung" (nguyên
văn: được diễn tả bằng một câu nhỏ, khô, và trần trụi). Và có một
"cách" để diễn tả nó.
Từ đó suy ra: giữa chữ (la lettre) và nghĩa, giữa cái điều nhà thơ
"viết" và "nghĩ", có một khoảng cách (un écart), một không gian, và như
mọi không gian, nó sở hữu (posséder) một hình dáng (forme). Người ta
gọi hình dáng này là một hình tượng (figure). Có hình tượng tới đâu, là
kiếm ra được hình dáng của nó trong không gian tới đấy, chừng nào nhà
thơ còn quẩn quanh trong cõi vô thường, nghĩa là còn lao đao giữa đôi
bờ, giữa lằn ranh của cái tạo ra nghĩa (la ligne du signifiant), và
nghĩa của nó (la ligne du signifié). Ông đưa ra thí dụ:
Trên đôi cánh thời gian, nỗi buồn
bay cao.
Câu thơ này có nghĩa:
Khổ đau không thể kéo dài mãi mãi.
Ở một chỗ khác, người viết sẽ xin trở lại, với những "hình tượng thi
ca", mà chỉ nội một từ "chồng" đã dấy lên, từ thơ Vi Thùy Linh.
Khi tắm tôi
thường ngắm mình
(như có một người, cùng tấm gương ngắm tôi)
Mảnh mai, lóng lánh ướt...
(Vi Thùy Linh- Bóng Người)
"Mình ngắm mình" là một trong những "thói xấu" thiết yếu của thơ văn,
nếu coi mọi cái viết ra đều mang tính tự thuật, mặc dù "bản năng" mách
bảo, càng giấu đi cái tôi chừng nào, bản văn càng mang tính khái quát,
càng vươn tới cõi người rộng lớn chừng đó. Nhà văn gốc Do Thái Isaac
Bashevis Singer nhớ lại một kỷ niệm khi còn nhỏ ở Warsaw, lần đầu đọc
bản dịch cuốn Tội Ác và Trừng Phạt của [nhà văn Nga] Dostoyevsky, đã đi
tới kết luận, Dostoyevsky: một nhà văn Do Thái, là vậy. Dos. đã vượt
mức "khái quát" (tính nhân loại đời đời, theo một vài ông nhà văn, nhà
phê bình) đến nỗi, bất cứ độc giả nào cũng nghĩ, tay này đúng là người
"nước mình"! Hãy biết mình, phương ngôn đã dạy. Càng ngắm mình cỡ nào,
càng thấy người (ta, người khác) cỡ đó.
[Lại có ông cứ nhìn mình tới đâu là lòi ra cái thân phận nhược tiểu,
vừa đẻ ra là đã đau nỗi đau da vàng rồi, khi ra được nước ngoài mới
thấy rằng, đây mới thực sự quê hương của mình, thì sao?
Xin hẹn, sẽ bàn tiếp "vấn đề lớn" này ở một chỗ khác].
Trong tiểu luận "Chín Mươi Năm Sau" (in trong "On Grief and Reason"),
khi viết về bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" của [nhà thơ Đức]
Rilke, Brodsky cho rằng, mọi thực tại đều mong có được cái thân phận,
là một bài thơ, ấy chỉ vì lý do tiết kiệm. Tiết kiệm là "lý do hiện
hữu" tối hậu của nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những
phương cách dồn nén, sao cho ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca, là
ngôn ngữ, nghĩa là thực tại, ở dạng nén cao cấp của nó. Nói ngắn gọn,
một bài thơ "cho rất nhiều mà chẳng nhận bao nhiêu" [bài thơ không phản
ảnh, mà là sản sinh]. (4)
-Này gương ơi, ta muốn biết trí tuệ
của ta?
-Thưa cô, cô thông minh hơn nhiều so với tuổi.
-Gương ơi, bây giờ trông ta ra sao?
-Cô già hơn nhiều so với tuổi.
