*


 






*

Birthday của Richie Hiếu năm nay đơn sơ. Bánh, Bà Ngoại và Chị Jennier làm. Nhưng, vậy là OK rồi.
Mừng Richie 3 tuổi, tháng Chín tới, đi học cùng Chị. Ông bà Ngoại già quá rồi, vui với Cháu ngày nào là lời lãi ngày đó.


Bếp Lửa trong Văn Chương

Trường hợp Lê Công Định

Trên blog của Đông A, viết: Hôm nay đọc The New Yorker thấy bài thơ A dream của Jorge Luis Borges, qua bản dịch của Suzanne Jill Levine. Tôi thấy thích bài thơ này và thử dịch ra tiếng Việt. Công nhận, The New Yorker đưa bài thơ này rất hợp thời. Không rõ Borges sáng tác bài thơ này vào năm nào. Thẩm mỹ về chuỗi vô tận, A trong A trong A ... rất hợp với tư duy phương Đông, không có khởi đầu và không có kết thúc, và con người chỉ còn có thể bất lực mà thôi. Nhưng thực ra các chuỗi vô tận không hẳn đã là vô tận. Chúng có một giới hạn, giống như nghịch lý Achilles đuổi rùa của Hy Lạp cổ đại. Cái giới hạn đấy là lúc con người có thể đọc được những gì mà những người tù đã viết ra.

Khó hiểu, là cái mẩu Gấu gạch đít.
Hợp thời?
“Y’ muốn nói về cái vụ Gấu "áp dụng thông minh và thiên tài" bài thơ của Borges vào trường hợp LCD? (1)
*
(1) Tình cờ, vớ được bài thơ của Borgres, đăng trên The New Yorker, July 6, 2009, cũng ứng vào LCD:
Poetry
A Dream
by Jorge Luis Borges
July 6, 2009
In a deserted place in Iran there is a not very tall stone tower that has neither door nor window. In the only room (with a dirt floor and shaped like a circle) there is a wooden table and a bench. In that circular cell, a man who looks like me is writing in letters I cannot understand a long poem about a man who in another circular cell is writing a poem about a man who in another circular cell . . . The process never ends and no one will be able to read what the prisoners write.
(Translated, from the Spanish, by Suzanne Jill Levine.)
No one will be able to read what the prisoners write....
Chẳng ai biết tù nhân LCD viết cái đéo gì. Còn cái mà ông đọc, ở trên một tấm bảng, ở bên ngoài camera của Cớm VC. Bên cạnh tấm bảng, một tay Cớm đang kề dao vô cổ vợ con ông!


Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu cũng rất kiên cường.
BBC
Câu này, qua bối cảnh [chủ nghĩa CS áp dụng vào Việt Nam], nhân vật [Nguyễn Hộ], đúng ra phải viết như vầy:
Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu chống CS cũng rất kiên cường [căn cứ vào câu này: Ông nói ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu]. (1)

(1) V/v NH: Một tên Chống Cộng điên cuồng.
Cuối tháng 8 năm 1990, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tìm gặp Nguyễn Hộ tại một chòi canh rẫy ở vùng Phú Giáo - miền Ðông Nam Bộ, cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Ông Kiệt hỏi: ” Thế nầy là sao?”. Nguyễn Hộ trả lời: “Thành phố ngột ngạt quá, tôi về nông thôn ở cho khỏe”. Ông Kiệt nói: “Anh cứ về thành phố ai làm gì anh”. Nguyễn Hộ đáp: “Rất tiếc, phải chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng thì tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. Còn bây giờ thì đã muộn rồi, bởi vì dưới sự lãnh đạo của trung ương ÐCSVN, cả nước được chỉ đạo, phổ biến rằng tôi là tên phản động, gián điệp, móc nối với CIA, nối giáo cho giặc, tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền chống Đảng, chống nhà nước. Lập tổ chức chống Đảng, lật đổ chính quyền, ăn tiền của Mỹ, chủ trương đa nguyên, đa đảng. Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạp tôi xuống tận bùn đen, chôn vùi cả cuộc đời cách mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy được. Tình hình như vậy tôi trở về thành phố làm gì trừ khi đất nước Việt Nam có dân chủ tự do thật sự“.
Nguồn talawas

