|
Bếp
Lửa Ottawa
Happy Birthday to U, Richie, 5.7.09
Jen @ London, Ont.
Fishing with Mom & Dad
Hai đứa cháu nội của Gấu
Walter Cronkite Dies
Television Pioneer, CBS
Legend, Passes Away in New
York
at 92
Note:
Bức hình, từ báo của cựu
chiến binh Mẽo. số đặc biệt về Tết Mậu Thân. Bài ai điếu trên tờ Người
Kinh Tế,
thật tuyệt, Tin Văn post lại ở đây, hy vọng dịch hầu quí độc giả. Tay này kể như cùng thời với Gấu, cùng tham dự
cuộc chiến với Gấu. Trong khi ông 'trực tiếp' tham dự, thì Gấu tham dự
ké, bằng
cách gửi
những bức hình chiến sự như trên qua vô tuyến viễn ảnh cho hãng UPI.
Obituary
Walter Cronkite
Jul 23rd 2009
From The Economist
print
edition
Walter Cronkite, newsman,
died on July 17th, aged 92
THE
best hours of Walter
Cronkite’s life were not spent in a newsroom, or in pursuit of a story.
They
came after vigorous days of sailing his yawl Wyntje off the coast of Georgia or Maine. There was nothing more
satisfying
then, he wrote,
than dropping
anchor in an otherwise deserted cove just
before
sunset, of pouring that evening libation and, with a freshly roasted
bowl of
popcorn, lying back as the geese and ducks and loons make your
acquaintance and
the darkness slowly descends to complement the silence.
An anchor, by the dictionary
definition, was “a thing affording stability; a source of confidence”.
In its
narrower sense of a man on television, holding a firm line through
chaotic
events, it was coined for Mr Cronkite in 1952, when he covered the
Democratic
and Republican conventions for CBS. That he went on to play the role of
anchor
for the whole of America, holding the craft steady through the gales of
Vietnam, Watergate and the Kennedy and King assassinations with his
reading of
the CBS Evening News, was a source of both pride and surprise to him.
He liked to say he was a
newsman. He aspired to be nothing else. But as America’s
stabiliser from 1962 to
1981, he was imbued with a different character. He was always a
Midwesterner,
from the deep middle, though he had spent his formative years in Texas rather than Missouri,
where he was born. His voice was described as bass and stately, though
it was
often light and fast, gaining authority from the clipped fall of the
sentences
rather than the timbre. Viewers thought of “Uncle Walter”, with his
greying
sideburns and sad, pale eyes, as calmness itself. But when John Kennedy
was
killed, in a flurry of rumours and alarms over his newsdesk, he
constantly
removed his horn-rimmed glasses, put them on again, and swallowed hard.
When
astronauts landed on the moon he gasped, mopped his brow and was
speechless.
Americans listening to him—husbands finishing the meatloaf, wives
stacking the
dishes, children already in pyjamas—sometimes described him as the
voice of
God. God created the world in half an hour (17 minutes with commercial
breaks)
and then, at 7pm, rested: “And that’s the way it is on Friday, July
20th. For
CBS News, I’m Walter Cronkite.”
The objective centre
His career was founded firmly
on reverence for facts, the natural bent of an old wire reporter who
had done
his footwork at the Battle of the Bulge
and the Normandy
landings. The
rise and rise of “infotainment” on television distressed him. Features
were
fine in their place, but a news bulletin should contain at least a
dozen bits
of hard news that made sense of his complicated country and, if
possible, the
world.
With facts came objectivity,
his fundamental creed. He hoped he could be described as a liberal in
the true
sense, non-dogmatic and non-committed. He was “not a registered
anything”. Many
viewers doubted it, claiming “Pinko Cronkite” helped to push the
country to the
left and lose the war in Vietnam.
It was true that in the spring of 1968 he declared—in tones apocalyptic
rather than
calm—that the summer would bring only stalemate in the war, escalation
meeting
new escalation, until the world approached “cosmic disaster”. He had
had his
private doubts about the build-up of troops for three years. But almost
at
once, he regretted that his public words put him “on a side”.
Anchoring him, too, was his
belief in the freedom of the press and the right of the people to know.
In the
last years of the Nixon presidency he found himself fighting against
wiretapping and the bullying of journalists, “a cold draught” through
the door,
but pulled on his mittens and got on with the job. His faith was placed
solidly
in the constitution, and in law and order. He was never so angry on-air
as when
Dan Rather, his successor on the CBS Evening News, was punched by
security men
during the wild Democratic convention in Chicago
in 1968. The scene made him want to pack up his microphone and leave.