(Vi Thùy Linh)
Tôi dài dòng tản mạn, cốt để lọc ra mấy ý này:
-Tính "tiết kiệm" trong thơ của VTL, rõ rệt nhất là ở cái tên: Khát,
Linh. Khát là nguyên nhân. Nguyên nhân này khởi đi từ thân xác, từ
những nhu cầu cụ thể hàng bao nhiêu năm bị hi sinh cho những chiêu bài
trừu tượng và phủ nhận con người tuy mang danh nghĩa là vật chất. Linh
là hậu quả, của cái việc nhìn ngắm mình bằng cái gương khuếch đại. Khát
không phải chỉ là cái khát của một cá nhân, mà là của cả thế hệ hai
mươi tuổi, trưởng thành sau cái kết thúc của chiến tranh Việt Nam. Linh
không phải chỉ là một cô gái, một sinh viên, mà là tiếng nói của giới
nữ, của một người dân tộc Tày thiểu số khuếch đại thành tiếng nói của
cả 56 dân tộc, hợp thành nhân dân Việt Nam.
[Với một độc giả miền nam, thì đây là lịch sử thi ca Việt Nam đang nhìn
chính nó, nếu chúng ta liên tưởng tới hai tập thơ "Tôi Không Còn Cô
Độc" ("Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ: Thanh Tâm Tuyền"), và "Liên. Đêm.
Mặt Trời Tìm Thấy" ; ngắn gọn hơn, đây là con đường thi ca đi từ Liên
tới Linh, từ người nữ như một đối tượng đến người nữ như một chủ thể].
-Tính "huyền thoại": Những "ẩn dụ" như " tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ",
"tôi nhìn tôi cho đỡ thèm đỡ khát..." liệu có thể coi như chấm dứt
huyền thoại "thơ viết dưới ánh sáng của Đảng"?
----------------
Chú thích:
(1) "La poésie vit dans les couches les plus profondes de l'être, alors
que les idéologies et tout ce que nous appelons idées et opinions
forment les strates les plus superficielles de la conscience." Octavio
Paz, L'Arc et la lyre, Gallimard, p. 47. Henri Meschonnic trích dẫn,
trong Nói Về Thơ I (Pour la Poétique I, nhà xb Gallimard).
(2) Mô phỏng nhà thơ Rilke, qua bản tiếng Pháp:
Le monde est grand mais en nous il est profond comme la mer.
(3) Mô phỏng nhà thơ Victor-Émile Michelet:
"Hélas! Il faut avancer en âge pour conquérir la jeunesse... pour vivre
selon son initial élan"
[Trích "Thơ trong cõi trời" (La poétique de l'espace), của Gaston
Bachelard]
(4) Nguyên văn đoạn trích dẫn Brodsky:
The poem has the quality of an uneasy dream, in which you gain
something extremely valuable, only to lose it the very next moment.
Within the limitation of one's sleeping time, and perhaps precisely
because of that, such dreams are excruciatingly convincing in their
details; a poem is also limited, by definition. Both imply compression,
except that a poem, being a conscious act, is not a paraphrase or a
metaphor for reality but a reality itself.
For all the recent popularity of the
subconscious, our dependence on the conscious is still greater. If
responsibilities begin in dreams, as Delmore Schwartz once put it,
poems are where they ultimately articulated and fulfilled. For while
it's silly to suggest a hierarchy among various realities, it can be
argued that all reality aspires to the condition of a poem: if only for
reasons of economy.
This economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is
the history of its means of compression and condensation. In poetry, it
is language, itself a highly condensed version of reality. In short, a
poem generates rather than reflects. So if a poem addresses a
mythological subject, this amounts to a reality scrutinizing its own
history, or, if you will, to an effect putting a magnifying glass to
its cause and getting blinded by it.
"Orpheus. Eurydice. Hermes" is exactly that, as much as it is the
author's self-portrait with that glass in hand, and one learns from
this poem a lot more about him than any life of him will offer. What he
is looking at is what made him, but he who does the looking is far more
palpable, for you can look at something only from outside. That´s the
difference between a dream and a poem for you. Say, the reality was
language's, the economy was his.
[Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một
cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn
ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những giấc mơ như thế có
tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng
giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là một
hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại,
nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng
ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc
mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những
giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là
ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức
biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều
kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn
thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc
tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực
tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh.
Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có
nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn
- điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh
nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính là
chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên tay, và
người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ
cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính là
cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể
ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ
và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết
kiệm là của nhà thơ.]
