|
Bếp
Lửa Ottawa
Happy
Birthday to U, Richie, 5.7.09
Jen @ London, Ont.
Fishing with Mom & Dad
"Magnificent."
-Publishers Weekly
Brilliant and illuminating,
this astonishing debut novel by the award-winning writer Yiyun Li is
set in
China in the late 1970s, when Beijing was rocked by the Democratic Wall
Movement, an anti Communist groundswell designed to move China beyond
the dark
shadow of the Cultural Revolution toward a more enlightened and open
society.
In this powerful and beautiful story, we follow a group of people in a
small
town during this dramatic and harrowing time, the era that was a
forebear of
the Tiananmen Square uprising.
Morning dawns on the
provincial city of Muddy
River.
A young woman, Gu
Shan, a bold spirit and a follower of Chairman Mao, has renounced her
faith in
Communism. Now a political prisoner, she is to be executed for her
dissent. Her
distraught mother, determined to follow the custom of burning her only
child's
clothing to ease her journey into the next world, is about to make
another bold
decision. Shan's father, Teacher Gu, who has already, in his heart and
mind,
buried his rebellious daughter, begins to retreat into memories.
Neither of
them imagines that their daughter's death will have profound and
far-reaching
effects, in Muddy
River
and beyond.
In luminous prose, Yiyun Li
weaves together the lives of these and other unforgettable characters,
including a serious seven-year-old boy, Tong; a crippled girl named
Nini; the
sinister idler Bashi; and Kai, a beautiful radio news announcer who is
married
to a man from a powerful family. Life in a world of oppression and pain
is
portrayed through stories of resilience, sacrifice, perversion,
courage, and
belief. We read of delicate moments and acts of violence by mothers,
sons,
husbands, neighbors, wives, lovers, and more, as Gu Shan's execution
spurs a
brutal government reaction.
Writing with profound
emotion, and in the superb tradition of fiction by such writers as
Orhan Pamuk
and J. M. Coetzee, Yiyun Li gives us a stunning novel that is at once a
picture
of life in a special part of the world during a historic period, a
universal
portrait of human frailty and courage, and a mesmerizing work of art.
Yiyun Li is a recipient of
the Frank O'Connor International Short Story Award, the Hemingway
Foundation/PEN Award, the Guardian First Book Award, and a Whiting
Writers'
Award. She was also selected by Granta as one of the best young
American
novelists under thirty-five. She lives in Oakland, California,
with her husband and
their two sons.
www.yiyunli.com
To receive monthly updates on
our new book releases, join the At Random e-newsletter at
www.atrandom.com
Random House New York,
NY
© 2009 by Random House, Inc.
Advance
praise for The Vagrants
"Yiyun Li has written a
book that is as important politically as it is
artistically. The Vagrants is
an enormous achievement."
-ANN PATCHETT, author of Run and Bel Canto
"Ezra Pound said that
literature is news that stays news.
Nothing could be a more apt
description of Yiyun Li's extraordinary new novel, The
Vagrants. It is a book about a street, but a street that turns
the corner into another street, then turns into a town, and soon
becomes a
whole country.
Li finds the music in the
smaller lives and makes them symphonic. This is history and memory at
their
most raw and brilliant, reminiscent of Saramago, Aciman, and Coetzee. The Vagrants is a novel to be savored
and discussed."
-COLUM MCCANN, author of Zoli
"Every once in a while a
voice and a subject are so perfectly matched that it seems as if this
writer
must have been born to write this book. The China Yiyun Li shows us is
one most
Americans haven't seen, but her tender and devastating vision of the
ways human
beings love and betray one another would be recognizable to a citizen
of any
nation on earth."
-NELL FREUDENBERGER, author
of The Dissident
"This is a book of loss
and pain and fear that manages to include such unexpected
tenderness and grace notes that, just as one can bear it no longer, one
cannot
put it down. This is not an easy read, only a necessary and deeply
moving
one."
-AMY BLOOM, author of Away
''A starkly moving portrayal
of China in the wake of the Cultural Revolution, this book weaves
together the
stories of a vivid group of
characters all struggling to find a home in their
own country. Yiyun Li writes with a quiet, steady force, at once stoic
and
heartbreaking."
-PETER HO DAVIES, author of The Welsh Girl
*
The Vagrants là
một cuốn sách về một con phố, và con phố dẫn tới một góc phố, dẫn tới
một con phố khác, dẫn tới một thành phố và chẳng mấy chốc, dẫn tới cả
một xứ sở.
