|
Cao Thoại Châu
Gặp lại Thành Tôn
Từ xứ nào bạn ghé thăm ta
Vỉa hè đây là đất quê nhà
Ánh đèn đường soi cho miễn
phí
Mấy chục năm như ánh chớp đi
qua
Vẫn chân thật ung dung điềm
đạm
Bạn không hề rơi rụng điều
chi
Vẫn cương nghị gọn gàng tươi
tắn
Phơi phới thanh xuân thiếu
phụ rất đương thì
Lắng nghe cuộc hành trình đơn
thương độc mã
Những gập ghềnh khấp khểnh
tháng năm qua
Đêm Sài Gòn một cặp ly mờ ảo
Sáng ngời lên không biết tự
khi nào
Lâu lắm rồi ta không uống
rượu
Cái vòng tròn vành vạnh những
bờ ly
Khi độc ẩm ta rùng mình khiếp
sợ
Sang sông đêm với một nửa con
đò
Bạn về đây và thuyền ta có
bến
Lòng ta thôi hiu quạnh phút
giây này
Nghe tiếng lanh canh những
viên nước đá
Trong như lời bạn nói đêm nay
Không thấy trời vì vướng tàn
cây
Đất bao dung dưới chỗ ta ngồi
Cho ta quên đi đừng bao giờ
nghĩ tới
Khi đêm tàn lại có một ngày
mai
Bạn đi rồi còn lại một cơn
say
Ta lỏng buông ta trong phút
hiếm hoi này
Chập choạng về ta chỉ còn một
nửa
Đi kiếm nửa mình vào lúc sớm
mai
Blog CTC
NQT & Thành Tôn tại nhà
thi sĩ, Little Saigon, 2008.
Thơ bạn
ta, CTC, có cái thần
sầu vào đúng lúc thật bất ngờ, thế mới thú vị, và, quái dị.
Thí dụ, khổ đầu, ba câu đầu,
cũng thường thường bậc trung, nhưng từ hình ảnh “ánh đèn đường soi cho
miễn phí",
bất thình lình ra đòn, “mấy chục năm như ánh chớp”, thì mới sướng làm
sao!
Cũng thế, khổ thứ nhì, ba dòng
đầu, một đấng trượng phu lừng lững, vậy mà làm sao mà lại bật ra cái ý
tưởng, cái
hình ảnh “thiếu phụ rất đương thì”, quái làm sao, thú làm sao!
Nhưng đến khổ thứ ba, hai câu
sau đây quá bảnh, và do đó, chẳng cần phải tả cái sướng đang
tái ngộ với
bạn:
Khi độc ẩm ta rùng mình
khiếp
sợ
Sang sông đêm với một nửa
con đò!
Thần cú, thần bạn, thần tình!
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Chàng là
rêu ôm đá mơ thiên đàng
*
Nhà thơ
Tế Hanh
Mười năm trôi dạt giữa hai bờ
Sông Mê
Nguyễn
Thái Sơn
Note:
Bài viết dởm, nhưng có
tí thông tin về Tế Hanh. Thua xa bài của Thanh Thảo
*
Những
ngày nghỉ học
Tế Hanh
(Tặng Nguyễn Văn Bổng)
Những ngày nghỉ học tôi hay
tới
Đón chuyến tầu đi đến những
ga…
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia
xa.
Tôi
thấy lòng thương những
chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi
máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ
đau.
Bánh
nghiến lăn lăn quá nặng
nề!
Khói phì như nghẹn nỗi đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ;
Lòng của người đi réo kẻ về.
Kẻ về
không nói bước vương
vương
Thương nhớ lan xa mấy dặm
trường.
Lẽo đẽo tôi về theo bước họ
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn
phương.
Nguồn net
Tôi đứng bơ vơ
xem tiễn biệt.
Tuyệt cú. Thần cú!
Ui chao, Gấu lại
nhớ đến cảnh Gấu đứng bơ vơ, xem Gấu tiễn biệt: Tiễn biệt cô bạn đi lấy
chồng!
Cái gì gì:
“Em đi áo mỏng mềm
lưng phố,
Có động lòng thương
kẻ cuối đường”!
Ui
chao, lại nhớ lần tỏ tình với một nữ thi sĩ,
"cũng mới đây thôi", anh nhớ em đến vãi lệ.
Em mắng, già rồi vãi lệ hoài, con nít
nó cười cho!
*
Cô bạn của Gấu, là
tác giả câu thơ
thần sầu:
Hồn Đông phương thất lạc,
buồn
Tây phương. (1)
Ui chao, chỉ cần một câu thơ,
đủ là thi sĩ, đủ chứng minh câu của Borges:
Thơ, là để trao cho thi
sĩ.
Cái đám thi sĩ dởm, hay cả một
trường phái thơ dởm Tân Hình Thức, liệu có nổi, chỉ một câu thơ?
(1) Ai cho phép mi là thi sĩ ?
*
Lại nói
chuyện thơ được trao cho thi sĩ, thi sĩ dởm chớ làm thơ!
Lần Gấu qua Cali,
mới đây, gặp một thi sĩ, cũng đã từng văn kỳ thanh, lần này nhất kiến
kỳ hình. Ông nói, tôi thích mấy bài ông viết về thơ, có in từ net ra,
treo ở bàn làm việc, lâu lâu bí thơ, đọc đỡ nhớ.
Ui chao, Gấu cả đời không dám liều mạng làm thơ, bèn lèm bèm viết về
thơ, theo kiểu ăn đồ chay thay đồ mặn, vậy mà được bạn thơ khen, sướng
nào bằng!
*
BEFORE I HAD
YOU
Before I had you
I loved Nature as a calm monk
loves Christ.
Now I love Nature
As a calm monk loves the
Virgin Mary,
Religiously (in my manner),
like before,
But in a more heartfelt and
intimate way.
I see the rivers better when
I walk with you
Through the fields to the
rivers' banks.
When I sit next to you and
watch the clouds
I see them much more clearly.
You haven't taken Nature from
me,
You haven't changed Nature.
You've brought Nature closer.
Because you exist I see it
better, though the same as before.
Because you love me I love it
in the same way, but more.
Because you chose me to have
you and love you
My eyes gaze at it
More than at anything.