*Toàn văn bài viết của Nguyễn Quốc Trụ đăng trong Tin Văn
http://web.archive.org/web/20031225162031/http://www.saomai.org/~tinvan/unicode/jndex.html.
|
|
Note: Bài viết
trên, trên Talawas, [cái tít Những chi tiết thơ trong một
cõi không thơ là của
bà chủ quán], nguyên gốc VHNT, đọc lại thấy bồi hồi quá đỗi.
Và nhớ.
Cả hai.
VHNT và:
Anh,
Trước hết em phải thành thật xin lỗi anh vì thời gian qua nhận rất
nhiều mail
của anh mà bất lịch sự không hồi âm nổi một dòng. Em đi làm phim xa nhà
hàng
tháng trời, nên không tiện liên lạc...
Anh có khỏe không. Có gì vui không? Anh vẫn thích nghe Kenny G. và
Yanni?
Em gửi anh ba bài thơ mới nhất nhé, anh đọc và chia sẻ với em.
Thỉnh thoảng, em vẫn nghĩ tới anh, và nhớ là anh rất hóm và gần gũi.
On God
Chỉ người kiêu
ngạo mới ráng khiêm cung; chỉ người ngạo mạn mới tìm cách vứt bỏ tánh
kiêu căng
bằng tập luyện tánh khiêm cung. Tập luyện tánh khiêm cung còn là hành
vi tự
mãn. Lắng nghe và do đó biết, phải là phẩm chất tự nhiên của tánh khiêm
cung; và
một tâm trí hiểu bản chất của tánh khiêm cung thì không bao giờ theo
sau, không
bao giờ phục tùng ( To listen and therefore to learn, there must
be a
spontaneous quality of humility; and a mind that has understood the
nature of
humility never follow, never obeys). Làm thế nào cho điều hoàn toàn phủ
định,
trống không, phục tùng hoặc theo sau bất cứ người nào chứ?
*
Note: Thăm hỏi
Wednesday, September 23, 2009 10:23 PM
Trụ,
Khoẻ không mày? Bữa trước, trong một bữa cơm thân mật do một người bạn
mời, tao
có gặp và nói chuyện với xừ T., chủ tiệm sách VK (đã đóng cửa mấy
tháng
nay). Chúng tao có nói chuyện về mày và website của mày, xem ra xừ ấy
có vẻ
thường đọc mày.
Hình như tao cũng đã nói với mày computer của tao đã bị virus mấy tháng
trước
làm mất tất cả những bài dịch cuốn On God, [Về Thượng Đế] của
Krishnamurti. Tao lai rai dịch lại nhưng do lười nên không sốt sắng như
trước.
Tao dịch chủ yếu để thấy cái hiểu của mình và chỉ gởi mấy bạn bè thân
đọc chơi.
Hôm nay tao gởi mày 2 bài, mày đọc xem sao nhé.
NKL
Leszek
Kolakowski (1927-2009)
The Wisdom of Leszek
Kolakowski
Tony Judt
Con Quỉ trong Lịch Sử
Note:
Ba Lan phải cỡ này. Hay
cỡ Milosz, nhà thơ Nobel.
Ông Kap làm sao so được!
Đó là sự thực, nhưng có vẻ như trong nước, và, ngoài nước chẳng hề biết
đến những
tay như thế này.
Thú
thực, ông Kô Ka Kô La này, Gấu cũng chưa từng đọc. Nhưng, chiều xuống
phố,
vớ tờ NYRB mới ra lò, đọc đoạn sau đây, thấy bảnh quá, bèn bệ về.
Tờ này Gấu vẫn mua dài
hạn, nhưng mới cắt, sợ bất thình lình đi, uổng!
*
Gấu này đã lèm bèm nhiều lần, về cái lần còn ở trại tị nạn Thái Lan,
tình cờ vớ
được một bài viết trên tờ Thế Kỷ 21, của một tay nào dịch nhà văn Nga,
Tolstaya. Bà này phán, nhớ đại khái, chủ nghĩa CS không phải từ trên
trời rớt
trúng đầu dân Nga, mà trồi lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử
Nga... Thế
là Gấu ngộ ra liền, chính Cái Ác Bắc Kít mới là nguồn cơn của đại họa
Mít.