'I'm not
going to satisfy people's curiosity about exotic China'.
[Tôi đâu có
ý định thỏa mãn sự tò mò của mọi người về một cái mùi lạ của một cô Xẩm]
Found
in translation
Yiyun Li, tác giả cuốn A Thousand Years of Good Prayers, trả lời phỏng
vấn khi cuốn sách của bà được giải [the] Guardian First Book Award.
Như thế đấy, là cái việc học tiếng Anh, và sau đó, viết văn bằng
tiếng Anh.
Chẳng lẽ phải nhắc lại câu nói đó cho mấy ông mấy bà "da mầu",
khi, cứ ị ra được một cục nào là dịch liền tù tì ra tiếng Anh tiếng U.
"Chúng tôi quả có ý định, thỏa mãn tính tò mò, của mọi người,
về mùi lạ, của một cục kít Việt!"
Chúng tôi hô khẩu hiệu khi đạn vô sọ anh ta.
Yiyun Li: A thousand years of good prayers
Đọc Ngàn
năm kinh kệ
Ôi chao, tôi cứ tưởng tượng ra một cô gái, ở trong nước; cô nói với
ông bô bà bô VC của cô như thế này:
"Cái thứ tiếng Việt mà bố mẹ, thầy bu... đang nói đó,
không phải là tiếng Việt!"
Nhật
Ký Tin Văn
Her parents, who still live in China, took some
persuading, too.
"My mother said, 'Can you make money being a writer?' I said, 'No, you
cannot make money.' Then I published my book, and they were very proud
of
me." They provide observations of contemporary China,
have started suggesting what
she should write about. "My father will say, 'I know you're busy - I
can
go out and talk to people and get interesting stories for you'."
- Con làm nhà văn có ra tiền không?
- Còn
khuya má ơi.
Thế rồi họ in sách của tôi, và ba má tôi rất là hơi bị tự hào.
[Mất
đi ở quê nhà, và] Tìm
thấy lại, trong dịch thuật.
Ngàn
năm kinh kệ [trích đoạn]
*
Có vẻ như những nhà văn Mít ở trong nước của chúng ta, ngoài khỏi nói,
không tìm ra thứ tiếng nói của họ, bởi vì không phải cứ viết trong
luồng, hay ngoài luồng, mà trở thành nhà văn. Sự khủng khoảng văn
chương sau 1975, ở cả hai miền, theo Gấu, là do không kiếm ra đúng thứ
ngôn ngữ của nó.
Cái thứ tiếng Việt bố mẹ đang nói không phải tiếng Việt.
... all struggling to
find a home in their
own country.... tất cả chiến đấu để kiếm ra một cái nhà trong xứ sở của
chính họ: Đây cũng là vấn nạn của văn chương Mít?
*
"An outbreak of a
counterrevolutionary epidemic has caught Muddy River
unprepared," he said. "I want you all to understand that the
situation is urgent, and if we don't watch out for ourselves, we may be
the
next ones infected by this virulent disease."
Some children shifted in
their seats, a few coughing and others rubbing their noses.
"It is time
that we cleanse our hearts and our souls with the harshest
disinfectant,"
the principal said, banging on the podium to emphasize each of his
words, the
children's hearts pounding along with his fist.
You've all been born under the
red flag of revolution and grown up in the honey-pot the party has
provided," the principal continued. "Sometimes this privilege may be
the exact reason that one forgets to appreciate one's happiness in this
country. Now answer me, children, who has given you this happy life?"
It
took a moment of hesitation before some upper-grade students answered,
"The Communist Party." "I can't hear you," the principal
said. "Say your answer louder if you have confidence in it." A few
teachers stood up and signaled to the auditorium, and more voices
joined the
chorus. It took several rounds for the principal to be satisfied with
the
roaring answer. «Long live the
greatest, the most glorious and the ever-correct
Chinese Communist Parry”, he said again with a thump-thump of
his fist.
"Do you all understand these words?
The Vagrants
“Một trận dịch phản cách mạng
đã bất ngờ bộc phát tại vùng Sông Hồng mà
không được sửa soạn. Tôi muốn tất cả các em hiểu rằng tình hình rất
nghiêm trọng
và nếu chúng ta không cảnh giác, chúng ta sẽ là đợt tới những người bị
nhiễm dịch.”