I don't regret what I was
before,
For I am still what I was.
I only regret not having
loved you before.
6 JULY 1914
Fernando Pessoa
[From “The shepherd in Love”]
*
Trước khi Anh có M
Trước khi Anh có M
Anh yêu Thiên nhiên, như một
vì tu sĩ êm ả yêu Chúa.
Bây giờ Anh yêu Thiên nhiên
Như là một vì tu sĩ êm ả yêu Đức
Mẹ Đồng Trinh,
Thật là căn tu,
[Thì Anh thì vốn có căn tu,
Kiếp nào mà chẳng như vậy?]
Nhưng yêu một cách thật là tâm
tư thật là thầm kín nhiều hơn.
Anh nhìn những dòng sông đẹp
hơn khi sóng bước cùng M
Qua những cánh đồng tới những
bờ sông.
Khi ngồi bên M, Anh nhìn những
đám mây
Anh nhìn chúng rõ hơn.
M đâu có lấy Thiên nhiên ra
khỏi Anh
M làm cho Thiên nhiên gần Anh
hơn
Bởi vì có M, anh nhìn nó đẹp
hơn, tuy nó vẫn như trước
Bởi vì M yêu Anh, anh yêu nó,
cũng vẫn vậy, nhưng nhiều hơn.
Bởi vì M chọn Anh để có M và
yêu M
Mắt anh nhìn nó
Hơn bất cứ cái gì khác
Anh không ân hận rằng Anh đã
như vậy,
Ngày xưa, khi chưa có M
Anh bây giờ thì vẫn như ngày
xưa
Anh chỉ ân hận ngày xưa sao
không yêu M
*
Ui chao, bài thơ mới tuyệt làm sao!
To U, CM. NQT
Tôi nghe trong đêm,
qua con phố,
Xa thật xa,
Từ một quán hầm cũng
khu lối xóm,
Một điệu nhạc xưa,
không rõ ra là từ một bản nhạc nào.
Nó làm tôi bất thình
lình nhớ ơi là nhớ
Điều mà tôi chẳng
bao giờ nhớ.
Điệu nhạc xưa ư?
Cây ghi ta cũ.
Tôi không thể nói
gì về điệu nhạc, chịu thua…
Tôi cảm thấy nỗi đau
chạy rần rần trong máu, nhưng chẳng làm sao nhìn thấy móng sắc thương
đau
Tôi cảm thấy, không
khóc, mà đã khóc.
Quá khứ nào, của ai,
điệu nhạc mang về cho tôi?
Chẳng phải của tôi,
chẳng phải của ai, mà chỉ là quá khứ
Mọi chuyện đều đã
chết
Đối với tôi, đối
với mọi ngườì, trong một thế giới đã bỏ đi
Đó là thời gian, nó
lấy đi cuộc đời
Đời khóc, và tôi
khóc, trong một đêm buồn bã
Đó là nỗi đau, nỗi
than van
Về tất cả cõi đời,
bởi vì đó là cõi đời
Pessoa
Toàn bài thơ làm
nhớ câu thơ của Brodsky:
Bao
thơ tôi, ít nhiều
chi, là
về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About
what time does to Man."
Ways of escape
30.4.2009
Tại sao chúng ta nên hủy bỏ
giải Nobel Văn học?
Thông thường, Viện Hàn lâm đề
cao những nhà văn cánh tả như Sinclair Lewis, Gunter Grass, Jose
Saramago,
Pablo Neruda hoặc Jean-Paul Sartre. Những nhà văn Mỹ từng giành giật
được giải
thưởng này là một nhóm khá pha tạp như: tác giả chống tư bản John
Steinbeck,
nhà văn hạng xoàng Pearl S. Buck.
Note: Đề cao những nhà văn cánh
tả, vậy mà đề nghị nên huỷ bỏ ư?
Bài viết của báo Mẽo, quê,
vì bị coi là biệt lập thiển cận, vậy mà Mít "tả hơn cả tả lớ", cũng hò
theo. Tiếu lâm
thật!
Mấy anh Mẽo kỳ thị đòi huỷ
Nobel, thì cũng đúng thôi, khi bị ông thư ký chọc đúng ngay tim, văn
chương Mẽo
biệt lập, và thiển cận. Như nhà văn Ha Jin, trong bài tựa cho cuốn Nhà văn như một di dân của ông, đây là
thứ văn chương di dân [nghĩa là biệt lập, thiển cận], với vấn đề di dân
của nó,
nhưng nhược điểm đấy, mà cũng là cơ may đấy.
V/v Mít ra ý kiến nên huỷ
giải
Nobel, Gấu này thấy quái quá.
Bởi vì chưa bao giờ giải Nobel lại bảnh
như mấy
năm vừa rồi. Có một cái gì lầm lẫn, trong lịch sử ban phát giải thưởng,
trong
suốt chiều dài của giải, và chỉ mới đây thôi, Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển
mới nhìn
ra, và sửa sai.
Cái sự sửa sai này, theo Gấu, liên quan tới Cái Đại Á
của thế kỷ,
là Lò Thiêu của Nazi và Trại Tù của Stalin, và cùng với nó, là câu phán
hiển hách
của Benjamin: Mọi tài liệu về văn minh là một tài liệu về dã man.
Tập tiểu luận,
nhà xb University
of Chicago Press,
2008
The
Writer as Migrant
Nhà văn thiên di
Preface
Sometimes
it is difficult to
differentiate an exile from an immigrant. Nabokov was both an immigrant
and an
exile. But to the great novelist himself, such a distinction was
unnecessary,
as he often maintained that the writer's nationality was "of secondary
importance" and the writer's art was "his real passport." In the
following chapters, my choice of the word "migrant" is meant to be as
inclusive as possible - it encompasses all kinds of people who move, or
are
forced to move, from one country to another, such as exiles, emigrants,
immigrants, and refugees. By placing the writer in the context of human
migrations, we can investigate some of the metaphysical aspects of a
"migrant writer's" life and work.
I make
references to many
works of literature because I believe the usefulness and beauty of
literature
lies in its capacity to illuminate life. In addition, I focus on
certain important
works-texts that may provide familiar ground for discussion. I will
speak at
length about some exiled writers, not because I view myself only as an
exile -
I am also an immigrant- but mainly because the most significant
literature
dealing with human migration has been written on the experience of
exile. By
contrast, immigration is a minor theme, primarily American. Therefore,
a major
challenge for writers of the immigrant experience is how to treat this
subject
in response to the greater literary traditions.