Yet he
did not support the demonstrators either, who were drawn to the TV
cameras like
moths to a flame. The way to change the country was by civilised
dialogue; and
he would mediate it, from the objective middle, if Americans wished him
to.
Yet he was bothered by that.
He regretted that Americans were so dependent on television, and on
him, to
explain the world. TV couldn’t do it. All the words uttered in his
evening
newscast would not fill even the front page of the New York Times. He
offered,
in the end, just a headline service. Print alone gave the necessary
depth of
understanding.
His Walter Mitty dream, as he
said once, was to take his boat and leave “the daily flow of this
miserable
world”. He would stop attempting to make brisk order out of human
affairs.
Instead, he once told Sailing magazine, he might weigh anchor from the
marshlands of South Carolina:
you
start a little before
dawn. The first light. I like to do that anyway. The sawgrass rises to
meet the
day, standing straight up, the blades of sawgrass with dew on them
sparkle. All
through the marsh grass, the birds are rising …and a little fog rises,
the
morning fog, the haze, as the dew boils away. And through all of that
the
fishing boats…meandering through the marsh grass, captain of the sea.
*
Correction: Yuri Zhivago
Jul 16th 2009
From The Economist print
edition
In “Yearning to be free” (July 4th) we
inadvertently implied that Lara was
married to Yuri Zhivago. Our
shamefaced apologies to Boris Pasternak; his famous lovers of course
never
married.
Gấu này đã từng suýt soa, tay
điểm sách trên tờ The Economist là bậc thầy, không ngờ tờ báo cũng hố
to, khi
cho Lara kết hôn với Zhivago!
Chứng tỏ, chưa từng đọc cuốn
này, và cũng chưa từng biết Lara ngoài đời, là điệp viên KGB!
*
Bài điểm sách này cũng thật tuyệt: The Road to Hell: Why Hitler lost
A British historian argues
that Hitler lost the war for the same reason that he unleashed
it—because he
was a Nazi. Hiter thua cuộc chiến cùng một lý do hắn ta mở ra cuộc
chiến.
Câu trên áp dụng vào trường hợp Yankee mũi tẹt mới lại càng tuyệt.
Chúng thắng Cuộc Chiến, và thua Cuộc Bình:
Không chỉ làm mất một nửa Miền Nam, mà còn đưa cả nước xuống vực thẳm.
Cái lý do chúng thắng cuộc chiến, là lý do chúng thua cuộc bình.
Because
he
was a Nazi: Bởi vì hắn là một tên Nazi.
Nguyên tác chưa ghê bằng phóng tác:
Bởi vì chúng là Yankee
mũi tẹt.
Trong bất cứ một tên Yankee mũi tẹt, là giấc mơ đổi đời, thoát kiếp.
Cuộc chiến cho chúng cơ hội biến giấc mơ thành hiện thực, nhưng đúng
vào "lúc đó", Cái Ác Bắc Kít nhận chúng xuống bùn đen.
*
Những dòng chữ của Sakai giống những
dòng chữ bi phẫn đầy cay đắng của các sĩ
quan miền Nam
sau 75. Giống nhau đến đập vào mắt. Vì cùng một kết cục bi thảm, tuy
ngày 15
tháng 8-1945 của Nhật Bản phải tuyệt vọng hơn ngày 30 tháng 4 của miền
Nam. Vì
Nhật Bản chưa bao giờ bại trận, vì Nhật Bản vừa hứng chịu bom nguyên tử
ở Hiroshima và Nagasaki.
