|
Happy Birthday to U, Grandpa
Note. To CTC: Đã nhận tập
thơ, qua NKL.
Lại Marx
*
When all
else fails
THE
RISE AND FALL OF
COMMUNISM
Cuộc lên voi xuống chó của chủ nghĩa CS.
Bài điểm sách trên TLS chỉ ra một điều thực thú vị:
Tại sao CS xuống chó ở mọi nơi, trừ ở TQ, và, ở xứ Mít?
Nguyễn
Huy Thiệp vs Kurtz
Liệu có thể coi
NHT, một hình tượng nổi tiếng, một Kurtz của Conrad, trong Trái Tim của
Bóng
Đen?
Bài viết này, trên số báo đặc biệt về sự độc ác, Le Magazine
Littéraire, Tháng
Bẩy & Tám 2009, làm nhớ tới một lời tự thú của một nhà văn ra đi từ
Miền
Bắc: Tôi lụy NHT!
Câu nói đó, phải đọc
Trái Tim của Bóng Đen thì mới ngộ ra được: Tôi luỵ Cái Ác Bắc
Kít, mà
nhân vật
của NHT làm bật ra.
Liệu có thể gọi những truyện ngắn của NHT, như là
bài tập về
cái ác, l'exercice du mal?
Le «cœur des ténèbres», Heart of
Darkness, n'est donc pas seulement le
fin
fond du continent africain. C'est en Kurtz lui-même qu'il y a des
ténèbres.
L'expression anglaise est d'ailleurs ambiguë: on peut y comprendre
aussi « cœur
ténébreux », « cœur de ténèbres », comme on dit« un cœur de pierre ».
Kurtz
prétendait apporter la lumière de la civilisation dans des contrées
obscures,
et c'est lui qui se révèle profondément noir et sauvage.
Kurtz a aboli la différence entre haut et bas, noble et vil, bien et
mal.
Marlow, en face de lui, en ressent l'effet: il ne parvient pas à
formuler un
jugement à son sujet. Seul Kurtz peut prononcer un verdict sur sa
propre
existence. Il semble en être ainsi dans ses ultimes paroles:
«L'horreur!
l'horreur! »
Kurtz a percé le mystère de la vie, il a soulevé le voile, et il a vu
l'horreur. Marlow, sans aller aussi loin, entrevoit ce qu'il
expérimente:
l'état inouï que l'on atteint dans l'effacement des limites, c'est dire
dans
l'exercice du mal, apparaît à ses yeux comme l'objet d'une connaissance
nouvelle,
qui contribue à la méditation bouddhique que son visage exprime. Il est
difficile, par conséquent, d'appliquer aux rapports de Marlow et de
Kurtz le
schème narratif qui oppose un « bon» à un « méchant ».
Trái Tim của Bóng Đen,
sau cùng là... Hà Nội, qua NHT!
Gấu đã ngộ ra điều này, khi đọc Conrad, nhưng bài viết chỉ ra một điều
tuyệt vời:
Phải là Conrad, một anh thuỷ thủ, người của biển cả, mới nhìn ra một
cõi thối
rữa, là đất liền, là những đại lục, nhất là Cựu Đại Lục!
« Les affaires terrestres sont un pot-pourri d'événements, de désirs
contradictoires, de motifs inavouables, d'idées fausses, et de
croyances
illusoires. La mer représente un domaine réglé par des devoirs simples,
une
hiérarchie de valeurs clairement définies, la camaraderie et le goût du
travail
bien fait.” »
*
«L'horreur!
l'horreur! »
Ghê rợn! Ghê rợn!
Ta là hiện thân của Cái Ác Bắc Kít!
Ta là... Kít!
Có cả Faulkner nữa!
Giáo Đường, Sanctuaire,
ư?
Tất nhiên rồi!
Tôi tưởng tượng ra một
chuyện ghê rợn nhất, rồi bầy nó ra mặt giấy.
Câu của Faulkner, áp dụng vào Cánh
đồng bất tận mà không tuyệt sao?
Hemingway's
last words
This is to tell
you about a young man named Ernest Hemingway, who lives in Paris (an
American),
writes for the trans-atlantic review and has a brilliant
future,"
F. Scott Fitzgerald wrote to Maxwell Perkins in 1924. "I'd look him up
right
away. He's the real thing." By the time "the real thing" had
seen his brilliant future both realized and ruined, he had entered the
valley
of extreme emotional fragility, of depressions so grave that by
February of
1961, after the first of what would be two courses of shock treatment,
he found
himself unable to complete even the single sentence he had agreed to
contribute
to a ceremonial volume for President John F. Kennedy. Early on the
Sunday
morning of July 2, 1961, the celebrated author got out of his bed in Ketchum,
Idaho,
went downstairs, took a double-barreled Boss shotgun from a storage
room in the
cellar, and emptied both barrels into the center of his forehead. "I
went
downstairs," his fourth wife, Mary Welsh Hemingway, reported in her
1976 memoir,
"How It Was," "saw a crumpled heap of bathrobe and blood, the
shotgun lying in the disintegrated flesh, in the front vestibule of the
sitting
room."
"Thư này là để nói cho bạn biết về một tay còn trẻ tên là Hemingway,
sống
ở Paris (một anh Mẽo), viết cho tờ điểm
sách xuyên
Đại Tây Dương, và có một tương
lai sáng ngời",
Fitzgerald viết cho Perkins vào năm 1924. "Tôi bèn vồ lấy chàng. Đúng
là
thứ
bảnh, thứ thiệt".
Vào thời kỳ "thứ bảnh, thứ thiệt", thì, chính đương sự nhận ra rằng,
tương lai sáng ngời của mình, vừa, "đã được thực hiện", vừa,"đã
tiêu táng thòng", và chàng đang lần xuống vực thẳm, sau những cú chạy
điện
vô hiệu, thần kinh chàng hư hỏng đến độ, không làm sao hoàn tất, chỉ
một câu
văn, mà chàng hứa viết, góp phần trong vụ tưởng niệm me-xừ tổng thống
Mẽo bị
làm thịt.
Chúng ta sẽ đọc, Hemingway viết, về Scott Fitzgerald, trong Paris là ngày hội: Đểu không thua
gì thằng cha Gấu, khi viết về những đấng bạn quí
của nó!
*
Sainte-Beuve [1804-
1869] nhà
đại phê bình của Pháp, [Proust đổi thành Sainte Bave, bave: nước miếng,
lời độc ác], gần như không
tha
một nhà
văn nào cùng thời. Nhưng người ông thù nhất, là Hugo.
Sainte-Beuve có cả một cuốn sách
được ông đặt tên là “Những thuốc độc của tôi”.
Trong những lời độc dành cho
Hugo, có câu:
Hugo, ông lớn lao thật, nhưng
thế giới còn lớn lao hơn nhiều. Nó lớn lao, đủ để cho thiên hạ sống, và
đếch phải
gặp ông. Nó lớn lao đến nỗi ông, dù tưởng tượng lấp đầy cỡ nào, thì
cũng vô ích,
và nó lớn lao đến nỗi, thiên hạ vờ ông luôn.