My observations are merely
that-my observations. Every individual has his particular
circumstances, and
every writer has his own way of surviving and practicing his art. Yet I
hope my
work here can shed some light on the existence of the writer as
migrant. That
is the purpose of this book.
Lời nói
đầu
Đôi khi thật khó mà phân
biệt
giữa lưu vong, và nhập cư. Nabokov là cả hai, nhập cư và lưu vong.
Nhưng nhà văn
lớn lao này coi một sự phân biệt như thế là không cần thiết, quốc tịch
là thứ
yếu, nghệ thuật mới là căn cước thực sự của nhà văn. Trong những chương
sau
đây, khi chọn từ thiên di, tôi muốn ôm lấy đủ kiểu dời đổi, hay bắt
buộc phải dời
đổi từ một xứ sở này qua một xứ sở khác, nào là lưu vong, nào là di cư,
nào là
nhập cư nào là tị nạn. Bằng cách đặt nhà văn vào cái thế thiên di
như thế chúng
ta có thể điều tra, nghiên cứu một vài khiá cạnh siêu hình của cuộc
sống của
một nhà văn thiên di, và tác phẩm của người đó….
Tôi viện dẫn nhiều tác phẩm
văn học, bởi vì tôi tin tưởng, sự hữu ích
và vẻ đẹp
của văn chương nằm ở trong khả năng làm sáng lên cuộc sống của nó. Tôi
xoáy vào
một số tác phẩm quan trọng - những bản văn có thể cung cấp một mảnh đất
chung để
bàn luận. Tôi sẽ nói nhiều về một số nhà văn lưu vong, không phải vì
tôi tự coi
mình là một trong số đó – nhưng chủ yếu là vì thứ văn chương có ý nghĩa
nhất bàn
về sự thiên di của con người thì được viết về kinh nghiệm lưu vong.
Ngược lại, nhập
cư chỉ là một đề tài thứ yếu, và là của Mỹ. Từ đó, thách đố lớn lao đối
với những
nhà văn viết về kinh nghiệm nhập cư, là, làm sao từ một kinh nghiệm thứ
yếu như
vậy mà có thể đáp ứng với những truyền thống văn chương lớn lao hơn.
Những nhận xét của tôi thì
chỉ
là của tôi. Với mỗi một cá thể nhà văn là những hoàn cảnh cá biệt của
người đó,
và mỗi nhà văn có một cách riêng của mình để sống sót và hành xử nghệ
thuật của
mình. Tuy nhiên, tôi hy vọng tác phẩm của tôi sẽ soi sáng được phần nào
về sự
hiện diện của nhà văn như là một kẻ thiên di. Đó là mục tiêu của cuốn
sách này.
*
Chuẩn vị hồ
sơ dự Nobel
Nếu muốn
đi đường tắt thì
sử dụng con đường của Gao Xingjian (Pháp-Tầu) hoặc Imre Kertész (Hung)
hay
Orhan Pamuk (Thổ) tuy nhiên con đường này cũng rất là gay go, nhiều khi
phải bỏ
quê cha đất tổ chạy trốn ra nước ngoài.
Người viết xin khuyên : Chớ nên chọn lựa
con đường tắt
này.
Nguồn
Viết thế này, thì nên đổi
tên blog là Ngộ Độc Văn
Chương!
Cũng trên blog này đã có lần nhét vô miệng ông nhà văn
Nhật Murakami, câu tuyên bố, hồi hai muơi tuổi, mê thiên đường Liên Xô
quá, ông đã hăm he dịch tác phẩm Ruồi
Trâu, sự thực, ông mê Fitzgerald và tính dịch The Great Gatsby, nhưng tự lượng
chưa đủ nội lực tiếng Anh, nên mãi sau này, mới dám dịch nó.
Giả như liều lĩnh, như dịch giả TL chẳng hạn, thì Nhật cũng đã có một
Đại gia Murakami từ hồi nào rùi!
*
Nhưng quái đản nhất, là,
khi thấy sai sót, Gấu lập tức thông báo trang chủ, vì nghĩ, một sai sót
như thế ảnh hưởng tới mọi anh chị Mít, nhưng lạ làm sao, trang chủ tỉnh
bơ, như người Hà Lội!
Trong khi đó, Tin Văn,
mỗi lần được độc giả hạ cố chỉ cho sai sót, còn mừng hơn cả chuyện được
độc giả xoa đầu!
*
Tay tác giả bài viết trên blog của Nguyễn Thi
Sĩ, hẳn là
chưa từng đọc ba nhà văn trên. Nên cứ đinh ninh là họ, do viết văn
chống đối nhà
nước của họ, nên phải bỏ chạy, và nhờ vậy được phát Nobel, và chỉ vì
muốn được
Nobel nên mới làm như vậy. Đọc bài viết, thì có vẻ như cũng rành tiếng
Anh tiếng
U cũng nên, nhưng “thư ký thường trực” khác “thư ký vĩnh viễn”. Mấy ông
hàn thì
“vĩnh viễn”, nhưng ai cấm mấy ông này quit job đâu?
Đúng là điếc không sợ súng.
Hình như vào thời đại net, ai
cũng có quyền mở blog, nên mới xẩy ra tình trạng này? Gấu nghi, chắc
không phải,
mà là hậu quả của một thế giới bị bịt kín lâu quá, thí dụ xã hội Miền
Bắc, đột
nhiên mọi cửa đều được mở ra, trước đám quyền chức, và con cái của họ,
luôn cả đám
tinh anh, tức mù dở trong đám mù.
Chứng cớ, sự ngu dốt của mấy
anh Yankee mũi tẹt làm cho đài Bi Bì Xèo, chẳng hạn.
Một người viết trong số họ
đã dùng hình ảnh, cái lỗ hổng không làm sao lấp đầy,
đúng quá, nhưng
khi người
này dùng, là để nhắm vào PTH, thế mới khổ!