Vì dân Nhật chờ đợi sự chiếm đóng tàn khốc của Hoa Kỳ, một chiếm đóng
của ngoại
bang. Ngược lại, miền Nam
không thật sự tuyệt vọng vì muốn tin: một nửa dân tộc không thể hà khắc
với một
nừa dân tộc còn lại. Có thể chính sách cai quản sẽ nhiều cứng rắn nhưng
vẫn là
anh em một nhà. Hy vọng này, đã hiện diện ở phút giây đầu hàng. Trong
suốt bao
nhiêu năm, dân chúng đã trông đợi, khát khao, rồi mừng tủi vì chiến
tranh đã
thực sự chấm dứt. Nỗi mừng vui trông chờ đằng đẵng một nền hòa bình
không bao
giờ xảy đến vụt thành hiện thực. Nước mắt lăn dài vì từ đây chồng, cha,
anh, em
và các con sẽ không chết trận. Hòa bình lấn át nỗi lo sợ trả thù mà
trong sâu
kín tất cả cùng ý thức rất rõ: vị trí thua thiệt phải trả giá vì thất
trận. Tất
cả những gì xảy đến sau đó, trong những ngày sau, sẽ khá giống với
những gì xảy
đến cho gia đình thiếu úy Saburo Sakai, cùng một chính sách lý lịch,
cùng một
cách phân biệt đối xử, cùng những lầm than nghiệt ngã. Nhưng sau mốc 7
năm
1945-1952 mà Sakai
kể lại, không còn gì chung để so sánh. Các phi công Nhật, không phải
cải tạo,
trở thành khách mời danh dự của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ, hồi ký
của họ
được xuất bản chính thức, quay thành phim như trường hợp cuốn Samouraï.
Các cựu
sĩ quan Nhật tìm lại vị trí trong xã hội và khá đông được mời tham gia
Tân Quân
đội Nhật Bản. Trường hợp miền Nam
khác hẳn: Phía bại trận bị xóa tên, tù đày, không có lối thoát nào khác
ngoài
lìa bỏ tổ quốc.
Trần Vũ, talawas
Điều gì khiến Yankee mũi tẹt tàn nhẫn như thế?
Trần
Hữu Dũng là giáo sư kinh
tế học tại Mỹ. Ông nằm trong số những trí thức được hưởng quyền tự do
suy nghĩ
và phát biểu vào loại bậc nhất trong lịch sử loài người.
Nguồn
talawas
Thà là lầm, mà đọc
THD, còn hơn có lý, mà đọc Gấu nhà văn!
[... qu 'il valait mieux “avoir tort
avec Sartre que raison avec Aron”]
*
V/v cái gu của đại
giáo sư
kinh tế THD.
Đọc còm
của ông, khi link một
bài viết, là hiểu trình độ thưởng ngoạn. Thành thử cái vụ ông ta khen
những bài
viết "một tay đánh người một tay viết văn", của những tác giả trên báo
Cớm
VC, thì
cũng là chuyện, chỉ để ‘thư giản’, đúng như lời phán của ‘nghiên cứu
sinh’
Steiner: chỉ một phút "thư giản" kiểu đó, là ác quỉ len lén chui vào
tâm tư! (1)
(1) … Chỉ để
xả hơi. Và nghỉ xả hơi là có thể
trở thành Nazism; hay như trong trường hợp của Sartre, trở thành tất cả
những
lời dối trá Stalinist; với Plato, là bạo chúa Dionysus mà ba lần Plato
mong mỏi
được làm thủ tướng dưới ngai vàng. Nghỉ xả hơi kiểu đó thật là quá đắt,
nhưng tôi
nghĩ họ chẳng có một cách nào khác.
G. Steiner trả lời The Paris
Review
Còn cái tay THT,
nhờ Yankee
mũi
tẹt ăn cướp Miền Nam mà được du học Mẽo, định cư Mẽo, anh
ta cũng là người ‘nằm trong số những trí
thức được
hưởng quyền tự do suy nghĩ và phát biểu vào loại bậc nhất trong lịch sử
loài
người’, như THD. Xã hội Mẽo cho anh ta quyền lợi như THD. Trong
quá khứ, anh ta ngậm miệng ăn tiền, ‘của sự im
lặng’ hơn
cả THD, bởi vì THD còn dám bỏ tiền túi thành lập trang viet-studies,
anh ta làm
được gì so với THD?
V/v gu của THD, Gấu chỉ gặp khó khăn, khi THD tỏ ra rất say mê văn
Nguyễn Ngọc Tư, và xây dựng cả một khoảnh vuờn cho NNT, trên trang của
ông. Sau hiểu ra, đây cũng là một cách lấy điểm với Miền Nam, lấy điểm
[xoa dịu] lương tâm của chính ông ta, một thằng bỏ chạy cuộc chiến bợ
đít VC. Cái sự vờ vịt, 'của sự im lặng', của
THD, không liên
quan tới can đảm hay không can đảm, phần lớn là do bản chất của một
anh Nam Bộ mà ra.
Ceux qui ne tirent
pas les
leçons du passé sont condamnés à le revivre.