Nhưng, tại sao tụi viết lách ưa đổ thuốc độc vào miệng nhau?
Câu hỏi thú vị này, Linda Lê đã từng trả lời, trong bài viết "Détruire,
disent-elles", trong số báo đặc biệt về sự độc ác, của tờ Le Magazine
Littéraire, Tháng Bẩy & Tám, 2009, khi trích dẫn Barbey: "Bởi
là vì quỉ ma hay thánh thiện, thì đều như nhau, vào cái lúc mà bạn đang
sướng điên lên được, vì vừa ỉa vào miệng một thằng bạn!" [« Le mot
diabolique ou divin, appliqué à l'intensité des jouissances,
exprime la même chose, c'est-à-dire des sensations qui vont jusqu'au
surnaturel. ».]
Mít mình có câu "vô độc bất trượng phu" [?], không độc thì đâu phải
đấng trượng phu, là cũng theo nghĩa đó!
The
Afterlife of Arthur
Koestler
Julian Barnes
Arthur Koestler: The
Homeless Mind by David
Cesarani.
Free Press, 646 pp., $30.00
When
Arthur Koestler killed
himself in March 1983, he left a suicide note in which he expressed
"some
timid hopes for a depersonalized after-life." Whether or not he has
attained this (and whether, if depersonalized, you are aware that what
you are
experiencing is an afterlife, or any other sort of life), he has
certainly had
visited upon him a personalized afterlife. It goes by the name of
biography.
This is neither surprising
nor wrong.
Koestler was an engage
intellectual, a novelist of political ideas, a journalist, agitator,
propagandist, and causist up to his final action: his suicide was in
part the
culmination of an argument for the right to do so, an exemplary act
when taken
by itself (which it wasn't, inevitably, given the accompanying suicide
of his
wife, Cynthia). He was someone who used and offered up his own life as
evidence. Born in Central Europe, politically forged by events in its
eastern
extremity (Russia), politically reoriented in its western extremity
(Spain),
tempted first by a home in the hot southeast (Israel), eventually
ending up as
a citizen of the cool northwest (Britain), Koestler could and did argue
that
his vagabonding, questing, hunted, and haunted existence was as
archetypal as
European life can get this century. He put it forward as such in his
two
volumes of autobiography, Arrow in the
Blue and The Invisible Writing.
Note: Bài điểm sách này, trong số báo NYRB 10 Tháng
Hai, 2000, mà do dọn nhà, Gấu phải vứt vô thùng recycle, toàn bộ những
số báo NYRB, The New Yorker, TLS, Lire, Obs... cất giữ từ 1994 tới nay.
Buồn. Nhưng sắp đi rồi, giữ làm khỉ gì nữa!
Tiếc, không có đời sau, "after life", như Koestler!
*
Julian
Barnes vs David
Cesarani.
Còn đây là cuốn tiểu sử được phép, về Koestler:
Writing about Koestler
Koestler: The
Literary and Political Odyssey of a Twentieth-Century
Skeptic by Michael
Scammell
*
Đời sau, ở đây, có nghĩa,
một
cuốn tiểu sử về một nhà văn, hay nghệ sĩ.
Khi Koestler tự sát vào Tháng Ba năm 1983, ông có để lại một cái note,
trong đó,
ông mong ước chút hy vọng nho nhỏ về một đời sau đã được bỏ đi cái phần
riêng tư
của mình.
Bất cứ một người viết nào, thì
cũng muốn như vậy, chẳng có gì là đáng ngạc nhiên hay sai lầm về một
ước muốn
như thế.
Cuốn tiểu sử của ông, của
Cesarani, khiến nhiều người khó chịu, trong có Barnes, người điểm sách
trên tờ
NYRB, còn là bạn thân của Koestler trong những năm cuối cùng của ông.
Cesarani khui
ra cái vụ Koestler rất mê “hấp diêm" phụ nữ, và đã từng, nhiều lần. Vào
tháng Tám
1998,
Jill Craigie, vợ nhà làm phim Michael Foot, có thời là thủ lãnh Đảng
Lao Động, kể
cho Cesarani nghe là, vào Tháng Năm 1952, Koestler đã quật bà xuống sàn
căn phòng
của bà, và hãm hiếp bà. Bà không nói cho ai hay vụ này, ngay cả chồng.
Bà mất
Tháng Chạp 1999.
Liệu một phát giác như vậy, ảnh
hưởng tới độc giả của Koestler ?
Có và không, theo Gấu.
Gấu nhớ là, có một lần, đọc một
bài báo, trên một tờ nhật báo, một phụ trang văn học, chắc thế, viết về
Dos,
trong đó khui ra một vụ, Dos đã từng hãm hiếp một em bé 10 tuổi, thời
gian đi tù
Siberia. Gấu đọc, và bị choáng đến độ, vứt ngay bài báo vào thùng rác,
như để
phi tang!
Sau này, đọc bài viết của
Freud, dùng làm tựa cho bản tiếng Pháp, cuốn Anh em nhà Karamazov, ông
có nhắc tới cáo buộc này, nhưng cho biết, chỉ là cáo buộc, allegation.
Cái kiểu ‘giật cái tít’ “Có mấy
Nguyễn Quốc Trụ ?”, của talawas và nhà đại phê bình, là cũng muốn nhắn
nhủ, này, coi
chừng chúng tao!
*
Khi nhìn lại đời mình, Gấu có
cảm giác, chẳng có chó gì là riêng tư, có thể nói, giới nhà văn nhà báo
Sài Gòn trước 1975 đều
quá rành về Gấu. Nhà phê bình chắc là không rành điều này, nên mới dọa
dẫm như
vậy.
Khi Gấu lấy vợ, ông bạn nhà văn DNM còn hăm he, nói với nó, nó mà
không viết,
là tao viết đấy. Điều này chứng tỏ, ông rất rành về cuộc đời, cuộc
tình, cuộc vợ
của Gấu. Những ông bạn như VL, DTL… còn sống sờ sờ, muốn hỏi gì, cần
gì, mấy
ông ấy
cung cấp hết.
Cuộc đời của Gấu ly kỳ, rùng rợn,
gay cấn, cay đắng, điêu linh... đến nỗi Gấu Cái nhiều khi thèm
được công bố cho thiên hạ cùng
biết, và
thúc ông chồng hãy viết ra đi, Nobel, Booker, dám lắm đấy!
Mới đây
thôi, đám bạn
cùng học, ở Mẽo, nhân tập thơ của một nhà thơ còn ở trong nước mới
ra lò, nhắc
chuyện cũ, cả bọn còn gật gù, không thằng nào làm được cái điều thằng
Gấu đã làm,
lúc đó đó!
Thành thử độc giả Tin Văn yên
chí. Trong đời Gấu, chưa từng làm một điều gì vi phạm đạo đức, lương
tâm con người
hết.
Nhưng, đời Gấu quả là có rất
nhiều phen liên quan tới những chuyện đạo đức, thế mới khổ!