Ngay cả
nhận xét của tay "thư
ký vĩnh viễn", về văn chương Mẽo cũng đâu có sai. Ha Jin, nhà văn
Mẽo gốc
Trung Quốc cũng nghĩ như vậy. Ông viết, trong bài The Writer as Migrant, Nhà văn thiên
di, Tin Văn
đang giới thiệu:
Ngược lại, nhập cư chỉ là một
đề tài thứ yếu, và là của Mỹ. Từ đó, thách đố lớn lao đối với những nhà
văn
viết về kinh nghiệm nhập cư, là, làm sao từ một kinh nghiệm thứ yếu như
vậy mà
có thể đáp ứng với những truyền thống văn chương lớn lao hơn.
Nhà văn Mít, theo Gấu muốn
được Nobel, là phải đối diện với vấn đề nhức nhối nhất hiện nay của văn
chương
và đồng thời xã hội Mít: Tại sao cuộc chiến thần kỳ
như thế, mà kết quả lại khốn khổ khốn nạn như thế.
Vả chăng hình như muốn là ứng
viên của Nobel, phải có đại gia, hội đoàn... tiến cử, giống như ở Việt
Nam,
muốn ứng cử là phải được Đảng và Mặt Trận Tổ Quốc OK, không thể độc
diễn như
Tông Tông Thiệu được. Vấn đề này Gấu không "xua" vì, chưa khùng đến
mức như vậy!
*
Nobel 2004
Đọc
Jelinek
Có
thể bà chẳng tin rằng thế giới này có thể là một nơi chốn tốt đẹp hơn,
nhưng bà
giận dữ, rằng cớ làm sao nó lại khốn kiếp như vậy. Bà rất bực,
theo một
cách thế đạo đức. Tôi gần như chỉ mong, được như bà.
Nobel
Sám Hối
[Nhân
bài dịch của Thụ Nhân, trên e-Văn, về giá trị giải Nobel văn
chương]
Việc trao giải Nobel cho một nhà văn chẳng mấy ai biết, thí dụ như năm
nay, và
luôn cả mấy năm trước, theo thiển ý, là một trong những chuyển hướng
lớn lao nhất
của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, và - vẫn theo thiển ý – nó xoay quanh trục
Lò
Thiêu, và câu nói nổi tiếng của nhà văn, nhà học giả Đức gốc Do Thái,
Walter
Benjamin, một nạn nhân của Nazi: Mọi tài liệu về văn minh là một tài
liệu về dã man.
Mượn hơi men từ câu của ông, ta có thể cường điệu thêm, và nói, Nobel
mấy năm gần
đây, là Nobel của văn chương sám hối.
Khi Kertesz được Nobel, ngay dịch giả qua
tiếng Anh
hai tác phẩm của ông, trong có cuốn Không Số Kiếp, cũng không nghĩ tới
chuyện
ông được Nobel. Katharina Wilson, dạy môn Văn Chương So Sánh
(Comparative
Literature, Đại học Georgia), trong một cuộc phỏng vấn, ngay sau khi
biết
Kertesz được Nobel, cho biết, bà thực sự không tin, không thể tưởng
tượng được
lại có chuyện đó. "Tôi luôn luôn nghĩ, đây là một nhà văn hảo hạng
(first
rate), một thiên tài theo kiểu của ông ta, nhưng tôi chẳng hề tin, ngay
cả chuyện
ông được đề cử (nominated), đừng nói đến chuyện được giải Nobel."
Khi Cao Hành Kiện được, cả khối viết văn bằng tiếng Anh dè bỉu, chưa kể
đất mẹ
của ông, là Trung Quốc, cũng nổi giận: Thứ đó mà cũng được Nobel, hử?
Rõ ràng
là có mục đích chính trị!
Nhưng Nobel quả là có mục đích chính trị, và đây mới là chủ tâm của nó,
theo
tôi. Chính trị như là đỉnh cao của văn chương, chính trị theo nghĩa của
câu nói
của Benjamin dẫn ở trên.
Hãy nhớ lại những lời tố cáo nước Áo của bà Elfriede Jelinek,
[Bà gây
tranh cãi nhiều nhất vào năm 1980 khi được trích lời nói là
"Áo
là một quốc gia tội phạm", nhắc lại chi tiết quốc gia bà
từng
tham gia vào các tội ác của phát xít Đức. Trích BBC online], là
chúng
ta nhận ra sự sám hối của giải Nobel.
Trong
số những người cùng được vinh danh với bà, có Walter Benjamin. Có đế
quốc Áo
Hung, mà những nhà văn Jopseph Roth [Đức gốc Do Thái], đã từng coi như
đây là “nhà”
của mình, hay như Freud đã từng than [qua bài
viết của
J. M. Coetzee, điểm Tập Truyện Ngắn của Joseph Roth, The Collected
Stories]:
“Áo
Hung không còn nữa”, Sigmund Freud viết cho chính mình, vào
Ngày Đình Chiến, năm 1918: “Tôi không muốn sống ở bất cứ một nơi nào
khác… Tôi
sẽ sống trong què cụt như vậy, và tưởng tượng mình vẫn còn đầy đủ tứ
chi.” Ông
nói không chỉ cho chính ông mà còn cho rất nhiều người Do Thái
của văn
hóa Áo-Đức....
Cũng vậy khi trao cho Cao Hành Kiện là vinh danh sự sống sót của “chỉ"
một con
người, trong
cuộc chiến chống lại lịch sử của đám đông.
Với riêng tôi, mấy giải Nobel những năm gần đây mới thực sự là Nobel
văn
chương.
Nhìn theo đường hướng đó, nhà văn Việt Nam hy vọng đoạt giải văn
chương
Nobel nhất, trong tương lai, có thể là Dương Thu Hương.
Chắc chắn sẽ lắm người phản đối. Có thể “cả một quốc gia” phản
đối. Thứ
đó, đâu phải văn chương, mà là chính trị, mà là phản động, mà là…
Nhưng
như đã nói ở trên, Nobel là chính trị trước đã. Phải có “cái tâm”, rồi
hãy, viết
gì thì viết.
Nhật Ký Tin Văn
Chim thiêng
Âm nhạc
của TCS đã thành một
sự nghiệp lớn, một bộ phận hữu cơ của đời sống tinh thần văn hóa dân
tộc. Điều
đó đã là một giá trị, không cần phải bàn cãi, và không thể nào phủ nhận.