Một số học sinh nhúc nhích, có
vài tiếng ho, có những đứa đưa tay chùi mũi.
“Đây là lúc chúng ta dọn sạch
trái tim và linh hồn của chúng ta bằng một thứ thuốc tẩy mạnh mẽ nhất”,
ông hiệu
trưởng nói, tay đập bàn rầm rầm nhấn mạnh, và trái tim của các em cũng
nhộn nhạo
theo.
“Các em tất cả đều sinh ra dưới
ngọn cờ đỏ cách mạng, và trưởng thành trong bịch sữa mật mà Đảng ban
cho”, vị
hiệu trưởng tiếp tục. “Đôi khi vì được ưu đãi như vậy mà có em quên
nhận ra hạnh
phúc của mình ở trong đất nước. Bây giờ, các em hãy trả lời tôi, ai cho
các em
cuộc sống hạnh phúc?”
Phải một lúc ngần ngại, trong
đám học sinh các lớp lớn mới có đứa trả lời:
“Đảng Cộng Sản”.
Thầy không nghe các em trả lời.
Hãy nói lớn hơn nữa, nếu các em tin tưởng ở Đảng.
Một vài giáo viên giơ tay ra
hiệu với bàn chủ tọa, và nhiều giọng nói họa theo. Phải qua mấy đợt
trình diễn
như vậy vị hiệu trưởng mới tỏ ra hài lờng, với tiếng tiếng hô vang dội:
“Đảng Cộng Sản Việt Nam
vĩ
đại nhất, vinh quang nhất nhất, và thiên thu đúng nhất, chẳng bao giờ
sai, muốn
lắm!, muốn lắm!”
Chỉ còn thiếu có mỗi màn Sến Cô Nương lên cắm cờ lên thành phố Bờ Lê Cu!
Coetzee
đọc Garcia
Marquez: Nhớ Bướm Buồn
Trong cuốn tự
thuật 'Sống để kể chuyện', Garcia Marquez kể, lần đầu ông viết "Bão
Lá", và đưa bản thảo cho một người bạn, anh bạn liếc qua, rồi trề cái
môi,
thuổng Antigone của Sophocles. Ngớ người, GM đọc lại bản thảo,
vừa sướng
như điên vì tự hào, vậy là ta đâu có thua gì Sophocles, vừa đau khổ vì
cái chuyện
thuổng mà không biết là mình thuổng đó, và trước khi đưa in, chàng o bế
‘tút
tít’ lại nó, sao cho bớt mùi Sophocles, và đi thêm một đường đề từ,
nhắc tới
món nợ này.
Nhưng đâu phải chỉ có Sophocles. Những bản văn đầu tay của ông đầy mùi
Faulkner, đến nỗi, có thể nói, ông là tên đệ tử y bát của Faulkner!
Trong trường hợp Nhớ Bướm Buồn, món nợ Kawabata thật dễ
nhận.
Vào năm
1882 Garcia Marquez viết Người đẹp
ngủ trên máy bay, trong đó ông có
nhắc tới
Kawabata. Ngồi ghế hạng nhất trên chiếc phản lực jet bay qua Atlantic
bế bên
một em đẹp ơi là đẹp, ngủ suốt chuyến bay, “nàng ngủ đẹp đến nỗi có
những lúc
tôi nghĩ, nàng chơi mấy viên thuốc không phải để ngủ mà để chết”, [
J'ai toujours
cru qu'il n'y a rien de plus beau dans la nature qu'une femme belle. De
sorte
qu'il me fut impossible d'échapper même un instant à l'envoûtement de
cette
créature fabuleuse qui dormait à mon côté. C'était un sommeil si égal
qu'à un
certain moment je craignis que les pastilles qu'elle avait prises ne
soient pas
pour dormir, mais pour mourir]. Và trong lúc ngắm người đẹp ngủ, nhân
vật kể
chuyện của ông nhớ tới Những người đẹp ngủ của Kawabata, câu
chuyện
những anh già, giầu, mất nết, trả tiền cho một má mì, để được nhìn ngắm
mấy em
nhái bén khoả thân, bị thuốc, ngủ nằm phơi chim còn dzin, suốt đêm.
Chỉ là một phác thảo, và lần này, trong Nhớ Bướm Buồn, Kawabata
cho phép
nhân vật của mình nằm kế bên Hằng Nga ngủ trong nhà thổ của mắm mì Rosa.