Cờ bạc, rượu, gái, xì ke, ma tuý, tứ đổ
tường, dính hết!
*
Lạ. Chẳng lẽ "hoa hồng
là hoa hồng" mà Nguyễn Quốc Trụ lại không phải là Nguyễn Quốc Trụ ư?
NHQ
*
Viết khốn nạn như thế, mà đòi hỏi
nhà nước VC cần phải giáo dục dân Mít, về sự xấu hổ, ư?
NQT
*
Có lẽ thời hoàng kim của nhà đại
phê bình, là lúc Gấu vừa mới chân ướt chân ráo ra được ngoài này. Khi
đó, Người
chơi thân với Mai Thảo, và là đệ tử (?)
đắc
ý nhất của Võ Phiến. Người đang thai nghén cuốn tiểu sử sư phụ, đang
sửa soạn
ra báo riêng, cùng ông bạn thân, một nhà đại biên khảo. Người vỗ ngực
xưng tên
là nhà phê bình, trong vụ đụng độ với Đặng Tiến. Người được coi là số
1, chuyên
trị thơ, có thể chỉ sau… Đặng Tiến. Sau ai, sau Đặng Tiến thì cũng...
không được!
Thế rồi lòi
ra thằng Gấu.
Chán thiệt!
*
V/v "Có mấy NQT?"
Cũng vẫn Pascal, qua trích dẫn
của Greene, cảnh cáo:
Il ne faut pas essayer d'entrer dans la vie des
êtres malgré eux: retiens cette leçon, mon petit. Il ne faut pas
pousser le
porte de cette seconde ni de cette troisième vie que Dieu seul connaît.
Il ne
faut jamais tourner la tête vers la ville secrète, vers la cité maudite
des
autres, si on ne veut pas être changé en statue de sel ...
Đừng bao giờ kiếm cách chui xuống gầm giường nhà người khác, hãy nhớ
bài học này,
thằng nhỏ! Đừng bao giờ đẩy cánh cửa cuộc đời thứ nhì, thứ ba mà
chỉ Thượng Đế biết. Đừng bao giờ quay đầu về phía thành phố bí mật,
thành phố ma quỉ, chết tiệt của những kẻ khác, nếu không muốn biến
thành tượng muối...
Sa mạc Tác Ta
Kỷ
niệm, kỷ niệm
“Bởi vì em bởi vì tôi…”
Theo Gấu, phải Melville, mới là nhà văn phán câu phán bất hủ về tình
bạn, giữa
ông và Hawthorne, người mà ông đề tặng Cá Voi
Trắng, Moby
Dick, khi cuốn sách đuợc xb vào năm 1850.
Lịch sử sau cùng đã giảng hoà hai ông, và đem lại sự công bằng, ấy là
bởi vì,
cuộc đời của cả hai khác nhau thậm tệ, một thành công, một thất bại,
một dè
dặt, khép kín, một mở hết, xổ tung… và cuối cùng Melville kêu lên,
trong bài
thơ gửi bạn, Clarel:
Hãy cho ta cái tôi của ta ở trong mi!
[To U: “CM: Donne-moi ton moi!”]
*
Gấu nhà văn có lẽ là 'một
trong những kẻ độc nhất' được hưởng lợi nhờ Mẽo đổ quân vào Miền Nam.
Đúng ra, nhờ Phòng Thông Tin
Hoa Kỳ mà được đọc Bóng Đen Giữa Ban
Ngày, đúng vào lúc cần đọc, và đến
khi bỏ
chạy quê hương, lại mang nó đi cùng! [Vậy mà cũng không kịp, bởi vì nhà
văn VTH
đã kịp chôm cái tên rồi: Chiến lợi phẩm!].
Và nhờ nhà xb Ziên Hồng mà
được đọc gần như hầu hết những tác phẩm kinh điển, cổ điển của văn
chương Mẽo,
bản tiếng Việt, trong có Cá Voi Trắng của Melville.
Thú vị hơn nữa, Gấu cùng đọc
với bà cụ của TTT, vào những ngày đói khổ, còn đang đi học, ăn nhờ Bà
Trẻ Ngh.
Bà thì không sao, nhưng cô
con gái con của bà chị, Dì
Nh, thì thật
là khủng khiếp [Gấu có viết về
bà dì này trong Lần Cuối Sài Gòn. Và luôn cả về ông cậu, Cậu H. và
những cú đập
đầu vô tường của ông, mỗi lần bị Bà Nh.
này đay nghiến, hành hạ].
*
Gấu vẫn còn nhớ lần đọc, cùng
với bà cụ TTT, hình như một truyện của Hawthorne, về một vị khách lạ lỡ
độ
đường, xin trú tại một căn nhà ven sườn núi, và trong đêm, người khách
lạ, một
chàng trai, ngồi chuyện gẫu về cuộc đời với ông chủ nhà, trong khi cô
con gái
vừa hầu trà vừa hóng chuyện, vừa tưởng tượng ra cuộc đời sau này, [biết
đâu
đấy], có ông khách lạ ở trong cuộc đời của cô.
Đêm đó, bão tuyết. Cả nhà
chạy ra hầm trú ẩn, ăn vào lòng núi. Bão tuyết, núi lở, cuốn đi một
khoảng núi,
trong có hầm trú ẩn, vậy mà căn nhà lửng lơ treo vô sườn núi vẫn còn
nguyên
vẹn!
Câu chuyện này ám ảnh Gấu
hoài.
Nhưng quái quỉ thay, chính
cái truyện ngắn trên, lại ẩn tàng nghệ thuật của Melville, thứ nghệ
thuật mà
giới phê bình gọi là nghệ thuật đắm đuối, chìm xuồng, đắm đò..., l’art
du
naufrage, và cái câu, cái thú "thú" nhất của Melville, như ông thú
nhận:
"Tôi mê tất cả những
người lao xuống nước"
[J'aime tous les hommes qui
plongent].
Gấu không mê cái thú này.
Dòng họ Gấu bị nước nguyền rủa! Ông cụ Gấu, khi đặt tên cho mấy đứa con
trai,
là đã tiên tri ra cái điều dữ này:
-Quốc, coi chừng Nước [sông nước
& nhà nước VC]!
*
Cái truyện ngắn nhắc tới ở
trên, đúng là của Hawthorne:
The Ambitious Guest.
Gấu sẽ post lại trên Tin Văn, cũng là một cách, đi
một
đường cám ơn nhà xb Ziên Hồng, nhờ đó, Gấu được đọc những tác phẩm bất
hủ của
văn chương Mẽo, với những tác giả như Melville, Jack London, Hawthorne…
*
Theo server, thì 3, trong số
“top 10”, của 1011 search key phrases, của Tin Văn, là:
Phố vẫn
hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi.
Và:
Ngày mai
đi nhận xác chồng.
Ui chao, sao mà
tuyệt đến như
thế, hở Trời!
Nằm mơ cũng không thể tưởng
tượng ra được, một điều tuyệt đến như thế.
Hai câu trên, cùng một bài
hát sến, Gấu đã từng đi một đường hân hoan viết về nó, những ngày đầu
quen CM.