PXN: Minh bạch lịch sử [Blog
Nguyên Đầu Bạc]
Gấu sợ ông hơi bạo ngôn. Trong sự nghiệp lớn
của dân tộc đó, có nhiều bản nhạc vẫn chưa được “dân tộc” cho phép hát!
Thí dụ:
Cho một tên Ngụy vừa nằm xuống!
Bài viết của TC, thì cũng... dzui thôi mà, như cuộc mua dzui chót đời
của ông ta, đâu có ảnh
hưởng gì
tới TCS? Giá như ông ta viết, khi TCS còn sống, thì bảnh hơn, để cho
TCS còn có
dịp lèm bèm. Đợi bạn quí chết rồi, dù đúng cách mấy thì cũng thật là
đáng tởm.
Đây là vấn đề tư cách, đạo
đức của bản văn, và của tác giả của nó. Không liên can gì tới TCS. Cứ
coi như
tất cả những gì TC viết ra đều đúng, thí dụ như, tham vọng chính trị
của TCS,
thì cũng vô phương biện minh cho bài viết.
Một khi bạn đã vi phạm trầm
trọng những yêu cầu ngoài lề của bản văn, thì bản văn kể như vứt đi.
Nếu bản văn dở, thì thiệt hại
của nó cũng.... đỡ. Thê thảm nhất, là bản văn hay! Mọi điều tố cáo đều
đúng
hết!
Thảm thế đấy!
Đây là quan niệm của phương
trượng Thiếu Lâm, trong Lục Mạch Thần Kiếm, khi đứng trước cơ nguy liên
can đến
thanh danh ngàn đời của ngôi chùa Thái Sơn Bắc Đẩu: Thà là một viên
gạch bể,
còn hơn là một viên ngọc quí!
*
Minh bạch Lịch sử?
Liệu, lịch sử sau này sẽ minh
bạch, và gọi cuộc chiến thần thánh, là ăn cướp?
Học tập cải tạo, là đi tù?
Nguỵ cũng là người? Cũng dân
Mít?....
*
Mỗi một người đàn ông chết để
lại một tài sản nho nhỏ, hồi ức của người đó, và yêu cầu được chăm sóc.
Với những
người không có một người bạn, thì ông quan tòa sẽ cung cấp một người…
Tòa này
là Lịch Sử. (1)
(1)
THE BENCH OF HISTORY
Each soul, among vulgar
things, possesses certain special, individual aspects which do not come
down to
the same thing, and which must be noted when this soul passes and
proceeds into
the unknown world.
Suppose we were to constitute
a guardian of graves, a kind of tutor and protector of the dead?
I have spoken elsewhere of
the duty which concerned Camoens on the deadly shores of India: administrator of the property of the
deceased.
Yes,
each dead man leaves a
small property, his memory, and asks that it be cared for. For the one
who has
no friends, the magistrate must supply one. For the law, for justice is
more
reliable than all our forgetful affections, our tears so quickly dried.
This magistracy is History.
And the dead are, to speak in the fashion of Roman Law, those miserabiles personae with whom. the magistrate
must be concerned.
Never in my career have I
lost sight of that duty of the Historian. I have given many of the
too-forgotten dead the assistance which I myself shall require.
I have exhumed them
for a
second life. Some were not born at a moment suitable to them. Others
were born
on the eve of new and striking circumstances which have come to erase
them, so
to speak, stifling their memory (example, the Protestant heroes dead
before the
brilliant and forgetful epoch of the eighteenth century, the age of
Montesquieu
and of Voltaire).
History
greets and renews
these disinherited glories; it gives life to these dead men,
resuscitates them.
Its justice thus associates those who have not lived at the same time,
offers
reparation to some who appeared so briefly only to vanish. Now they
live with
us, and we feel we are their relatives, their friends. Thus is
constituted a
family, a city shared by the living and the dead.
1872. Histoire du XIXe siècle,
II, Le Directoire, Preface
Roland Barthes: Michelet
Tòa
án lịch sử.
Mỗi linh hồn,
trong những tầm phào của nó, có tí ti ‘đặc sản’ khiến chúng phân biệt
với nhau,
và cần được ghi nhận, khi nó từ bỏ cõi đời này đi vô cõi vô biên, biền
biệt.
Giả như chúng ta
lập ra một thứ ông từ, của những đền đài, là những ngôi mộ?
Một thứ giám hộ
chuyên lo bảo vệ những người chết?
Tôi có lèm bèm ở đâu đó, về trách
nhiệm mà Camoen quan tâm tới, ở trên những bến bờ chết người ở Ấn độ: Người lo quản lý những tài sản của những
người đã chết.
Đúng như thế, mỗi người chết để lại tí ti tài sản, là hồi ức của người
đó, và yêu
cầu được chăm sóc. Với người không bạn bè, quan tòa phải cung cấp một
người như vậy.
Nước mắt của chúng
ta thì khô ráo thật lẹ, và luật lệ, công lý thì đáng tin cậy hơn là ba
thứ tình
cảm rất mau phai nhạt của chúng ta.
Thứ tòa này là Lịch
sử.
*
I am a complete man,
having both sexes of the mind.
Tôi là người đàn ông đầy đủ, có
cả hai giới tính của trí tưởng.
Michelet
Tôi đào họ lên và cho
họ một đời thứ nhì. Có những người sinh ra vào lúc không hợp với họ. Có
những người khác, sinh ra vào đúng buổi đêm mà những hoàn cảnh kinh hồn
khiếp đảm sắp sửa mò tới vào buổi sớm mai, là để làm thịt họ, thì cứ
nói như vậy, là để bóp nghẹt hồi ức của họ.
Lịch sử chào đón và làm mới những vinh quang bị tước đoạt; nó đem đời
sống đến cho những người đã chết, tái sinh họ.
Michelet [sử gia Pháp] nói về vai trò sử gia của ông.
Ui
chao, đúng là thứ lịch sử mà đám Mít Miền Nam cần.
[Cái câu ... 'mò tới vào buổi sáng mai... ", chẳng đúng là cảnh
buổi sáng 30 Tháng Tư 1975 sao?]
*
Liệu có thể coi TC, cũng làm cái công việc sử gia như Michelet vừa bốc
phét về vai trò của ông?