Kẻ nào không rút ra được những bài học quá khứ, kẻ đó bị kết án phải
sống
lại nó.
Hannah
Arendt.
DTH:
Nobel văn chương?
PORTRAIT
Le
Prix Nobel célèbre son
centenaire. Rencontre à Stockholm
avec Horace Engdahl, le nouveau secrétaire perpétuel de l'Académie
suédoise,
qui vient de décerner le Nobel de littérature 2001 à l'écrivain
britannique,
d'origine indienne, VS. Naipaul.
Horace
Engdahl
le
patron des Nobel
Horace
Engdahl
Sự ra đi của Horace Engdahl, le
patron des Nobel, có thể ảnh hưởng
tới DTH, trong cuộc chạy đua tới Stockholm.
Ông ta là ngưòi đã ban giải cho Naipaul, Cao Hành Kiện, Jelinek,
Kertesz... toàn những thứ tuyệt vời, nhưng khó ăn Nobel!
"Để cho văn chương hiện hữu... độc giả là cái thứ con người phải được
phát minh ra. Không phải thứ độc giả bên ngoài, cái thứ chỉ biết cầm
lên cuốn sách. Nhưng mà là độc giả nội, độc giả chìm, thứ độc giả mà
tác giả tưởng tượng, và là thành phần hoàn tất bản văn. Và cùng lúc là
sự phát minh ra văn phong. Văn phong là cái chó gì, nói cho cùng? Đó là
cuộc thoại thầm lặng của hai tiếng nói trong cùng một bản văn: tiếng
nói của tác giả, tiếng nói đó, thì cũng cá nhân, riêng tư, và người ta
đều biết, và tiếng nói của 'kẻ khác"...
Có
thể nói, tất cả những giải
thưởng Nobel, được ban phát dưới triều đại Horace, đều liên quan tới
Cái Ác, hoặc
Nazi, hoặc Toàn trị, và hậu quả của nó. Nhưng, nói như thế, thực sự,
không đúng
với quan niệm của Horace về văn chương, như chính ông nhận xét về giải
thưởng này:
Những nhà văn lớn là những kẻ lang thang một mình phiêu lãng, và đây là
thiên hướng
của họ...
*
« Pour que la
littérature
puisse exister, ce qui n'est ni naturel, ni fatal, ni définitif, le
lecteur
doit être inventé. Non pas le lecteur extérieur, celui qui se saisit de
l'ouvrage. Mais le lecteur intérieur, le lecteur implicite, celui que
l'auteur
imagine et qui est un élément d'accomplissement du texte. C'est en même
temps
l'invention du style. Qu'est-ce que le style, au fond? C'est le
dialogue
silencieux de ces deux voix dans le texte même: celle de l'écrivain,
qui lui
est personnelle, que l'on reconnaît, et celle de "l'autre", l'inconnu
dont il cherche et sollicite l'accord, mais qui est bien là, dans le
non-dit,
dans le tacite. J'ai beaucoup lu les auteurs africains à une époque,
pour un
travail que m'avait commandé l'un de mes professeurs à l'université.
J'ai
plongé dans la parole orale et poétique des traditions de danse, de
chant, de
tambour. il m'est alors apparu clairement que ce "lecteur implicite",
propre à notre littérature, à notre façon d'écrire, à cet exercice
solitaire et
abstrait, tend à recréer un échange perdu, à renouer la parole au
geste, à
rétablir un lien. Le "lecteur implicite" répare un manque, c'est un
substitut à l'absence d'auditeur et de confident. Tant qu'on n'a pas
ça, on n'a
pas de littérature, pas de magie. Voyez les Romains. Les Romains ne
lisaient
pas de livres, ou s'ils en lisaient, ils ne leur procuraient aucun
plaisir.
C'étaient des abrégés, des aide-mémoire à l'usage des conteurs. Le
plaisir, la
fête venaient seulement quand le conteur récitait. On n'avait pas
encore
inventé le "lecteur implicite". Qui fut l'auteur de cette innovation,
qui sont les pionniers? On peut en disscuter : saint Augustin, Dante,
Montaigne?