Bởi vì bắt buộc phải hết sức rõ ràng, không để cho ngưòi đọc mơ hồ, vì một câu văn lửng lơ, mà có thể nghĩ khác đi, về một con người vừa nằm xuống.
Chiến đấu kiên cường với ai? Với Mỹ Ngụy hử?
Gấu đã nói rồi, mấy tên VC nằm vùng này, vô tài, bất tướng, viết một câu văn không nên thân, là vậy.
Có thể, tâm địa sao thì viết như vậy.
Bởi vì, là một tên VC nằm vùng, một chuyên gia về chủ nghĩa CS, "y" cảm thấy nhục nhã, khi phải viết, Nguyễn Hộ là một tên "Chống Cộng điên cưồng", hay, dùng chữ của y, "quyết liệt"?
Cái sự lập lờ của tay cựu bộ trưởng văn hóa Mặt Trận này, còn liên quan tới cái gọi là, sự hèn nhát. Và đây là ý của Paz, khi viết về Solz và nhắc tới câu của Montaigne: Tôi thường nghe người ta nói, hèn nhát là mẹ của độc ác.
Gấu này, đã từng tiếc, phải chi mà đám Yankee mũi tẹt chịu khó đọc, dòng văn học dưới hầm của Nga, với những quái vật khổng lồ như Akhmatova, Mandelstam... hay dòng văn chương của những tác giả đã từng ăn nằm với chủ nghĩa CS, như Milosz, như Manea, nhưng sau hiểu ra, vô ích, bởi vì đầu óc của chúng đã bị sơ cứng mất rồi, không làm sao thay đổi được nữa.
NCT mà thi sĩ gì? Đâu phải thơ?
DTH mà văn sĩ gì? Đó là chính trị!

Nghe, bề mặt thì cũng có vẻ... đúng, nhưng bề chìm thì mới thảm.
Bề chìm của nó, Paz đã lật ra, khi viết về Solz, trích dẫn một câu của Montaigne.
Tôi thường nghe người ta nói, hèn nhát là mẹ của độc ác.
Đọc như thế là độc ác, là khốn nạn, mà gốc gác của nó, là hèn nhát.

Tribute to Solcz
Obituary
Speaking Truth to Power
Homo Sovieticus

Cái câu mà Người Kinh Tế vinh danh Solz, mấy tay trong nước nên đọc.
Vào thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu quả đáng sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí thức hạng nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử cho Liên Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự thực tuy vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải là sự sợ hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc, và địa vị mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là "tà lọt" trung thành của hệ thống Xô Viết.

*
Đó cũng là lý do, đến khi hấp hối, đám VC mới dám thú nhận, hèn, nhục...
Nhưng, muộn còn hơn không!

*

Bài điểm cuốn sách mới nhất về Solz, trên tờ Điểm Sách London, 11 Sept, 2008
Nhiệm vụ của Solz: Solz's Mission.

Nhiệm vụ gì?
Chàng ra đời, với số mệnh làm thịt Xô Viết, cũng như Lenin, ra đời, để xây dựng nó!
Like any prophet - like Lenin... he knew himself born to a historic destiny... In the end, his mission, like Lenin, succeeded. In fact, one might say that it succeeded at Lenin's expense, a triumphant negation of Lenin's success.
Cuốn sách khổng lồ, về tiểu sử Solz: gần 1 ngàn trang, với những tài liệu mới tinh, từ hồ sơ KGB.
Một David vs Soviet Goliath
What a fighter!
Chàng dũng sĩ tí hon chiến đấu chống anh khổng lồ Goliath Liên Xô mới khủng khiếp làm sao. Niềm tin của chàng mới ghê gớm thế nào: Tao lúc nào cũng đúng!
Chính trại tù đã làm nên Solz. Nhờ lao động cải tạo mà ông được cứu vớt, mất đi niềm tin Mác xít Lêninít, và tìm lại được niềm tin Chính thống giáo khi còn nhỏ, và nhận ra lời gọi [the calling]: ta sẽ là một ký sự gia của trại tù và kẻ tố cáo hệ thống Xô viết [the camps’ chronicler and the Xoviet system’s denouncer]
Đây có lẽ là cuốn tiểu sử mới nhất, đầy đủ nhất [sửa chữa những sai sót trước đó về Solz]. Và tuyệt vời nhất. Tin Văn sẽ scan bài điểm hầu quí vị!
*
Nhìn ra số mệnh của Solz như thế, và gắn nó với số mệnh của Lenin như vậy, thì thật là tuyệt. Mi sinh ra là để hoàn thành Xô Viết, còn ta sinh ra để huỷ diệt nó, và tố cáo với toàn thế giới cái sự ghê tởm, cái ác cực ác của nó.
Nhưng chưa tuyệt bằng cái tay nào đó, viết trên CAND, tờ báo mà “ông chủ” "viet-xì-tốp-đi" khen là văn hóa cao:

Nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn lạc thời mọi lúc

…Bi kịch trong  số phận của Solzhenitsyn là ở chỗ, trong phần lớn cuộc đời mình, ông luôn là người không hợp thời và vì thế, đã vừa không hữu dụng cho tổ quốc mình, vừa dễ bị những đối thủ của dân tộc Nga lợi dụng với những mục đích hiển nhiên không nhằm mang lại phúc lợi trước hết cho dân tộc Nga.
*
Giả như có một nhà văn Mít, VC, sinh ra đời, với mission, huỷ diệt VC, như Solz với mission của ông?