No! I Can U, U tha cho Me!
TC, khi TCS còn sống, có dư dả thì giờ để viết. Bi giờ, viết, là khốn
nạn.
*
Lịch sử
thật khó minh bạch,
nhất là thứ lịch sử của kẻ mạnh.
Không hạch hỏi lịch sử, mà nhờ cậy hồi ức, là đề tài
của tờ Granta,
số mới nhất: Mất đi Tìm lại được. Lost and Found.
Có một cái gì thật
sống động đang mất đi tại Trung Quốc. Tuy nhiên cái
sự trống vắng đó vẫn cảm nhận được, như một ngón tay bị cắt đi.
*
The vanishing point.
When something is lost, our
first instinct is often towards preservation: either of the thing
itself, its
memory and its traces in the world, or of the part of us that is
affected by
what is now missing. The pieces in this issue of Granta reflect on the
complex
business of salvage and try to bring into the light what we discover
when we
come face to face with loss.
Điểm
biến
Khi một
điều gì đó bị mất, bản năng đầu tiên của chúng ta thường là, cố níu kéo
nó: Hoặc chính điều mất đi, hồi ức của nó, và dấu vết của nó trong cuộc
đời, hay là cái phần ở trong chúng ta bị thương tổn, do cái sự mất mát
đó.
Nhật Ký
*
Nhà văn bậc nhất của chế độ,
ông Nguyễn Khải viết trước khi chết hai năm: “Tôi là nhà văn của một
thời, thời
hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu
bán cân.
Buồn nhỉ?” Lịch sử văn học thế giới từng ghi nhận nhiều bằng chứng về
các thế
lực cầm quyền đã đánh giá rất sai các tác phẩm có tư tưởng vượt thời
đại của
nghệ sĩ. Ví dụ như, coi tác phẩm của Lawrence
là dâm thư, coi E. M. Remarque là phản dân tộc…
Thiện Ý [talawas].
Ở đây, có một sự so sánh hơi
bị nhảm. Nguyễn Khải biết rất rõ tác phẩm của ông sống dai tới mức nào,
và nhà
cầm quyền chẳng hề đánh giá sai tác phẩm của ông.
Nguyễn Khải là nhà văn rất có
tài. Nhưng, như nhạc sĩ Tô Hải, trong một bài viết đang nổi đình nổi
đám trên
thế giới blog, [xem Blog mới] ông viết về cái hèn của ông, và những người
như
Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải chỉ dám “hết hèn”
khi mình đã chết, đã hưởng đủ mọi quyền lợi không ai có thể đòi lại
được nữa!
Cái sự đánh giá sai tác phẩm,
nó cũng nhiêu khê lắm. và có khi chẳng mắc mớ tới nhà cầm quyền.
*
Ông Nguyễn Khải biết rất rõ,
ông chưa nằm xuống là văn của ông đã phân hóa, biến thành cái gì gì
rồi, bởi vì
chính ông ta đã từng nhận xét, văn của ông là của một thời “lẫm liệt”,
như Tin
Văn có lần viết về ông.
Benjamin đã từng phán, có những
cuốn sách nằm ngủ trong thư hàng ngàn năm, chờ đến khi có một độc giả
của nó lù
khừ mò tới…
Trong bài viết Những viên gạch của tháp Babel, in
trong The City of Words, Thành phố chữ, Manguel viết:
“…Độc giả tạo ra nhà văn, và đến
lượt mình, nhà văn tạo ra độc giả, cứ mỗi một cái đọc mới và một cái
viết mới
phải dậy cho độc giả cách đọc nó.”
"Cái sự
không thể đọc được tác
phẩm Moby Dick của Melville của những người đương thời của ông, cho
chúng ta thấy
ra một điều: nếu nói về tốc độ, thiên tài văn chương của Melville quá
nhanh, so
với tiến trình đọc, cái việc dậy dỗ độc giả, cách đọc."
"Nhưng
về một mặt khác, có những
tác giả đòi hỏi những thời kỳ dài trước khi dám bắt tay viết về thời
của mình. Đôi
khi những tai ương lớn lao, thí dụ như Đệ Nhất Thế Chiến, hay Lò Thiêu,
có ngay
những tác giả viết về chúng, thí dụ như Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh,
viết về
Đệ Nhất Thế Chiến, của Erich Maria Remarque. Lò Thiêu thì có Đây có
phải một người,
If This Is A Man, của Primo Levi, hay Tẩu Khúc Của Thần Chết của Celan,
cùng ra
lò năm 1947. Tuy nhiên nỗi đau của Đức, thì phải đợi đến khi W.G.
Sebald xuất
hiện, với cuốn Lịch sử tự nhiên của huỷ diệt 1999.
Cuộc
chiến Iraq
cũng chưa sản
xuất ra một tác phẩm nào cho ra hồn, chính là do thế trên đe dưới búa
của nó. Một
cuộc chiến, một bên là nhà độc tài, một bên là đế quốc xâm lược.
Liệu
nhà văn Mít chúng ta cũng
ở thế trên đe dưới búa hơn ba muơi năm sau khi cuộc chiến chấm dứt?
NMG vs Lịch Sử
Cuốn I Những đợt
sóng ngầm in xong từ đầu năm
1984, phát hành đã lâu mà tôi có cảm tưởng tác phẩm đã rơi vào hư
không. Tôi tự
biết cuốn đầu chỉ là dàn truyện, giới thiệu cách nhân vật chính, sơ
luợc nêu ra
một số vấn để sẽ khai triển trong các cuốn sau, nên chắc chắn sẽ không
có sức lôi
cuốn nhiều. Để tự an ủi tôi thường nghĩ đến năm mươi trang đầu của cuốn
Bác sĩ
Zhivago, năm mươi trang rời rạc, lê thê, ai không kiên nhẫn thì bỏ
cuộc, nhưng
nếu đọc quá năm mươi trang đó thì bị cuốn hút vào không khí vừa thơ
mộng vừa bi
thảm không ngưng lại được. Dù sao, nhờ cuốn I ra đời nên tôi cũng có
hứng bắt đầu
viết cuốn 2.
Đột nhiên, một năm
sau khi cuốn I Những Đợt Sóng Ngầm được
phát hành, nhiều tờ báo đem cuốn sách ra để chỉ trích, chửi bới. Ngay
tại nơi tôi
ở….