Nhân vật chính trong Những người đẹp
ngủ, một anh già chỉ rình dịp phá
luật
chơi, [chỉ được quyền ngắm mà không được quyền sờ hàng,] anh già muốn
làm
thịt
một em, làm cho em có bầu, hoặc ngạt thở rồi ngất đi vì bị trấn lột cái
nguyên
sơ trinh trắng, hoặc chính mình được nằm chết trong vòng tay trinh nữ!
*
Nhớ Bướm Buồn được mặc khải từ Những Người Đẹp Ngủ của Kawabata. Nhưng
trước
khi viết nó, GM thử tay nghề của mình bằng truyện ngắn sau đây: Người đẹp ngủ trên
phi cơ.
Câu
này thật tuyệt: Tôi
luôn luôn tin rằng, trong thiên nhiên chẳng gì đẹp bằng người đẹp.[ J'ai toujours cru qu'il n'y a
rien de plus
beau dans la nature qu'une femme belle].
Gấu đã trải qua cái thú y chang GM, nhưng tục hơn nhiều, và do đó,
sướng hơn
nhiều. Gấu đã kể chuyện này một lần rồi, để thủng thẳng kiếm, trình cho
độc giả
Tin Văn đọc chơi!
Khác với GM, người đẹp ngủ trên phi cơ, với Gấu thì là người đẹp ngủ
trên xe đò
suốt chặng đường từ Mỹ Tho về Sài Gòn.
*
Chuyến đi từ Tiểu Sài
Gòn lên
San Jose thăm gia đình bạn C, năm ngoái, khi nghe tin ông anh mất,
không ngờ
làm nhớ tới một chuyến đi, ngày nảo ngày nào, từ Sài Gòn về Vĩnh Long
Lần đó, Gấu Cái đang học trường nữ sư phạm.
Kêu Gấu xuống đóng học phí nội trú, hình như vậy.
Thường, Gấu chạy xe tới nhà HPA, ở khu Chợ Đũi. Gửi xe tại đó, lấy xích
lô ra
bến xe đò Miền Tây.
Lần về, ngồi cạnh một em nhà quê lên thành phố. Hỏi, cô nói, muốn lên
khu Xóm
Dệt Hoà Hưng, để tìm cô bạn.
Trên đường, cô để cái nón lên che đùi, và khi Gấu ‘vô tình’ đưa tay
xuống bên
dưới cái nón, thì cô lại để yên, thế là Gấu hiểu liền, cô để cái nón,
để cho
Gấu dễ bề làm ăn!
Và trong suốt chuyến xe, cô nằm
lim dim ngủ, mặc cho bàn tay thằng cha kế bên muốn làm gì thì làm, ở
bên dưới cái
nón lá.
Tới bến xe, cô biểu, chiều rồi, lên Hoà Hưng chắc cũng không đủ thì giờ
tìm địa
chỉ người bạn, hay là anh cho về nhà anh ngủ đỡ một đêm, sáng mai anh
đưa em
lên trên đó.
Thế thì còn gì bằng. Thế là Gấu dặn cô đứng chờ ngay tại bến xe, rồi
lấy cái
xích lô, tới nhà HPA, lôi xe Honda ra, chạy ra bến xe đò lấy hàng, đưa
về nhà,
ở chung cư Bưu Điện số 29 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn.
Sáng hôm sau, cô nói, thôi, anh cho em ở đây thêm vài bữa nữa.
Nhưng anh phải đi làm.
Thì anh cứ đi làm. Anh khóa cửa lại, nhốt em ở trong nhà, trưa về nhớ
mang cho
em cái gì ăn nhé!
Chuyến đi San Jose,
Gấu cũng gặp một cô gái như vậy.
Chán nhất, là, tới bến xe gặp bạn C. đứng đợi, Gấu chẳng làm ăn gì
được.
Hơn nữa, cô gái có cô em đem xe tới rước. Gấu chỉ hỏi vội được số phôn.
Khi Gấu phôn, tính gặp lại, kiếm tí cháo, số phôn dởm!
Cái cô gái đi cùng chuyến xe đò ở nhà Gấu đến cả chừng tuần lễ. Có vẻ
như cô không vội rời Gấu, còn Gấu thì hoảng quá, nhất là những lần mang
đồ ăn trưa về cho cô, mi một cái, rồi bye bye, khoá cửa, đi làm, nhìn
quanh, cảm thấy hình như hàng xóm bắt đầu nghi Gấu có chuyện mờ ám gì
đó!