Nhưng ông Kô Ka Kô La này phán khác. Ông chỉ đích danh Marx, do ngu si
dốt nát
mà gây đại họa.
*
Tôi
nghe Kolakowski
nói chuyện chỉ có một lần. Đó là ở Harvard, vào năm 1987, ông là khách
mời của
Judith Shklar [đã mất], trong một hội thảo về tư tưởng chính trị, một
trong những
tiết giảng cho sinh viên của bà. Tác phẩm Những
dòng hiện tại của chủ nghĩa Marx của Kolakowski mới được xb, bằng
tiếng
Anh, và Kolakowski đang ở đỉnh cao của sự nổi tiếng. Bởi vậy, có rất
nhiều sinh viên muốn nghe ông nói, và buổi nói chuyện được dời tới một
giảng đường
rộng rãi dành cho công chúng, và những khách mời được phép tham dự. Tôi
lúc đó
tình cờ cũng có mặt ở Cambridge,
và bèn tới cùng một số bạn bè.
Đề tài của Kolakowski
có cái tít thật dẫn dụ, “Quỉ trong Lịch sử”. Trong một lúc, thính giả
chăm chú
theo dõi, và giảng đường thật im lặng. Những bản viết của Kolakowski
được rất
nhiều người biết tới, vì có tính khôi hài, lý luận chặt chẽ. Nhưng dù
vậy, có vẻ
như thính giả không nắm được ẩn dụ của bài nói chuyện của ông. Cho tới
khi, ông
bạn ngồi kế tôi, Timothy Garton Ash, nghiêng qua thì thầm: “Tớ nắm được
rồi”. “Ông
ta đang nói về Quỉ Sứ”.
Quả
đúng như vậy.
Chính là cái nét nổi bật,
mang tính xác định của đường bay trí thức của Leszek Kolakowski mà ông
đã rất ư
là cẩn trọng khi nắn gân Con Quỉ.
Trong số những tiền đề dởm của
Marx, thì có cái này, theo ông:
Những nhược điểm, những nỗi
khốn khó của con người thì cắm rễ ở trong những hoàn cảnh xã hội.
Marx không nhận
ra một số nguồn gốc của xung đột và gây hấn có thể đã được cắm rễ ở
ngay trong
bản chất của muôn vật.
Hay, như ông diễn tả, trong bài nói chuyện tại Harvard: “Con
Quỉ, Cái Ác… thì không phải ngẫu nhiên, tình cờ… nhưng nó lì lợm, cố
đấm ăn xôi,
vô phương cứu chuộc, và đây là một sự kiện.”
Bởi vì Leszek Kolakowski, sống suốt cuộc xâm
lăng Ba Lan của Nazi, sau đó là cuộc ăn cướp của Liên Xô, cho nên ông
rất rành
câu vọng cổ: “Con Quỉ, Cái Ác là một phần kinh
nghiệm của chúng ta. Thế hệ chúng ta quá rành nó, thành thử đừng có coi
thường
thông điệp mà nó mang đến”
*
Vô phương cứu chuộc: Cái Ác Bắc Kít!
Tuyệt Cú
Đào
Hiếu và sự đơn độc 'đáng
sợ'
Cái câu mà Người Kinh Tế
vinh
danh Solz, mấy tay trong nước nên đọc.
Vào thời kỳ Xô viết, nói sự
thực đòi hỏi can đảm lớn,
và đem đến những hậu quả đáng sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối
chẳng có
bao, và thuộc đám trí thức hạng nặng, như Shakarov, người làm ra bom
nguyên tử
cho Liên Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí
thức. Nói sự
thực tuy vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya
vào năm
2006, cho thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì
không
phải là sự sợ hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ
lên bổng
lộc, và địa vị mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là
tà lọt
trung thành của hệ thống Xô Viết.
Cái ‘appetite’đã biến đồng chí của Đào Hiếu thành
ruồi.