NMG.
Ở đây có một số vấn
đề:
Một năm đâu có phải
là một thời gian dài, để cuốn sách đánh động độc giả. Thành thử cái cảm
giác viết
vào hư vô, tôi sợ rằng, đó chính là nhận xét của chính NMG, về đứa con
tinh thần
của ông.
Do đó, ông mới nhắc
tới Bác sĩ Zhivago. Tại sao Dr Zhivago? Tại sao Pasternak?
Ấy là vì, nằm
trong sự so sánh đó, là tham vọng của tác giả. NMG trong thâm tâm cũng
muốn viết
một cuốn sử thi về cuộc chiến Mít, giữa Yankee mũi tẹt và thằng em ruột
thịt
Nam Bộ của nó!
*
OEDIPUS
The
historian is neither
Caesar nor Claudius, but he often sees in his dreams a weeping,
lamenting
crowd, the host of those who have not lived enough, who wish to live
again… It
is not only an urn and tears which these dead ask of you. It is not
enough for
them that we take their sighs upon ourselves. It’s not a mourner they
would
have, it is a soothsayer, a vates. So
long as they have no such person, they will wander about their
ill-sealed
graves and find no rest.
They must have an Oedipus who
will explain to them their own enigma, of which they have not had the
meaning,
who will teach them what their words, their acts meant, which they did
not understand.
They must have a Prometheus, so that, at the fire he has stolen, the
voices
which floated like snowflakes in the air might rebel, might produce a
sound,
might begin to speak. There must be more; the words must be heard which
were
never spoken, which remained deep in their hearts (search your own,
they are
there); the silences of history must be made to speak, those terrible
pedal
points in which history says nothing more, and which are precisely its
most
tragic accents. Then only will the dead be resigned to the sepulcher.
They are
beginning to understand their destiny, to restore the dissonances to a
sweeter
harmony, to say among themselves, and in a whisper, the last words of
Oedipus:
Remember me. The shades greet each other an subside in peace. They let
their
urns be sealed again. They scatter, lulled by friendly hands, fall back
to
sleep and renounce their dreams. That precious urn of bygone times-the
pontiffs
of history bear it and transmit it to each other with what piety, what
tender
care! (no one knows how pious but themselves), as they would bear the
ashes of
their father or of their son. Their son? But is it not themselves?
1842. Quoted in Monod, Vie et pensée de Michelet, II, 6
Roland Barthes: Michelet
They are beginning to understand
their destiny, to restore the dissonances to a sweeter harmony, to say
among
themselves, and in a whisper, the last words of Oedipus: Remember me.
Remember me. Hãy nhớ Gấu này
nhé!
Dọn Kít
General Giap fights another
battle
Võ
tướng quân uýnh một trận
uýnh khác. Đời Người, cầm quân ba trận. Trận Điện Biên. Trận Cầm Quần.
Và trận
Bô Xịt.
Bài viết giọng thật đểu
cáng, theo cái kiểu thuốc đắng rã tật. Câu chót mới bảnh:
Hoang Trung Hai, a deputy
prime minister, recently told a conference of scientists concerned
about
environmental damage that Vietnam
will not pursue the bauxite mining plan “at any cost”. But the reality
is that
in straitened economic times, beggars cannot be choosers.
Quan VC nói, sẽ đếch bán Bô
Xịt với bất cứ giá nào, nhưng, đói rã họng ra như lúc này, ăn mày ăn
xin làm
sao có quyền chọn lựa?
Note: BBC có dịch bài này,
nhưng đổi cái caption hình Võ tướng quân, thành:
Đại tướng Võ Nguyên
Giáp
là người phản đối dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên!
Cả bài viết, có hai câu ăn
tiền nhất, bị mấy anh thợ dịch diệt mất một câu!
Gấu lại nhớ những ngày làm
bồi Mẽo, và cái giá cả giữa bức hình, và cái légende, caption, chú
thích của nó:
Phải một tay nhà nghề, thường là trưởng phòng mới có quyền đánh caption
gửi
hình đi.
Một cái caption thần sầu,
"Tướng Giáp uýnh một trận uýnh khác" [và lần này thua!], vậy mà nỡ thiến đi, thì có ngu không cơ chứ!
Nàm sao không chửi?
*
Note: Một độc giả Tin
Văn,
mail, sửa lưng Gấu: Không phải ngu, mà là sợ. Mấy anh Yankee mũi tẹt
biết rất rõ
“ẩn dụ” của cái “caption”, nhưng bắt buộc phải vờ đi.
Chỉ là
một cái caption, mà cũng
không dám dịch trung thực. Sao hào khí, sôi nổi, mouvementé, bằng những dòng
sau đây:
Một tháng qua là những ngày
cực kỳ mouvementé đối với Toàn. Ba tài liệu dịch song song, gồm một tập
truyện
ngắn cho nhà Nhã Nam, một cụm bốn tập truyện trẻ em cho nhà Đông A, và
một cuốn
tiểu luận của nhà văn Ba Lan Milosz được NN cho, một cuốn sách nói về
sự cầm tù
của tư tưởng, La pensée captive, đã nghĩ thầm trong đầu về việc dịch
cái tên –
Ngục trung tinh thần – định đọc xong rồi sẽ làm một bài điểm sách công
phu,
công việc cũng gần mất công như dịch cả cuốn sách. Bên cạnh đó? Bên
cạnh đó,
còn ơi ới đòi những bài báo về giáo dục, và còn quan trọng hơn nữa bên
cạnh đó
là công việc Toàn vừa mới khởi động và đang điều hành ba nhóm soạn sách
giáo
khoa tiểu học (bí mật nhé!). Công việc cuối cùng này mới cần, vì Toàn
đã cảm
nhận được sự xúc động của các cộng sự: họ nghèo nhưng đều đồng tình làm
không
công, không có dự án, không có tài trợ, và chưa chắc đã được "nghiệm
thu", nhưng vẫn phải làm nhanh, làm đẹp, làm tử tế cho ba tập đầu của
cả
ba bộ sách được ra kịp trước năm học mới; đối với trẻ em, mất một ngày
có khi
là mất một năm học, và có khi là mất cả đời người… Nào đã hết! Nhà thơ
tám mươi
tuổi TVP lại giục sớm sớm in một tập thơ nữa mới chết người ta chứ!