Cô mới cho biết, đang rất vui, đến nỗi không cần viết blog nữa. Bỏ
thuyền, bỏ
blog, bỏ thằng cha Gấu, cô CM bèn đi với bồ, đại khái thế
Như vậy, là Gấu còn nợ một
entry, về bài hát sến Ngày mai đi
nhận xác chồng, nghe lần đầu tại nông
trường
cải tạo Đỗ Hòa, thuộc Nhà Bè. Chiến khu Rừng Sát ngày nào.
Đây có lẽ là kỷ niệm cực kỳ
đau thương, bởi thế cho nên cực kỳ tuyệt vời của Gấu.
Tính mang theo, nhưng thôi,
CM đang vui, gửi thêm món quà này, cũng là để bye, bye, take care. NQT
Mao, Phật và tôi
Biết Xấu Hổ
Bài này trên Blog Osin, hiện
đang hot nhất trên
net. Thiên hạ khen um lên, còm rối rít, loạn xà ngầu, nhân người ngẫm
đến ta,
rồi so sánh ta, với đủ thứ người ngượm trên thế giới.
Ai cũng biết xấu hổ, trừ... VC.
Sao lạ thế, cà?
Vấn đề này - cái sự không biết xẩu hổ là gì của đám VC bây giờ - nó
liên quan
hữu cơ tới cái “tự hào của tự hào” của đám VC ngày nào (1). Tới cuộc
chiến thần
thánh chống Mỹ cứu nước. Kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cả hai thằng thực
dân cũ
và mới đều thua VC....
Thử hỏi có dân tộc nào bảnh như dân tộc... VC, khi được mọi sắc dân
trên thế
giới mơ, sáng ngủ dậy thấy biến thành… Yankee mũi tẹt?
Đừng nghĩ Gấu bị tẩu hoả nhập ma, cái gì cũng đổ cho VC. Nhưng đây là
một đề
tài rất nghiêm túc. Gấu khổ sở vì nó, nhất là từ sau khi trở về thăm
lại Đất
Bắc, đi đâu cũng hơi bị được rỉ tai, này, cái vụ tham nhũng đó, ở nước
người có
giống nước ta không. Trả lời, không giống, thì lại bị bồi thêm cú nữa,
tại làm
sao “ta” lại như thế?
Gấu nhức đầu với vấn đề này trước đó, nhưng dưới dạng khác, qui về câu:
Liệu
Cái Đói Bắc Kít có thể giải trừ được Cái Ác Bắc Kít? Liệu Cái Đói, thay
vì Cái
Đẹp, sẽ cứu chuộc thế giới?
(1) Có vẻ như bài viết của nhà đại phê bình gia, Cần
giáo dục dân Mít...,
được ‘gợi hứng’, từ bài viết của Gấu, chăng?
Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn
thì
trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói
quen, là tập
quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó,
đặt quá
nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng
đồng, phải
bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.
Nguyễn Khải
Những lèm bèm, như trên, của Nguyễn Khải nhảm, đại nhảm.
Lạ, là ông khởi nghiệp văn, bằng cú đánh thẳng vào "hang ổ" của Ky Tô
giáo, ở Miền Bắc, là vùng Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nếu Gấu nhớ không lầm.
Tại sao mấy ông nhà văn VC lại ưa nhắc tới Thượng Đế, Thập Tự, sau khi
đã từ
bỏ... Thượng Đế?
Có vài câu trả lời sau đây.
Một khi thần thánh hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx
chỉ
thành công, là làm cho Thượng Đế trở nên xa lạ, và trở thành một ám ảnh
khôn
nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer Dieu, le marxisme n'a réussi
qu'à
rendre Dieu plus étrange et obsédant.
Cioran: Nga xô và con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la
liberté, trong
Lịch sử và Không tưởng, Histoire et Utopie.
Nói rõ hơn, đây là hiện tượng 'ăn trả bữa' của mấy người bịnh khi hết
bịnh.
Nhưng, có lẽ câu trả lời của Jean Améry, là thú vị, và rất ư là cần
thiết cho
mấy ông nhà văn VC.
Ông Thánh của Lò Thiêu, như nhà văn Nobel, Kertesz, gọi, viết, trong
một tiểu
luận, "Làm cách nào vượt lên trên cái không thể vượt lên trên, cái quá
cả tội
ác, và hình phạt": Điều độc nhất khiến tôi phân biệt tôi, với đám quản
giáo, là một niềm âu lo, một nỗi băn khoăn. Nó lay động ở trong tôi,
đôi khi
thật mãnh liệt. Chắc chắn một điều, đây không phải là một băn khoăn
siêu hình,
mà là xã hội [sociale].
Điều hành hạ tôi, không phải là, Có hay Không Có Thượng Đế, Hữu Thể hay
Hư Vô,
mà chính là Xã Hội.
Chính xã hội tước bỏ niềm tin cậy của tôi về thế giới.
Đối với tôi, không phải thật khó khăn làm người, cho nên, thôi thì đành
làm bọ!
[Ce n'est pas parce qu'il m'est devenu difficile d'être un être humain
que je
suis devenu un être inhumain.]
*
Áp dụng một cách thông minh và thiên tài, câu của Ông Thánh Lò Thiêu
vào Việt
Nam sau 1975, cộng thêm nhận xét của anh VC nằm vùng Đào Hiếu, thì nó
như thế
này:
Thật quá khó làm người, khi chiến lợi phẩm thì đầy rẫy, cho nên tôi ăn
bậy, và
gen bị đột biến, và biến thành ruồi.
Hoàng Hưng, trong một bài trên talawas, cho rằng, do phế bỏ truyền
thống, mà
xẩy ra đại họa băng hoại đạo đức hiện nay.
Cái chuyện phế bỏ truyền thống, có, nhưng chưa đủ, để đưa đất nước
xuống vực
thẳm.
Những lời dối trá của nhà nước, mới gây đại họa.
Cioran, như trên, thì cho rằng, do phế bỏ Thượng Đế mà gây họa.
*
Tuy nhiên, Ha Jin cho rằng, có một sự khác biệt giữa hai xã hội, TQ và
Tây
Phương, và con người, vì là sản phẩm của xã hội, nên “dính trấu”. Theo
ông,
người TQ không tin có đời sau. Như đoạn dưới đây cho thấy, khi Ha Jin
viết về
Solz.
“Trọn đời tôi, chỉ lo viết có một thứ”, ông có lần nói như vậy. Ngôi
làng
Cavendish, theo nhà viết tiểu sử Solz vào lúc đó không có một vị bác
sĩ, mà do
bị bịnh thần kinh hông, nhà văn có tuổi Solz cứ phải đứng viết. Điều gì
làm ông
kiên trường như thế, theo tôi, [Ha Jin] không phải chỉ vì ông lo quá
cho cái
chuyện viết chỉ một điều đó, mà còn vì niềm tin Ky Tô của ông, chính
cái niềm
tin này kéo thành một dải, một sự liên tục vượt khỏi cuộc đời này.