Tưởng
niệm Solz
*
A child, after all, knows
most of the game – it's only an attitude to it that he lacks. He is
quite
aware
of cowardice, shame, deception, disappointment
Greene: The lost childhood [Tuổi thơ mất mát]
Nói cho cùng, một đứa trẻ biết hầu hết các trò chơi
- Chú bé chỉ thiếu một thái độ về nó. Chú cảm nhận được hết, thế nào là
hèn nhát, là nhục nhã, là dối trá, luờng gạt, là chán ngán, là thất
vọng [và đơn độc "đáng sợ"].
Ui chao, câu này mà gửi được về trong nước tặng đồng chí nhà văn VC Đào
Hiếu, thì tuyệt cú mèo!
Chú biết hết mọi trò chơi, nhất là trò chơi giết người. NQT
Đào Hiếu – Cách mạng không
phải của riêng ai.
Thứ đó, không phải của Gấu, sorry! NQT
*
....Và
Ngọc:
“Mày ơi!
Mày còn thì giờ để ý đến tao ư? Tao tưởng mày nghĩ đến thân phận mày
cũng đã đủ
lắm rồi. Thằng Bảo cho tao lãng mạn và chắc rằng chúng mày cũng đồng ý
với
nhau.
Nhưng hỡi ôi! Lãng mạn phải là chúng mày mới đúng. Đau khổ cho nhiều
vào, đọc
sách cho nhiều vào, xót thương mình chưa đủ rồi xót thương người… để mơ
mộng: cách mạng. Ôi chao cách
mạng! Cách mạng để làm gì? Những con ngựa bị
hành hạ đau quá thì lồng
lên hất thằng dô kề ngã mà chạy. Chạy đi đâu? Thằng dô kề nó sẽ túm
được, nó
đánh đập tàn nhẫn hơn và lại xỏ cương trèo lên.
“Thế nào tao cũng bỏ đất này đi, tao can đảm thú thực như thế, chết ở
chỗ khác
yên thân hơn. Còn hơn chúng mày lòng tin đã mất mà không dám thú thực,
mà vẫn
còn cố gắng giả tin.
“Bằng chứng là mày có tự do đâu, thằng Bảo vợ con và cái be nước mắm,
mày bỏ
trường này rồi cũng đến trường khác. A-men, mày đang tìm về với Chúa
đấy.
Cầu Chúa che chở cho cái thằng sâu kiến lúc nào cũng tưởng mình lớn
ngang Đức
Chúa. Làm dấu Thánh Giá và quì xuống.”
Ngọc
Thanh Tâm Tuyền: Bếp Lửa
*
Vào cái thời mông muội xa
xưa,
hai miền còn chưa thống nhất.
Khi tuổi thơ [của DH hơi
bị] lạc
đường
Những nỗi buồn lớn lao
của dân
Mít được sinh ra
Và những vị anh hùng cách
mạng,
những
VC nằm vùng,
những dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, như DH
được làm ra.
Ở tuổi thơ đã mất
của
Du Già
Nước Mít đã bị phản bội
(1)
(1) Mô phỏng bài thơ sau đây:
One had
lived for fourteen
years in a wild jungle country without a map, but now the paths had
been traced
and naturally one had to follow them. But I think it was Miss Bowen's
apparent
zest that made me want to write. One could not read her without
believing that
to write was to live and to enjoy, and before one had discovered one's
mistake
it was too late - the first book one does enjoy. Anyway she had given
me my
pattern - religion might later explain it to me in other terms, but the
pattern
was already there - perfect
evil walking the world where perfect good
can never
walk again, and only the pendulum ensures that after all in the end
justice is
done. Man is never satisfied, and often I have wished that my
hand had
not
moved further than King Solomon's
Mines, and that the future I had
taken down
from the nursery shelf had been a district office in Sierra Leone and
twelve
tours of malarial duty and a finishing dose of black-water fever when
the
danger of retirement approached. What is the good of wishing? The books
are
always there, the moment of crisis waits, and now our children in their
turn
are taking down the future and opening the pages. In his poem
'Germinal' A.E.
wrote:
In ancient shadows and
twilights
Where childhood had
strayed,
The world's great sorrows
were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of
Judas
Christ was betrayed.