Thế rồi đùng một cái ông Huệ
Chi gọi điện tới "anh phải thảo ngay bản kiến nghị thôi". Thì thảo.
Mấy giờ sau, lại là điện của Huệ Chi, "đọc rồi, viết thế không được,
viết
thế thì đi tù cả nút à?" Thì khổ quá, chơi với nhau mà không biết tính
nhau! Toàn không làm gì thì thôi, hễ làm là phải triệt để. Không làm
triệt để,
có nhiều lúc thế vẫn thời phải thế, nhưng cứ có cảm giác mình đã thành
một
người không tử tế, mình đánh lừa bạn bè, mình mời bạn uống nước đun
chưa sôi,
gây cho bạn chứng khó chịu vùng thận. Thế là bẵng đi không nghĩ đến
chuyện kiến
nghị bauxite được mấy tuần và được "tập trung làm công việc chuyên
môn". Rồi lại điện thoại. Vẫn lại Huệ Chi. "Anh phải thảo ngay bản
kiến nghị thôi, cấp bách lắm rồi, nhịp tim tôi lên 97 rồi…" và không
quên
dặn dò "anh phải viết cho ôn tồn, coi như các ông ấy cũng như mình, đều
lo
cho đất nước, nhưng lúng túng về giải pháp… thế thôi … có khi chính các
ông ấy
cũng ký vào kiến nghị đấy". Hình như Huệ Chi đùa như vậy. Ông Cổ Cận
Trung
đại mà đã đùa là cách mệnh lắm!
Và thế là hai giờ sau, bản
kiến nghị lại ra đời, chín chín phần trăm như bản anh em đặt bút ký,
một phần
trăm là mấy chữ phải sửa, thí dụ vì Toàn nghĩ mình không là trí thức
nên không
chịu viết "anh em trí thức …", chỉ viết "người Việt Nam …",
nhưng phải sửa lại thành "anh em trí thức chúng tôi", vì quả thật sau
đó đúng là bao nhiêu chữ ký đều của anh em trí thức thật!
Nguồn
“… chi
tiết rất quan trọng
trong tiểu thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết mà chưa được tổ chức
một cách
chặt chẽ như Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã là một thành công.
Thanh Sơn
cũng nhấn mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến độc giả rất khó đọc,
rất mệt để
đọc đến những dòng cuối cùng.”
Đây là lời phán nhà phê bình
NTS, trong buổi họp chi bộ tại nhà xb Nhã Nam, để lên đề án, ra nghị
quyết… đối
với tác phẩm Biển và Chim của Bùi Ngọc Tuấn. và nhà văn của chúng ta
bèn tự kiểm
điểm liền tù tì, đây cũng là một mối băn khoăn của chính tôi, trong khi
viết dưới
ánh sáng của Đảng!
Gấu, nhà văn, cũng đã băn khoăn
về vấn đề chi tiết, là Thượng Đế, và là Quỉ ở trong văn chương. Vấn nạn
nằm ở đây là, những chi tiết ở trong Biển và
Chim, là Quỉ hay là Thượng Đế?
[If not God, the devil lies in the detail. Câu này của Beardsley,
Steiner trích dẫn, trong Errata]
Đây
cũng là vấn đề làm nhức đầu
Steiner. Biện chứng về cái một/cái hơn một, the one/the many. Về cái
vẫn vậy, cái khác biệt, the same/the different....
Gấu
sẽ trích dẫn ông, ở hai tác phẩm liên quan tới buổi họp
chi bộ tại
trang Tin Văn, bữa nay!
Note: Gérard Genette có hai bài viết về đề tài này, thật thú vị, trong
Figures I. Vũ Trụ Đảo Điên [L'univers
Réversible], viết về Thơ, và Không tưởng văn chương, [L'utopie littéraire], viết Borges.
Nhẩn nha, Gấu chơi luôn cả hai!
Sao bac
ghet talawas...?
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Trăng ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ
ấu mãi?
Lý thuyết Tiểu thuyết
Gấu đọc nó, ngay khi vừa mới lớn, khi lãnh
tiền UPI lần đầu tiên, cũng khoảng 1963, ngay sau khi ông Diệm bị làm
thịt, báo chí Mẽo đua nhau lập mạch viễn ký, vô tuyến viễn ảnh.
Bản trên do một ông bạn
tặng. Coi ngày tháng mua, tại Montreal cho thấy, nó ra lò cùng một đợt
với cuốn Gấu mua tại Sài Gòn.
Lần về VN, gặp NN, thấy ông ca cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết
của Kundera quá, bèn buột miệng, thua xa Lukacs!
Về lại Canada, thấy bán ở một tiệm sách Tây độc nhất tại Toronto,
bèn mua, và gửi tặng.
Chính vì đọc Lukacs, mà Gấu tan vỡ mộng viết tiểu thuyết, vì, cứ tưởng
tuợng ra được một cuốn nào, là đã có nằm sẵn trong bảng tuần hoàn Lý
thuyết tiểu thuyết của ông!
Simenon
trả lời tờ The Paris Review
Cuộc đời mỗi
người là một cuốn
tiểu thuyết.
Simenon
trả lời tờ Le
Magazine Littéraire, vào năm 1975, được đăng lại trong số đặc biệt về
ông, Tháng
Hai 2003
Tất cả
cuộc hành trình ký giả,
văn sĩ.. của Simenon, là để truy tìm con người trần trụi, l’homme nu.
"Ngay từ
khi 14, 15 tuổi, tôi đã
tò mò về con người ta, và sự khác biệt giữa một người ăn mặc quần áo,
và một kẻ
trần trụi."
Do muốn trình ra con người trần trụi mà ông viết bài "Phi Châu nói. Đây
Phi Châu nói với bạn. Nó nói Đ.M. Cứt. Mẹc Xà Lù, Đồ Bú Dù".
[L'Afrique qui parle.
"L'Afrique vous parle, elle vous dit merde"]. Vì bài viết, ông
bị tịch thu thông hành, cấm không cho tới Phi Châu. Đối với Simenon,
chủ nghĩa thực dân thuộc địa đụng tới phẩm giá của con người.
|
|