Thế là một buổi sáng Thứ Bẩy đẹp trời, lấy Honda đưa nàng lên Hòa Hưng,
Ngã Tư
Bẩy Hiền, nơi em nói có cô bạn cùng quê đang làm nghề dệt vải, và
trong khi em đang ngơ ngác tìm số nhà, Gấu phóng xe chạy như bay, chẳng
hề nhìn ngoái lại!
Khốn nạn thật!
Trăm Năm Cô Đơn, lần đầu tiên xuất
hiện,
năm 1967, cuốn tiểu thuyết gây một cơn địa chấn tại Colombia.
Và lịch sử văn học thế kỷ
hai mươi từ đó, được chia ra làm hai, một nửa trước khi cuốn sách xuất
hiện, và
một nửa sau đó. Thường được đặt kế bên cuốn Don Quixote của Cervantes, nhưng
càng ngày người ta càng nhận ra, đây là một cuốn Thánh Kinh, với Sáng
Thế Ký,
Di Dân, Đại Hồng Thủy, và Tận Thế (Apocalypse) của nó. Và José Arcadio
có thể
coi là Adam, người đầu tiên tạo dựng Macondo, và cũng có thể coi như
Cain, sau
khi giết Prudencio...
Một cuốn Thánh Kinh được viết bằng một giọng văn trữ
tình, ướt đẫm dục tình (... và những con chữ, những trang sách nuốt
sạch cái hơi
nước nóng hổi đó, giống như những sợi võng đã không để sẩy một giọt
nào, trong
một xen làm tình trong Trăm Năm Cô Đơn). Chính vì vậy, khi được dịch và
xuất
bản ở trong nước, cuốn sách đã bị cắt bỏ nhiều đoạn.]
Note: Bài phỏng vấn này, mới được in lại trong The Paris Review
Interviews vol. II, trong có Graham Greene, William Faulkner, Toni
Morrison... và Stephen King.
[Ta
là Bà Chúa Thơ]
03-08-2009
Viết Một Mình
Viết một mình,
chỉ có một mình viết, và một mình làm!!!
1, Trang web Tanvien ( http://www.tanvien.net/)
mà tôi biết chắc chắn
ông viết một mình.
2, Viết một mình, viết “độc thân”, như bác MT vậy, viết đến cùng đến
tận.
3, Viết blog cũng vậy, viết một mình, có thể viết như vậy được bao lâu?
Viết đến đây tôi chợt nghĩ ai mà không viết một mình.
Sự thúc đâỷ cho cái viết một mình ở (1) & (2) là người đọc, không
có ở cái
(3).
Viết nhiều mình, viết “lập gia đình”, đó là báo giấy , báo internet:
damau,
tienve, hopluu, …Tôi nghĩ vậy (vậy bác MT cũng ở đây luôn).
Viết một mình chắc buồn? Không nó có cái vui riêng của nó
Được đăng bởi QT vào
lúc 03:56
0 nhận xét
Note: Tks NQT
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Gấu đọc Tô Hoài
rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông
mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn
thêm một
câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam
Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ
khác
xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính
là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Và ở trong bao nhiêu nước Nam Kỳ khác, do đọc sách mà có!
Trong những “nước Nam Kỳ” do đọc sách những ngày mới lớn mà có đó, có
“Sa mạc
Tartares” của Dino Buzzati.
Mới đây, đọc A Reading Diary, Alberto Manguel có viết về cuốn này, ông
nói là
đọc nó vào thời mới lớn, cũng như Gấu, đọc nó vào lúc mới lớn, tại nưóc
Nam Kỳ,
tại Sài Gòn, khi có BHD.
*
Gấu mua cuốn A Reading Diary Nhật Ký Đọc, cũng lâu rồi. Quăng
vào một
xó, rồi quên luôn, cho tới khi dọn nhà, nhặt nó lên…
Buzzati notes that, from the very beginning of his writing career,
people heard
Kafka's echoes in his work. As a consequence, he said, he felt not an
inferiority complex but "an annoyance complex." And as a result, he
lost any desire to read Kafka's work
Buzzati and Kafka: Perhaps it is not only impossible to achieve
justice.
Perhaps we have even made it impossible for a just man to persevere in
seeking
justice.
Buzzati cho biết, vào lúc khởi nghiệp, người ta nói, có mùi Kafka ở
trong những
gì ông viết ra. Nghe vậy, ông cảm thấy, không phải mặc cảm tự ti, mà là
bực
bội. Và sau cùng, ông mất cái thú đọc Kafka!