Chính cái
niềm tin còn có một “sau-đời” khiến con người có thể sống cuộc đời này
mà chẳng
sợ hãi . Trong một cuộc phỏng vấn trước khi trở về Nga, Solz được hỏi,
ông có
sợ chết không, và ông trả lời với một bộ mặt thích thú: Làm gì có
chuyện đó.
Chỉ là một sự chuyển tiếp thật êm ả. Là một tín hữu Ky tô, tôi tin
rằng có
cuộc sống sau khi chết, và tôi hiểu rằng, đó không phải là chấm dứt đời
sống.
Linh hồn có một sự tiếp tục, và linh hồn cứ thế tiếp tục sống. Chết chỉ
là một
giai đoạn, và người ta có thể nói, một sự giải thoát.
Trong một đoạn khác, ông nói, “Mục đích của sự hiện hữu của con người
không
phải là hạnh phúc, mà là sinh trưởng, nẩy nở tinh anh."
Điều này có thể
cắt
nghĩa sức mạnh tinh thần của ông, từ đó, ông tiếp tục công việc của
mình khi
lưu vong.
Những lời nói của ông làm tôi nhớ đến cuộc gặp gỡ của tôi với một nhóm
thi sĩ
TQ, ở River Falls, Wis, vào Mùa Hè 2001. Một trong họ là bạn học cũ của
tôi.
Anh rất mê khí hậu và cảnh sắc của thành phố nhỏ này, nó làm anh nhớ
tới vùng
đông bắc TQ nơi cả hai chúng tôi sinh ra. Tôi hỏi anh, “Nếu có thể, anh
sống
một mình ở đây, để chú tâm vào chỉ việc làm thơ?”, anh ta trả lời, khó
lắm, tôi
cần, ít lắm cũng một người bạn.
Đúng là một câu trả lời đặc Tầu. Người TQ không trông mong vào một
quyền năng
vượt ra khỏi cõi người, như là một chỗ dựa về tinh thần. Điều này giải
thích
rất ít người TQ lưu vong tại Bắc Mỹ sống tách biệt, riêng lẻ, và hầu
hết trong
số họ sống ở thành phố. Không thích sống cô đơn chỉ là bề mặt của vấn
đề, và ở
dưới nó, là sự trống vắng một niềm tin tôn giáo và niềm tin này đem đến
một cái
nhìn khác về cuộc đời.
Người Việt,
Nam
hay Bắc đều tin vào tôn giáo.
Và tin vào chuyện làm điều thiện, để phước đức cho con cái.
Đều tin vào chuyện “đời cha ăn mặn, đời con khát nước.”
Khi phá huỷ chùa chiền, nhà thờ, VC đã làm mất niềm tin đó. Và cái câu
“đời cha
ăn mặn, đời con khát nước”, biến thành, “hy sinh đời bố, củng cố đời
con”.
Đọc lại
V[I]P
Thà nô lệ
anh Yankee mũi lõ
Dọn
Kít
Khi nghe Nguyễn Xuân Hoàng đề nghị “viết
một cái gì đó” cho blog NXH và
Bè Bạn lúc đầu tôi không mấy mặn mà…
DTD: Blog NXH và bè bạn, VOA.
Cái sự không mấy mặn mà này, Gấu biết lý do tại sao: Ông bạn quí của
Gấu
vốn rất nhiều bạn bè, nhưng có vẻ như ông chẳng ưa thằng bạn nào, [trừ
Khô Khốc
đại sư, có thể], hễ có dịp, là không thể bỏ qua, đi một đường không
được đẹp về
bạn bè của chàng!
Bây giờ thì Gấu lờ mờ nhận ra, tại làm sao mà DTD không mặn với Gấu!
Trước khi Gấu ra được ngoài này, và, kể từ khi Gấu cầy hai job, một,
được trả
tiền, phụ trách mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG, và một, chùa, đóng
góp bài
vở đều đặn cho mục Tin Văn, với cái tên Jennifer Tran, cho tờ Văn, thì
DTD là người
thường xuyên lo cái vụ giới thiệu văn học thế giới cho cả một trường
văn học hải ngoại, qua hai tờ báo trên. Và, có vẻ như cả hai ông chủ
báo đều không mặn với đóng góp của chàng.
Gấu được biết,
qua một nhân vật rất thân cận với tờ Văn Học, là NMG có lần than, ông
DTD này có vẻ như
không rành cả tiếng Anh, lẫn tiếng Việt. Những bài dịch Bản đồ tiểu thuyết của ông
cho VH, ngay tôi đây, cũng không làm sao đọc được, và hiểu được!
Cái này, là Gấu nghe qua một nhân vật thứ ba, thành thử độ chính xác
không
bảo đảm, nhưng "nói tóm lại", là, NMG không mặn những bài viết của DTD,
và một
khi Gấu xuất hiện, ông chủ báo vờ luôn họ Đào!
Cũng thế, là thái độ của ông chủ báo Văn.
Chính vì vậy mà ông không mặn Gấu, chăng?
*
Notre-Seigneur exige
que nous
aimions nos ennemis; c'est plus facile
souvent que de ne pas haïr ceux que nous aimons.
Pascal
Graham Greene trích dẫn,
trong bài viết về Mauriac, trong The Lost Chilhood and Other Essays
Hoá ra là ông Pascal này cũng
đã từng ngồi bên bờ sông Mekong, nhìn
thấy xác
bạn quí trôi lều bều qua. Người phán:
Chúa đòi hỏi chúng ta phải
tha thứ và thương yêu kẻ thù.
Ui chao, chuyện dễ ợt!
Khó, rất hơi bị khó, là đừng
có ghét bạn quí của mình!
*
Phản hồi từ người đọc đã là
quí, đằng này tôi lại được chính một tác giả ngoại quốc của quyển sách
được đề
cập tới liên lạc và tỏ lời chân thành cám ơn thì quả thực với tôi là
một an ủi
lớn
DTD
Dưới đây là lời chân thành cám ơn!
Sự thực, nó là một cái thư yêu
cầu cải chính, vì ông Đào lầm hình dịch giả là tác giả!
Sun, 12 Jul 2009 18:57:42
+0200 [07/12/2009 12:57:42 PM EDT]
>Dear Dao Trung Dao,
>I am Ferenc Barnas the
author of The Ninth. I am writing you because
>not long ago I found a
link (on the WEB) in which you have written
>about my novel in
Vietnemese [Vietnamese] language. The only problem is that the
>photo above the text is
the photo of my translater: Paul Olchvary.
>Here I send you my
website: you can download my photo from it:
>www.ferencbarnas.com
>Yours Sincerely,
>Ferenc Barnas
Vì cùng là dân học
chuyên ngành Triết nên việc chuyện trò trao đổi giữa chúng tôi thật dễ
dàng
thoải mái. Ferenc Barnas viết tiếng Anh khá chuẩn.
DTD
No còm!
Nhưng giá mà Đào quân phán, ông
mũi lõ viết tiếng Việt khá chuẩn, thì may ra còn hiểu được!