Greene: The Lost
Childhood
Nguyễn
Huy Thiệp vs Kurtz
Don Quixote
Hiệp Sĩ Mặt
Buồn vs Hiệp Sĩ Sư Tử
DQ
A
Burnt-out Case
Tuy
nhiên khi tôi đọc A Burnt-out
Case , 1960, sau khi đọc The
Heart of the Matter, 1948, thì tôi nhận ra cuốn trước, The Heart
of the Matter, Trái tim
của Vấn đề, thú hơn. Câu chuyện sa ngã của Scobie xem ra có
nhiều lớp
lang, gay cấn. Ở mức độ tiểu thuyết là phải làm hài lòng người đọc, tôi
cảm
thấy A
Burnt-out Case thiếu một cái gì đó. Sau này, tôi nhận ra, đây
đúng là vấn đề của
nó: Cuốn tiểu thuyết được viết ra, để diễn tả một cái gì thiếu vắng;
để làm
cho bạn cảm thấy một điều gì đó, đúng điều bạn
mong mỏi, thì thiếu, vắng!
Bài
giới thiệu của James Wood
cũng thú lắm. Tay này nhắc một câu
của
Kierkegaard: Lũ man rợ, vô thần phạm tội, tất nhiên, nhưng khác dân Ky
tô: phạm
tội "trước Chúa". Và chỉ dân Ky tô thì mới phải còng lưng gánh gánh
nặng tội lỗi, thứ tội lỗi không làm sao trốn thoát: Tội nguyên thuỷ,
tội tổ
tông. Tội của Adam.
Từ đó, chỉ có những người
thực sự có niềm tin Ky tô thì mới tới được "điểm lạnh của tri thức về
cái
sự thất bại tuyệt đối", "the freezing point of knowing absolute
failure".
Sai.
Bởi vì không phải dân Ky tô, Gấu cũng đã từng kinh nghiệm "thất bại
tuyệt đối", khi BHD cứ thế mà đi, chẳng thèm quay nhìn lại, như những
ngày nào nơi cổng trường Gia Long:
“Khi em
đi vô cổng trường, rồi anh đừng có đứng lại lâu vì em sẽ
biết anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm cười nhìn anh, lũ bạn vô
lớp lại có
chuyện để nói..."
Trường
Sa hành
"Can
anyone who has
heard this music, I mean really heard it, still be a bad
person?"
Ta Vỡ
Thơ Đài Sử
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Những
con phố sau của Hà Nội
Nhà
trại thui thủi, chẳng cần Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.
Gấu thì
yêu đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.
Quá nửa
đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.
Ồn, dơ,
say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu
Tim Gấu
đập, mỗi lúc một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”
Nhà trại
thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.
THE BACK STREETS OF MOSCOW
On God
Chỉ người kiêu
ngạo mới ráng khiêm cung; chỉ người ngạo mạn mới tìm cách vứt bỏ tánh
kiêu căng
bằng tập luyện tánh khiêm cung. Tập luyện tánh khiêm cung còn là hành
vi tự
mãn. Lắng nghe và do đó biết, phải là phẩm chất tự nhiên của tánh khiêm
cung; và
một tâm trí hiểu bản chất của tánh khiêm cung thì không bao giờ theo
sau, không
bao giờ phục tùng ( To listen and therefore to learn, there must
be a
spontaneous quality of humility; and a mind that has understood the
nature of
humility never follow, never obeys). Làm thế nào cho điều hoàn toàn phủ
định,
trống không, phục tùng hoặc theo sau bất cứ người nào chứ?
*
Note: Thăm hỏi
Wednesday, September 23, 2009 10:23 PM
Trụ,
Khoẻ không mày? Bữa trước, trong một bữa cơm thân mật do một người bạn
mời, tao
có gặp và nói chuyện với xừ T., chủ tiệm sách VK (đã đóng cửa mấy
tháng
nay). Chúng tao có nói chuyện về mày và website của mày, xem ra xừ ấy
có vẻ
thường đọc mày.
Hình như tao cũng đã nói với mày computer của tao đã bị virus mấy tháng
trước
làm mất tất cả những bài dịch cuốn On God, [Về Thượng Đế] của
Krishnamurti. Tao lai rai dịch lại nhưng do lười nên không sốt sắng như
trước.
Tao dịch chủ yếu để thấy cái hiểu của mình và chỉ gởi mấy bạn bè thân
đọc chơi.