En tous les cas, quand surgit ce lecteur anonyme, quand il devient
l'autre
imaginé, l'écrivain se donne un point d'appui en lui-même, découvre en
quelque
sorte sa propre étrangeté, son intime étranngeté pourrait-on dire, et
rompt
objectivement avec le continuum de la société. Ce n'est plus dans la
société
immédiate qu'il va chercher cette approbation, ce confident, cette
reconnaissance, c'est en lui-même. Là est le bouleversement décisif, et
ce
mouvement vers une littérature à la croisée de tous les chemins. »
Selon Horace
Engdahl, décidément un académicien du troisième type, cette rupture
sociale
légitime à elle seule l'entreprise des Nobel, et c'est en vain, ou pour
des
raisons de pure commodité, qu'on s'obstinerait encore à parler de
littérature
allemande, française ou américaine. Le propos impressionne forcément
quand il
émane d'un intellectuel capable de s'exprimer indifféremment en
suédois,
norvégien, danois, anglais, français, alleemand ou russe. "Goethe avait
eu
cette intuition de littérature universelle, ce qu'il appelait la
weltlitteratur. Il pensait que les littératures nationales
n'avaient plus de
sens, et c'est cette conviction qui inspire le travail de l'académie.
Il y a
longtemps que le point d'appui des écrivains n'est plus la société qui
les
entoure, et qu'elle ne s'impose plus à eux par une logique de
connivence ou
d'appartenance. Les grands écrivains sont par vocation des nomades, ils
errent,
ils circulent, ils passent, ils s'oppoosent. Je vous invite à lire le
palmarès
sous cet aspect, vous aurez du mal à classer les lauréats d'après leur
nationalité. Beckett était un Irlandais écrivant en français. Brodsky,
poète
russe et citoyen américain, dit s'appeler Joseph, et non plus Iosif. Le
prix
Nobel de Günter Grass a été désapprouvé par une grande partie de
l'opinion
allemande, tandis que les Polonais exultaient : s'agit-il au fond d'un
Allemand ou plutôt d'un citoyen de la ville libre de Dantzig, qui
n'existe plus?
Le lauréat de 1998, José Saramago, a dû quitter sa patrie, le Portugal,
et
s'installer à Lanzarote pour éviter l'hostilité de certains de ses
compatriotes. Si on remonte plus loin encore dans la liste, on trouve
encore le
Russe Ivan Bounine, apatride qui séjournait en France avec un passeport
Nansen.
L'exil, matériel ou intérieur, est la condition de travail de maints
prix
Nobel. Je pourrais encore citer Milosz, Gao Xingjian et tellement
d'autres!
Dans la littérature, pour reprendre une expression très juste de Julia
Kristeva, nous descenndons jusqu'au fond où nous sommes étrangers à
nous-mêmes.”
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Viễn tượng
Họ đi ngang nhau như hai kẻ xa lạ,
Chẳng một lời, một cử chỉ
Nàng tới tiệm
Chàng hướng xe
Có
lẽ nhói một cái,
Hay lơ là một tí
Hoặc lãng quên một tẹo
Và thế là trong một thoáng,
Họ yêu nhau
Thiên thu bất tận
Tuy
nhiên chẳng có chi bảo đảm
Đó là Gấu và CM
Có lẽ đúng là hai đứa đó
Nếu nhìn từ xa
Đừng dí mắt thật gần
Tôi
nhìn hai đứa từ trên cửa sổ
Và nhìn từ xa, từ phía bên trên như thế
Thường hú họa
CM
biến mất quá cánh cửa kiếng
Gấu ngồi vô xe
Và tếch
Như
chẳng có gì xẩy ra
Giả như có gì
Và tôi, chắc chắn
vào lúc đó
Nhìn
thấy như vậy
Và
cố gắng thuyết phục bạn,
Ôi
nnhững độc giả của tôi
Bằng
bài thơ nho nhỏ tình cờ này
Rằng,
buồn, buồn thật đấy
[To CM. The Bear]
Vào
giữa thập niên 1950,
trong khi học tại Robert
Academy
, tôi dành khá
nhiều thì giờ, đứng giữa đám người đợi xe buýt buổi sáng tại
Besiktas-Sariyer,
nhìn lên những ngọn đồi phía bờ biển Á Châu, trong lúc Bophorus chập
chờn như
một biển cả bí mật, thay đổi mầu sắc cùng với mặt trời lên. Vào những
buổi
chiều xuân sương mù, khi không một cọng lá nào ở trong thành phố rì rào
lao
xao, vào những đêm hè không một cánh gió, không một tiếng động, một
người đàn
ông lặng lẽ bước một mình sau nửa đêm dọc theo bờ biển Bophorus, anh ta
chỉ
nghe tiếng bước chân của chính mình, và khi anh ta vòng vòng ở khu
Akinti
Burnu, rồi đi quá Arnavukoy, hay khi anh ta đi tới ngọn hải đăng ở chân
nghĩa
trang Asiyan Cemetery, đúng lúc đó, anh sẽ nghe thấy tiếng gầm thật
hạnh phúc,
thật đáng sợ và thật sung mãn của con nước, và gật gà gật gù, những đợt
khói
sóng, mớ bọt biển kia, chẳng biết đến từ nơi nao, và tự hỏi, như Hisar
đã từng,
và tôi cũng đã từng tự hỏi, liệu chăng Bosphorus có một linh hồn.