Don Quixote
Manguel coi Don
Quixote, là một, trong số 36 Just Men, lên đường hành hiệp, trong
một thế
giới vô đạo, bất công.
Notes:
(1). Gấu biết Manguel qua NTV, thời gian
mới ra ngoài này, cc 1994. Nhân một chuyến đi thăm tiệm sách Toronto, anh
giới thiệu cuốn A History of
Reading, của Alberto Manguel. Sau, Gấu vô thư viện, đọc thêm cuốn
Từ điển
những nơi chốn giả tưởng, A Dictionary of Imaginary Places. Cả
hai cuốn
đều tuyệt. Thời gian đó, Manguel là cư dân Toronto, như Gấu. Ông sinh ra tại
Buenos
Aires, dời tới Toronto năm 1982, trở thành công dân Canada, và hiện nay
(2007),
sống tại Pháp.
Manguel khi
còn trẻ, có thời gian làm thư ký cho Borges, khi ông này đã bị mù.
Ông có viết mấy cuốn về Borges.
Manguel, theo
Gấu được biết, có hai bài viết về Don Quixote, rất thú vị,
một, trong cuốn A Reading Diary, và một trong Thành phố chữ, The
City
of Words: Những cuốn sách về Don Quixote. The Books of Don
Quixote
Nabokov
coi Don Quixote là cuốn sách ác ôn côn đồ nhất đã từng được
viết ra. Kundera cũng đã từng ‘phản biện’ cách đọc của Nabokov. Bây giờ
chúng
ta đọc Manguel viết về nó: Don Quixote
NTV cũng là
người gợi ý một ông Mít khác, cũng dân viết lách, nên đọc cuốn S. Nhưng ông này, vì một lý do… "nào đó", sau
phịa ra, đã từng đọc nó, khi ở trại tị nạn. Chuyện này ì xèo một thời
gian, nay
cũng chìm vào quên lãng. (2)
NTV còn là
ngưòi đề nghị Gấu dịch từ "Extraordinary Fellow", tước vị
của Steiner, là Nghiên Cứu Sinh, khiến Hoặc Ngữ bực mình, nhưng chuyện
này tính
sau. (3)
(2). Trường
hợp TH
(3). Đáp
lời Hoặc Ngữ
Về
Sự Cẩn Trọng
(4). Just Men.
Nhưng
"juste", ở đây theo tôi, còn muốn nhắc tới huyền thoại về một
con người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man) của dân
tộc
Do-thái. Đây là một huyền thoại được nhiều nhà văn sử dụng, như là một
biểu
tượng để nói về phận người, (nhất là phận người Do Thái, trong thế kỷ
của Lò
Thiêu), thí dụ như trong truyện ngắn Cây Vĩ Cầm (Rothschild's Fiddle)
của
Chekhov (đã giới thiệu trên Văn Học Nghệ Thuật trên lưới do Phạm Chi
Lan chủ
biên, Việt Báo online, và trên Hợp Lưu). Hoặc trong cuốn tiểu thuyết
"Người Công Chính Cuối Cùng", (của André Schwarz-Bart, đã được giải
thưởng văn chương Pháp Goncourt năm 1959), theo đó, thế giới ngự trị
trên 36 kẻ
công chính. Kẻ công chính, le juste, hay "lamed-waf", người què gánh
tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội rễ nhà trời" (les racines du ciel,
chữ của
Romain Gary), nhưng bề ngoài, họ chẳng khác gì những con người bình
thường.
Giữa họ, cũng chẳng thể nhận ra nhau. Nhưng chỉ cần một, trong số 36 kẻ
công
chính thiếu đi, là nỗi đau khổ của con người làm độc ngay cả đến tâm
hồn của
những trẻ thơ, và nhân loại nghẹt thở vì tiếng khóc bi thương này. Bởi
vì
"lamed-waf" là trái tim của thế gian, nơi mọi đau khổ đều đổ xuống
đó. Như thể nhân loại có bao nhiêu khổ đau, là có bấy nhiêu truyền
thuyết về
"người què gánh tội", bởi vì sự hiện diện của họ là ở khắp nơi. Vào
thế kỷ thứ 7, những người Do Thái thuộc vùng Andalousie, Tây Ban Nha,
đã sùng
bái một khối đá mang hình giọt nước mắt, mà theo họ đây là linh hồn của
một
"lamed-waf". [Liệu chúng ta có thể hiểu huyền thoại hòn vọng phu, như
là giọt nước mắt, linh hồn người đàn bà suốt chiều dài dựng nước của
dân tộc?].
Và khi một kẻ công chính vô danh về trời, trái tim của người đó giá
lạnh đến
nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn năm trong lòng bàn tay của Người, để
sưởi ấm
cho nó. Và như người ta được biết, hầu hết trong số họ, trái tim chẳng
làm sao
ấm lại được nữa. Thượng Đế cũng chịu thua. Và Người thỉnh thoảng lại
phải vặn
nhanh lên ‘một phút’ chiếc đồng hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.
Bạn đã đọc Don Quixote chưa?
Don
Quixote wants
to be a just man for his own sake, not out of obedience to human or
divine
laws. "Ah, Lord! Give me the strength and the courage/ To look upon my
heart and my body without disgust!" The prayer by Baudelaire sums up
Don Quixote's
ethics.
Một cuộc gặp gỡ
Cuốn này có lẽ là cuốn tuyệt
vời nhất của Kundera. Mỗi bài viết, về một lần gặp gỡ, một tác giả,
thì, dùng
chữ của Kawabata, đúng như một truyện ngắn ở trong lòng bàn tay, và
mượn luôn lời
của ông nhà văn này, để giải thích, cả hai:
Những
người viết,
khi trẻ thường làm thơ. Tôi, thay vì làm thơ, viết những truyện trong
lòng bàn
tay.... Tinh thần thi ca những ngày trẻ thơ của tôi sống mãi ở trong
chúng".
Bài viết ngắn sau
đây, về một bài thơ của Oscar Milosz, quá tuyệt. Nhất là khi Kundera
giải thích,
tại làm sao Gide lại gạt bỏ Milosz ra, trong một tuyển tập thơ Pháp,
vào năm
1949, mà ông thực hiện cho Gallimard: Chẳng thể làm sao lại có Oscar
Milosz ở
trong đó được; thơ của ông không phải Tây; giữ dịt lấy mọi gốc rễ
polono-lituanienne của nó, ông trú ẩn ở trong tiếng Tây, như là một tu
viện. Chúng
ta hãy coi sự từ chối của Gide, như là một cách bảo vệ sự cô đơn không
thể nào đụng
tới của một kẻ lạ; một Kẻ Lạ. (1)
Ui chao, làm sao
mà lại buồn, lại lèm bèm, bực bội, khi tụi hủi nó chừa mình ra?
(1) Kundera viết hoa, chắc là muốn nhắc tới Camus?