Hôm nay tao gởi mày 2 bài, mày đọc xem sao nhé.
NKL
Kun
Ở Xứ Mít
Có
mấy Nguyễn Quốc Trụ?
Epilogue
The Other
THIS book has not
been a self-portrait. I leave such a portrait to my friends and
enemies. All
the same, I did find myself for many years in search of someone who
called
himself Graham Greene.
Kẻ Khác.
Cuốn sách này không phải một thứ chân dung tự thuật. Tớ để việc đó cho
bạn bè
và kẻ thù. Tuy nhiên, trong nhiều năm tớ đặt tớ vào cái tình trạng tìm
kiếm,
truy lùng một thằng cha nào đó, tự coi nó là Graham Greene.
Dọn
Kít
Chán nhất là một số blog được
dựng lên để
dèm pha và bôi nhọ người khác cho thoả lòng đố kỵ nhỏ nhen của mình.
Cái gì họ
cũng gâu cả. (“Thằng ấy mà viết hay à? Truyện của nó thật quái đản!”
Gâu! “Viết
như vậy mà cũng được gọi là nhà đại phê bình à?” Gâu!)
Xin nói ngay: Kiểu nói
“gâu” như vậy không phải do tôi đặt ra.
Nhiều người nói vậy (hay
gần gần như vậy). Tôi chỉ lặp lại vậy.
Và không dám lạm bàn gì
thêm.
NHQ: Blog VOA
*
Note: Đây là nhà đại phê bình 'đáp lễ' Gấu.
Gâu, là muốn nói, đồ chó, đồng thời để chỉ Gấu.
Tuy nhiên, nhà đại phê bình phán ẩu.
Gấu này chê cái gì là có chứng cớ. Đọc thì biết.
Cỡ như NHQ chưa xứng đáng để Gấu dèm pha và bôi lọ.
Trên đời này, chưa có ai xứng đáng để cho Gấu này phải làm nhục mình
đến như
vậy.
Đó là sự thực.
Nhà đại phê bình có cái gì ghê gớm đâu, mà Gấu đố kỵ nhỏ nhen? Có "vĩ
cuồng" không đấy?
Trang Tin Văn được dựng lên từ khi chưa có Tiền Vệ, đâu phải để dèm pha
và bôi
lọ... ?
Cái trò khốn nạn, đánh lén, xâm phạm vào đời tư của người khác, ["Có
mấy NQT
?"], cái giọng văn khốn nạn, [ Lạ. Chẳng lẽ "hoa hồng là hoa
hồng" mà Nguyễn Quốc Trụ lại không phải là Nguyễn Quốc Trụ ư? ©
Talawas 2002] cũng đã xẩy ra từ đời nào, đâu phải mới đây?
Sở dĩ đến bây giờ mới nhắc tới, vì bây giờ mới rảnh.
Hơn nữa, cũng muốn, vào chót đời, phải viết một cái gì đó về nhà văn Võ
Phiến,
do cuốn của nhà đại phê bình, nhảm quá.
Võ Phiến xứng đáng để có một người nào đó, viết thật đúng về ông.
NQT
Trong phạm vi văn học,
được nhiều anh em cầm bút đánh giá cao nhất là
blog Quê
Choa của Nguyễn Quang Lập và blog của Nhị Linh (Cao Việt Dũng).
Đọc Nguyễn Quang Lập,
người ta thấy một người giản dị, thân mật, vô
cùng dí dỏm
và có ý thức công dân cao. Đọc Nhị Linh, người ta thấy một người say mê
đọc
sách, có trí nhớ tốt, thích tò mò nhiều chuyện liên quan đến thế giới
chữ
nghĩa.
NHQ
Đây là Hoa.
So với Cỏ và Rác, là trang Tin Văn
Nhưng, cũng vừa xoa đầu, vừa kéo bè kéo cánh đây!
Tuy nhiên, viết về họ, thì hai câu ngắn ngủi như vậy, là coi thường họ.
Gấu này, cũng đang tính viết về Blog NL, nhân ‘đụng độ’ về Kundera,
nhưng do tôn
trọng họ, [ngay cả kẻ thù, lại càng cần phải tôn trọng], nên cần phải
có thì
giờ, và phải đặt cả hai vào trong toàn cảnh văn học trong nước.