Buzzati và Kafka:
Có lẽ không phải chỉ là bất khả, cái chuyện đi tìm công lý.
Nhưng bất khả còn là vì: Chúng ta làm cho nó trở thành bất khả, để chỉ
cho có
một thằng cha, cố đấm ăn sôi, cứ đâm sầm vào cái chuyện tìm công lý!
"Không con, thì ai bi giờ hả mẹ?"
[Gửi NTT. NQT]
Gấu đọc Sa mạc Tác Ta [Tartar là một giống dân], bản tiếng Pháp, và
không hiểu
làm sao, bị nó ám ảnh hoài, câu chuyện một anh sĩ quan, ra trường, được
phái
tới một đồn biên xa lắc, phòng ngừa sự tấn công của dân Tác Ta từ phía
sa mạc
phía trước. Chờ hoài chờ huỷ, tới khi già khụ, ốm yếu, hom hem, sắp đi,
thì
nghe tin cuộc tấn công sắp sửa xẩy ra....
Đúng cái air Kafka!
Trên tờ Bách Khoa ngày nào còn Sài Gòn có đăng truyện ngắn K. của
Buzatti. Đây
là câu chuyện một anh chàng, sinh ra là bị lời nguyền, đừng đi biển, đi
biển là
sẽ gặp con quái vật K, nó chỉ chờ gặp mày để ăn thịt. Thế là anh chàng
chẳng
bao giờ dám đi biển, cho đến khi già cằn, sắp đi, bèn tự bảo mình, giờ
này mà
còn sợ gì nữa.
Thế là bèn ra Vũng Tầu, thuê thuyền đi một tua, và quả là gặp con K
thật. Con
quái vật cũng già khòm, sắp đi, nó thều thào bảo, tao có viên ngọc ước
quí, chờ
gặp mày để trao, nó đây này...
Ui chao Gấu lại nhớ đến Big Minh, thều thào, tao chờ chúng mày để bàn
giao viên
ngọc quí Miền Nam, và con K bèn biểu, tao lấy rồi, cám ơn lòng tốt của
mày!
Doãn Quốc Sĩ, có chuyện Sợ Lửa, tương tự. Đây là câu chuyện một anh
chàng sinh
ra đời là bị thầy bói nguyền chớ có đến gần lửa. Thế rồi, một ngày đẹp
trời,
thèm lửa quá, bèn đến gần nó, và ngộ ra một điều, sao mà nó đẹp đến như
thế.
Thế là về, và chết!
Gấu cũng thấy lửa rồi. Và đang sửa soạn về...
Sự thực, Gấu không gặp lửa, mà gặp… xác của Gấu, trôi lều bều trên dòng
Mékong,
lần tá túc chùa Long Vân, Parksé, chờ vuợt sông qua trại tị nạn Thái
Lan. Gấu
đã kể chuyện này nhiều lần rồi.
The Tartar Steppe
Như nhiều cuốn
sách yêu thích, cuốn của Buzzati tôi đọc thuở mới lớn, câu chuyện của
Drogo,
một sĩ quan trẻ được phái đi trấn giữ“Đồn Xa”, ở tận mép bờ sa mạc Tác
Ta, và
năm này qua tháng nọ, anh bị ám ảnh bởi cái chuyện là, phải chứng tỏ
mình là
một tên lính xứng đáng trong cuộc chiến đấu chưa hề xẩy ra, với rợ Tác
Ta.
Đồn Xa quả là một tiền đồn heo hắt. Và chẳng giống ai. Nó có một hệ
thống rắc
rối, của những mật ngữ dùng để kiểm tra, khi vô cũng như khi ra.
Tôi [Alberto Manguel] nhớ là đã từng cảm thấy khiếp sợ [và lúc này đang
bị] đẩy
vào trong một cơn ác mộng của Drogo, gồm đầy những bí mật của những bí
mật, của
những mật mã, được trao cho, chỉ một vị sĩ quan chỉ huy, và vị này có
thể bị
mất trí nhớ, hoặc quên mẹ mất đường. Một mạng nhện, của những luật lệ
phi lý,
sự đe dọa của một kẻ thù vô hình, chúng âm vang, vọng đi vọng lại, rền
rền rĩ
rĩ, tất cả những nguồn cơn ai oán, những bực bội không lối thoát, vô hy
vọng,
của một thời mới lớn, và bây giờ, của một người đàn ông đi quá nửa đời
người.