*
L'INTOUCHABLE
SOLITUDE D'UN
ÉTRANGER (Oscar Milosz)
1
La première fois que j'ai vu
le nom d'Oscar Milosz, c'est au-dessus du titre de sa Symphonie
de Novembre traduite en tchèque et publiée quelques mois
après la guerre dans une revue d'avant-garde dont j'ai été, à dix-sept
ans, un
lecteur assidu. À quel point cette poésie m'avait envoûté, je l'ai
constaté
quelque trente ans plus tard, en France, où pour la première fois j'ai
pu
ouvrir le livre de poésie de Milosz dans l'original français. J'ai vite
trouvé
la Symphonie de Novembre, et en la
lisant j'ai entendu dans ma mémoire toute la traduction tchèque
(superbe) de ce
poème dont je n'ai pas perdu un seul mot. Dans cette version tchèque,
le poème
de Milosz avait laissé en moi une trace plus profonde, peut-être, que
la poésie
que j'avais dévorée à la même époque, celle
d'Apollinaire ou de Rimbaud ou de Nezval ou de Desnos. Indubitablement,
ces
poètes m'avaient émerveillé non seulement par la beauté de leurs vers
mais
aussi par le mythe entourant leurs noms sacrés, qui me servaient de
mots de
passe pour me faire reconnaître par les miens, les modernes, les
initiés. Mais
il n'y avait aucun mythe autour de Milosz: son nom totalement inconnu
ne me
disait rien et ne disait rien à personne autour de moi. Dans son cas,
j'ai été
envoûté non pas par un mythe, mais par une beauté agissant d'elle-même,
seule,
nue, sans aucun soutien extérieur. Soyons sinncères : cela arrive
rarement.
2
Mais pourquoi justement ce
poème? L'essentiel, je pense, résidait dans la découverte de quelque
chose que
jamais nulle part ailleurs je n'ai rencontré: la découverte de
l'archétype d'une
forme de la nostalgie qui s'exprime, grammaticalement, non pas par le
passé
mais par le futur. Le futur grammatical
de la nostalgie. La forme grammaticale qui projette un passé éploré
dans un
loinntain avenir; qui transforme l'évocation mélancolique de ce qui
n'est plus
en la tristesse déchirante d'une promesse irréalisable.
Tu seras
vêtu de violet pâle, beau chagrin!
Et les fleurs de ton chapeau seront tristes et petites
3
Je me rappelle une
représentation de Racine à la Comédie-Française. Pour rendre les
répliques naturelles,
les acteurs les prononçaient comme si c'était de la prose; ils
effaçaient
systématiquement la pause à la fin des vers; impossible de reconnaître
le rythme
de l'alexandrin ni d'entendre les rimes. Peut-être pensaient-ils agir
en
harmonie avec l'esprit de la poésie moderne qui a abandonné depuis
longtemps et
le mètre et la rime. Mais le vers libre, au moment de sa naissance, ne
voulait
pas prosaiser la poésie! Il voulait la débarrasser des cuirasses
métriques pour
découvrir une autre musicalité, plus naturelle, plus riche. Je garderai
à
jamais dans mes oreilles la voix chantante des grands poètes
surréalistes
(tchèques aussi bien que français) récitant leurs vers! De même qu'un
alexandrin, un vers libre était lui aussi une unité musicale
ininterrompue,
terminée par une pause. Cette pause, il faut la faire entendre, dans un
alexandrin aussi bien que dans un vers libre, même si cela peut
contredire la logique
grammaticale de la phrase. C'est précisément dans cette pause cassant
la
syntaxe que consiste le raffinement mélodique (la provocation
mélodique) de
l'enjambement. La douloureuse mélodie des Symphonies
de Milosz est fondée sur l'enchaînement des enjambements. Un
enjambement chez
Milosz, c'est un bref silence étonné devant le mot qui arrivera au
début de la
ligne suivante:
Et le
sentier obscur sera là, tout humide
D'un écho de cascades. Et je te parlerai
De la cité sur l'eau et du Rabbi de Bacharach
Et des Nuits de Florence. Il y aura aussi
4
En 1949, André Gide a établi
pour les éditions Gallimard une anthologie de la poésie française. Il
écrit
dans la préface: «X. me reproche de n'avoir rien donné de Milosz. [ ...
]
Est-ce un oubli? Non pas. C'est que je n'ai trouvé rien qui me parût
particulièrement valoir d'être cité. Je le répète: mon choix n'a rien
d'historique et seule la qualité me détermine. » Il y avait, dans
l'arrogance
de Gide, une part de bon sens: Oscar Milosz n'avait rien à faire dans
cette
anthologie; sa poésie n'est pas française; gardant toutes ses racines
polono-lituaniennes, il s'était
réfugié dans la langue des Français comme dans une chartreuse.
Considérons donc
le refus de Gide comme une noble façon de protéger l'intouchable
solitude d'un
étranger; d'un Étranger.
*
Ui chao, cái gọi là “chủ kiến”,
của Kundera mới ghê gớm làm sao: Le futur
grammatical de la nostalgie.
Tương
lai văn phạm của hoài nhớ!
Câu ông phán về
thơ tự do mà
chẳng “chủ kiến” sao:
Mais le vers libre, au
moment
de sa naissance, ne voulait pas prosaiser la poésie!
Nhưng mà thơ tự do, vào
cái lúc nó ra đời, đâu có muốn làm cái chuyện
xuôi hóa thơ!
*
Thật tội
nghiệp con cóc. Thấy hình dáng của nó xấu xí,
bước nhẩy của nó sao mà cù lần, mấy tên thi sĩ dởm bầy đặt làm thơ
vịnh,
nó đã nhục một lần, bị một ông phê bình gia, lôi ra khen lấy khen để,
nhục thêm một lần nữa! NQT
*
Đó là năm 1972. Tôi
[Kundera]
gặp một cô gái tại ngoại ô Prague,
trong một căn phòng người ta cho chúng tôi mượn. Hai ngày trước đó,
trong
suốt một ngày, cô gái bị công an tra hỏi, về tôi. Cô muốn lén gặp tôi,
cô nghi mình vẫn bị công an theo dõi thường trực, và cô muốn cho tôi
biết về
những gì công an hỏi cô về tôi, và cô trả lời ra sao. Trong những cuộc
tra hỏi
như thế, đã có những câu trả lời của cô trùng hợp với những câu của tôi.
Một cô gái chưa từng biết gì
về cuộc đời, có thể nói như thế. Cuộc tra hỏi làm cô khốn khổ, và sự sợ
hãi
khiến cô đau thắt ruột, từ ba bữa nay. Da dẻ cô nhợt nhạt, và cứ chốc
chốc lại
phải chạy vô nhà vệ sinh, để đi tiểu, đến nỗi, suốt cuộc gặp, tiếng
nước dội
cầu trấn át tất cả.
Tôi biết cô gái từ lâu. Cô
thông minh, sắc sảo, đầu óc sáng rỡ, rất rành trong việc làm chủ những
xúc
động, cách hành xử, và cách ăn mặc của cô thì mới tuyệt vời làm sao,
với
chiếc áo dài giấu kín mọi nét hở hang. Vậy mà, đùng một cái, nỗi sợ
khiến tất cả mở toang. Nỗi sợ,
giống như lưỡi dao, mở toang thân thể cô gái. Cô đứng trước tôi, toang
hoác, chẳng che đậy, giống như một khúc thịt treo trên cái móc của anh
hàng
thịt.