Khen đãi bôi như trên, thì cũng đại nhảm.
NQT
“Thằng ấy mà viết
hay à? Truyện của nó thật quái đản!” Gâu!
NHQ
Nguyễn Hưng Quốc
giới thiệu một truyện ngắn độc đáo
17/08/2009 | 5:46 sáng | Chưa có phản hồi.
Tác giả: talawas blog
Chuyên mục: Thời sự / Spectrum
Bạn rất nên đọc: “Lạc thú ẩm thực“ của Hoàng Ngọc-Tuấn, với lời giới
thiệu của
Nguyễn Hưng Quốc.
*
Note: "Truyện này", cũng thuộc loại "Thơ con cóc", cho thấy
cái gu quái đản của người viết, người giới thiệu, và của bà chủ sạp cá.
Gu này gọi là gu "ông vua cởi truồng"!
Bộ ba, tác giả, nhà phê bình, Sến Cô Nương tính bịp độc giả, tương tự
như cái
đám thợ may tính bịp ông vua, với chiếc áo thần kỳ của chúng, và cả bàn
dân
thiên hạ, cũng về hùa với đám thợ bịp, cũng hò theo, thần kỳ, thần kỳ,
rất nên
đọc, rất nên dòm, chỉ có đám con nít là nói thực, ơ kìa, ông vua cởi
truồng!
Nếu nhà phê bình, và luôn tiện, Sến Cô Nương, phán, rất nên đọc, thì
xin cho
biết, nên đọc ở cái chỗ nào? Cứ phán đại như thế, ai phán chẳng được!
(1)
(1) Trên blog VOA của nhà phê bình, ông coi đây là một thứ "phản
truyện", chôm [mô phỏng!], chữ của Sartre, khi gọi tiểu thuyết của Sarraute, một
thứ phản tiểu
thuyết.
Bà này, sau cho biết, rất cám ơn Sartre, vì nhờ Sartre, một phần nào
đó, khiến
bà nổi tiếng, nhưng bà nói thêm, thằng chả chẳng hiểu cái chó gì về
tiểu thuyết
của tôi!
V/v "phản truyện" này, Gấu sẽ xin đi một đường lèm bèm, sau.
NQT
Chán nhất là một
số blog được dựng lên để dèm pha và bôi nhọ người khác cho thoả lòng đố
kỵ nhỏ
nhen của mình.
NHQ
Có một khoảng
cách rất xa giữa ông đại phê bình và Gấu, không chỉ về tài năng, về
tuổi tác,
về vốn sống, vốn đọc. Một, ở đầu, và một, ở cuối một cuộc chiến, và
cuộc chiến
này làm tan hoang tất cả mọi nhận định về con người Mít, lịch sử Mít….
*
Như trên cho biết, Gấu nói cái
gu quái đản, chứ không phải truyện ngắn quái đản.
V/v gu quái đản. Cái này thì
quá rõ rồi. Thơ con cóc là thơ hay.
Cái truyện ngắn của HNT không
quái đản, vì nó là đồ sao chép, từ nhiều nguồn. Ai đọc thì cũng nhận rõ
điều này.
Chính vì thế mà văn phong của nó rất lạnh, [vì chứa đựng toàn thông
tin,
khúc này từ sách nấu ăn, khúc kia từ một tin trên báo], khiến nhà phê
bình "lầm
tưởng" [?], đây là một thứ “phản truyện”. Từ ‘phản truyện’ này là của
Sartre, nhà đại
phê bình chôm, nhưng không cho chúng ta biết.
Từ phản truyện ra tân tiểu
thuyết, thứ tiểu thuyết hầu như muốn diệt trừ tình cảm, thành thử còn
có tên,
phản con người.
Cái truyện ngắn thì là đồ sao chép, cắt dán, cái bài
thổi bạn HNT của nhà đại phê bình NHQ, thì cũng đồ chôm chĩa luôn, Gấu
viết rành
rẽ như thế, mà sao dám phán ẩu, “Cái gì
họ cũng
gâu cả.”?
Họ nào ở đây? Chỉ có một thằng
cha Gấu dám đụng tới hủi, “họ” đâu có dám,
vì sợ lây cùi!
|
|