*
Ui chao, đọc một cái là nhớ ra, đúng rồi, đúng rồi, đúng là tình cảnh
của… Gấu,
những ngày ở Sài Gòn!
Nào thử so sánh:
... Bao nhiêu năm, quãng đời vẫn bám cứng. Những giây phút tuy chết
chóc, tuy
kinh hoàng nhưng sao vẫn có vẻ chi quyến rũ, chi kỳ cục. Cảm giác của
một người
tuy biết rằng có thể chết bất cứ lúc nào nhưng vẫn loay hoay, cựa quậy:
Gã
chuyên viên trẻ lui cui chỉnh tín hiệu máy chuyển hình, như đây là tấm
cuối
cùng, đặc biệt nhất, chất lượng nhất. Gã phóng viên người Mẽo cao như
cây sào,
chẳng biết một chút gì về máy móc, kỹ thuật, nhưng cũng chăm chú theo
dõi, như
để nhắc nhở nếu có gì sai sót, và không quên lom khom, cố thu gọn cái
thân xác
kềnh càng sao cho bằng gã chuyên viên người Việt, ý như vậy là đồng đều
nếu
chẳng may có một viên đạn bất ngờ. Cả hai cùng lúc nhoài người xuống
sàn nhà,
có khi còn trước cả một tiếng nổ lớn ngay phía dưới chân building, hay
ở Đài
Phát Thanh liền bên. Những lúc tiếng súng tạm ngưng, trong khi chờ
Tokyo xác
nhận chất lượng buổi chuyển hình, và quyết định tấm nào cần lập lại, cả
hai
chăm chú theo dõi biến động trên bản tin AP, UPI qua máy viễn ký, có
cảm giác
vừa ở bên trong vừa bên ngoài những giây phút nóng bỏng, và chiến tranh
cho đến
lúc này, vẫn còn thuộc về những kẻ kém may mắn hơn mình.
... Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm
muốn đánh
cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa. Những
buổi
sáng ghé 19 Ngô Đức Kế, nếu không có Radiophoto cần chuyển, thay vì như
người
ta trở về nhà chở vợ đi ăn sáng rồi đưa tới sở làm, mi chạy xe dọc
đường Tự Do,
ngó con phố bắt đầu một ngày rồi ghé quán Cái Chùa làm người khách thứ
nhất,
chẳng cần ra dấu, người bồi bàn tự động mang tới ly cà phê sữa, chiếc
bánh
croissant, và mi ngồi trầm ngâm tưởng tượng cô bạn chắc giờ nầy đang
ngó xuống
trang sách, cuốn tập tại giảng đường Văn Khoa khi đó đã chuyển về đường
Cường
Để, cũng gần nơi làm việc, tự nhủ thầm buổi trưa có nên giả đò ghé qua,
tuy vẫn
ghi danh chứng chỉ Triết Học Tây Phương nhưng gặp ông thầy quá hắc ám
đành
chẳng bao giờ tới Đại Học, nếu có chăng thì cũng chỉ lảng vảng ở khu
chứng chỉ
Việt Hán. Rồi lũ bạn rảnh rỗi cũng dần dần tới đủ... Lại vẫn những lời
châm
chọc, khích bác lẫn nhau, đó cũng là một cách che giấu nỗi sợ, nếu đủ
tay thì
lại kéo tới nhà Nguyễn Đình Toàn làm canh xì.
…. Những ngày Mậu
Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào
da thịt
thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của
thành phố
cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm
nhìn bóng
mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố,
trong lúc
cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một
cách bình
thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như
vậy...
... Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn
những ngày tháng
ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành
phố xa lạ
phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng
tưởng
tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc...
Hết còn
nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu
hết. Vẫn
những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy
địa ngục,
trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không
còn nơi để
ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen,
những gã
phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để
hỏi coi họ
có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em,
tôi yêu
em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Cõi Khác
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Nạn
kiêu dân Công giáo đang
là một vấn nạn trong xã hội Việt Nam và cần phải nghiêm trị?
Những bài viết của những tên điên
như tên này, đúng ra là không nên ‘xì trum’, chúng sẽ nghĩ là quảng cáo
cho chúng.
Nhưng, biết đâu đấy, điên chơi
với khùng, vì điên hay khùng, chúng đều nghĩ, chúng ta mới điên khùng!
|
|