Tiếng nước dội cầu vẫn âm ỉ, trấn ngự, và bỗng nhiên, tôi chỉ
muốn hiếp cô gái.
Hiếp, chứ không phải làm
tình!
*
Không chạm tới được nỗi cô
đơn của người lạ
1
Lần đầu tiên tôi thấy tên
Oscar Milosz là trên cái tựa Bản
Giao Hưởng tháng Mười Một, được dịch ra tiếng
Tiệp, được xuất bản vài tháng sau chiến tranh trong một tạp chí thời
thượng mà
ở tuổi mười bảy, tôi là một độc giả chuyên cần. Bài thơ này đưa tôi lên
tận mây
xanh, ba mươi năm sau ở Pháp, tôi đã ghi nhận điều này khi lần đầu tiên
tôi mở
quyển thơ của Milosz trong ấn bản nguyên thủy tiếng pháp. Tôi nhanh
chóng tìm
thấy bài thờ Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, khi đọc lại tôi còn nhớ như in
không sót một chữ bài dịch tiếng Tiệp tuyệt vời ngày xưa. Trong bản
tiếng Tiệp,
bài thơ này đã để dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi, có thể, còn hơn cả các
bài thơ
tôi đọc hồi đó của Apollinaire, Rimbaud, Nezval hay Desnos. Rõ ràng
không chối
cãi, các bài thơ này huyễn hoặc tôi không những vì nó hay mà còn do
huyền thoại
tạo ra chung quanh tên tuổi thiêng liêng của họ, làm từ khóa để qua các
văn sĩ
của tôi, tôi biết ai là người hiện đại, ai là người tiên phong. Nhưng
chẳng có
huyền thoại nào chung quanh cái tên Milosz, một cái tên lạ hoắc, không
làm cho
tôi liên tưởng đến ai, và cũng không nhắc tôi nhớ đến ai chung quanh
tôi. Trong
trường hợp của ông, tôi ngẩn ngơ không phải vì một huyền thoại mà vì
chính cái
đẹp của nó, một mình, trần trụi, không trụ chống bên ngoài. Chúng ta
hãy trung
thực với mình chuyện này : chuyện này rất hiếm khi xảy ra.
2
Nhưng tại sao lại chỉ chính
bài thơ này ? Tôi nghĩ, chính yếu, là nó nằm trong cái mà tôi chưa bao
giờ thấy
ở đâu hết : sự khám phá mẫu lý tưởng của một hình thức nhớ nhung mà nó
diễn tả,
theo ngữ pháp, một loại nhớ nhung không phải qua quá khứ mà qua vị lai.
Thời vị
lai ngữ pháp của nhớ nhung. Hình thức ngữ pháp phóng chiếu một quá khứ
đau buồn
lên một tương lai xa xăm ; chuyển tải cái gợi nhớ buồn bã không còn nữa
lên nỗi
buồn tan nát của một lời hứa không thể nào thực hiện được.
Nỗi buồn xinh xắn ơi, em
sẽ
khoác chiếc áo màu tìm nhạt,
Và các nụ hoa trên mũ của
em
sẽ nho nhỏ và buồn buồn.
3
Tôi còn nhớ buổi trình diễn
kịch của Racine
ở nhà Kịch Comédie-Française. Để làm cho lời đối đáp được tự nhiên, các
diễn
viên đọc thơ như đọc văn vần; họ xóa một cách có hệ thống phần nghĩ
đàng sau
mỗi câu thơ; không thể nào nhận ra nhịp điệu alexandrin, cũng không
nghe lối
họa vần. Có thể họ nghĩ làm như vậy sẽ hài hòa với tinh thần thơ văn
hiện đại,
loại bỏ từ lâu vừa vần vừa âm luật. Nhưng vần thơ tự do, từ khi sinh ra
đã
không muốn làm thơ văn tầm thường ! nó muốn loại cái vỏ ngoài kích
thước để
thấy tính âm nhạc, tự nhiên hơn, phong phú hơn. Tôi lúc nào cũng giữ
trong tai
tôi giọng nói như hát của các thi sĩ lớn siêu hiện thực đọc thơ (tiệp
cũng như
pháp) !
4
Năm 1949, André Gide làm một
quyển hợp tuyển thơ Pháp cho nhà xuất bản Gallimard. Ông viết trong lời
mở đầu:
«X. trách tôi đã không dành một chỗ nào cho Milosz. [ ... ] Quên sao?
Không. Là
vì tôi không thấy một cái gì đặc biệt để đáng đưa ra. Tôi lặp lại: lựa
chọn của
tôi không có tính cách lịch sử gì hết, chỉ có phẩm chất mới làm tôi
quyết
định.» Câu nói phách lối của Gide có lý một phần: Oscar Milosz chẳng
dính gì
trong hợp tuyển này ; thơ của ông không phải là thơ tiếng Pháp; vì ông
giữ tất
cả nguồn cội gốc rễ Ba Lan-Li-tu-a-ni, ông núp trong ngôn ngữ Pháp như
trốn
trong tu viện. Chúng ta hãy xem lời từ chối của Gide như một cách quý
phái để
gìn giữ cái cô đơn không chạm tới được của một người lạ ; một Người Xa
Lạ.
[LN dịch]
Phan Xuân Sinh – 41 năm sau: Mỹ Lai và
Mậu Thân
V/v. Rất nhiều phen, chính
VC đẩy tụi
Mẽo đến nước phát khùng, rồi làm bậy, rồi sẵn máy, bèn quay quay, chụp
chụp và đưa
lên
Youtube!
Thế mới ghê.
Gấu này làm cho UPI, chuyên
viên vô tuyến viễn ảnh, quen biết Mẽo cũng nhiều, nghe kể những chuyện
động trời
cũng rất nhiều. Thí dụ chuyện này: Biết mấy anh GI rất mê con nít, và
rất nhớ vợ
con, thế là mấy anh VC bèn cho con nít chạy chơi nhong nhong trước mấy
anh Mẽo,
mấy anh này bèn vẫy lại, xoa đầu, cho kẹo, mấy đứa con nít bèn thừa cơ
giúi mấy
trái lựu, mấy trái mìn claymore định giờ vô túi quần anh Mẽo, rồi…
chuồn.
Havel cũng phán như vậy, chỉ cần mấy anh Mẽo chết, sau cú Tháp Đôi, là
cả nước Mẽo phát khùng, gây ra hai cuộc chiến.
VC còn sử dụng đòn này, khi ngụy tạo vụ đầu độc tù Phú Lợi, khiến mấy
anh Mít miệt vườn yêu nước phát khùng, theo VC hết trơn! Thí dụ
như những tay Đào Hiếu chẳng hạn!
Tôi quay lại và... vẫy tay chào từ biệt.
|
|