Tôi nói về mầu của những cây
bách, của những khu rừng âm u ở những nếp gấp của những thung lũng, của
những yah hoang phế,
trống rỗng, bị con người bỏ bê, tôi nói về thơ ca của những con
tầu và những yali của Bophorus mà chỉ những ai đã từng tiêu hết, đốt
hết cuộc
đời của họ ở hai bên bờ thì mới hiểu được, tôi nói về sự khám phá ra
niềm vui
của cuộc sống trong những điêu tàn đổ nát của một nền văn minh khi nó
đã đạt
tới một cung cách rất ư là đặc thù, của riêng nó, tôi nói về sự ngần
ngại,
không làm sao quyết định, những đau khổ, những niềm vui và những kinh
nghiệm
của điều mà người ta gọi là cuộc đời, ở một nhà văn năm chục tuổi, và
sự khát
khao được sung sướng hạnh phúc, và được vui thích như là một đứa trẻ
con mà với
nó, lịch sử và những văn hóa chẳng là cái thá gì, với niềm khao khát
hiểu biết
cuộc đời bằng sự chân thành. Tuy nhiên, ngay khi tôi bắt đầu gợi ra vẻ
đẹp và
thi ca Bosphorus, của những con phố âm u Istanbul, một giọng nói ở
trong tôi dè
chừng, này, đừng có cường điệu những vẻ đẹp của thành phố mà tôi sống ở
đó, như
thể, nó muốn tôi giấu diếm ngay cả với chính tôi cái bất toàn không
viên mãn
của cuộc đời mà tôi sống, có lẽ sự thiếu vắng cái đẹp ở trong chính
cuộc đời của
chính tôi là nông nỗi này: Nếu tôi nhìn thành phố và thấy nó đẹp, nó
hớp hồn,
nó mê hoặc, thì cuộc đời của tôi bắt buộc cũng phải như vậy. Rất nhiều
nhà văn
những thế hệ trước tôi rớt vào thói hư tật xấu này, khi viết về
Istanbul: ngay
cả khi họ suýt xoa, hít hà vẻ đẹp của thành phố, khiến tôi mê mẩn với
những câu
chuyện của họ, rốt cuộc thì tôi cũng hiểu ra rằng thì là họ đâu có còn
sống ở
nơi chốn mà họ miêu tả, và họ thèm đến nhỏ nước miếng những tiện nghi
hiện đại
của những đô thị Tây phương. Từ những đấng đàn anh này, tôi hiểu ra
rằng, một
khi có kẻ ngợi ca vẻ đẹp của Istanbul, điều đó có nghĩa, kẻ này đã tếch
mẹ nó
khỏi thành phố từ đời nảo đời nào rồi, và không phải là không có tí mặc
cảm tội
lỗi: Với một nhà văn suốt ngày lảm nhảm về những điêu tàn, về nỗi buồn
của
thành phố, của Bosphorus, kẻ này chẳng hề có khi nào thắc mắc, về thứ
ánh sáng
ma quỉ giáng xuống cuộc đời của chính anh ta, ui chao, ta đã làm chi
nửa sau
đời ta? Để mà bắt kịp, với tới, hay xứng đáng, với những vẻ đẹp của
Bosphorus,
là phải luôn luôn nhớ điều này: có một sự khác biệt rất lớn lao, giữa
cuộc đời
dơ dáng, thảm hại, nhếch nhác, sa đọa của chính cá nhân một con người,
một cựu
cư dân của thành phố, với những thành quả, chiến thắng, những vẻ đẹp
huy hoàng
của quá khứ [của Sài Gòn].
*
Doc bai dich tren blog hay
qua .
Anh Tru dich "mướt"
lam roi .
K
Biet khi nao VN moi co mot
tac pham nhu the.
Tks. NQT
|