There are many stars in the sky and Solzhenitsyn has gone to find his deserved place amongst them.Deserved because of his courage and commitment to describe what he saw.None of us ever see "the truth the whole truth and nothing but the truth" because we simply do not have that capacity.If, however, on seeing something that fills us with horror (and there is plenty of that - wherever you look) we do not speak out or acknowledge what it is we see, then we are, in my view, contributing to that horror and the prevailing unwillingness to see, thereby perpetuating it.My thanks go to him and the many other people in the world (in all systems/ cultures/ religions and nations) that have what it takes to "have a go".As anyone who has ever "had a go" will tell you, there always will be those who support and those who ridicule, that is the way it is. But thank goodness the world has people like Solzhenitsyn, lest we all will start to believe the prevailing myths and nonsense we sometimes call the truth.
Obituary
Viết trung thực, bao dung, không thù hận
¤ Một nhà văn hải ngoại, ông Lâm Chương, sau khi đọc Chuyện kể năm 2000, đã nói với bạn bè là từ nay ông ấy sẽ không viết về trại cải tạo nữa, vì có viết cũng không thể nào hay hơn Chuyện kể năm 2000 ? Theo ông, tại sao Chuyện kể năm 2000 lại được độc giả cũng như các nhà văn đặc biệt trân trọng như vậy ?
Tôi rất cảm động khi được biết ông Lâm Chương nói như vậy về tập sách của tôi. Việc phân tích những cái hay cái chưa hay của Chuyện kể năm 2000 thuộc bạn đọc và các nhà phê bình. Là tác giả, tôi chỉ có thể nói rằng tôi viết Chuyện kể năm 2000 với tất cả sự cố gắng nhằm đạt tới cái trần của mình. Tôi tự nhủ : Hãy trung thực. Viết tất cả những gì mình biết, mình trải, với tấm lòng bao dung, không thêm, không bớt, không thù hận. Hãy dọn mình đối thoại với vô cùng. Viết với lòng nhân ái, với sự tự do mình dành cho mình, để tìm ra gốc gác, căn nguyên, không hớt váng. Viết với một sự giản dị chân thành nhất. Và viết với sự luyến tiếc đến đau đớn một thời tuổi trẻ đã qua.
*
Chuyện ông nhà văn hải ngoại LC giơ tay đầu hàng, ngưng viết về tù cải tạo, vì không thể viết hay hơn BNT khiến Gấu hơi bị ngạc nhiên.
Hai ông đi tù khác nhau, một ông là sĩ quan Ngụy, một ông chắc đã từng là đảng viên, đi tù vì bị Đảng nghi ngờ lòng trung thành, hẳn thế?
V/v ông LC nói “không thể nào viết hay hơn” ông BNT.
Gấu cũng đồng ý, không có ai có thể viết hay hơn BNT, với tác phẩm để đời CKN2000. Đó là một cuốn tiểu thuyết "trác tuyệt."
Nhưng, cái khốn nạn nhục nhã của CKN2000, chính vì nó trác tuyệt, không thể có ai viết hay hơn!
Cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, đụng vô một vấn đề căng nhất, về sáng tạo. Vấn nạn này, Adorno đặt ra, qui về câu sau đây, mà Gấu đã từng nhắc tới, khi viết về CKN2000: Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia [Cái Đại Ác, Cái Ác Bắc Kít, Na Zít…], có thêm sự huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability – (Phỏng vấn G. Steiner). (1)

(1) Đây cũng là vấn nạn mà Kinh Cầu của Akhmatova nêu lên, như Brodsky nhận định về nó:
Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Với tôi, đề tài chính của Kinh Cầu, là về sự nứt nẻ, phân rẽ, [thân này ví xẻ làm đôi được], về sự không làm sao có được một phản ứng đầy đủ của những tác giả khi đứng trước hoàn cảnh. Akhmatova, trong Kinh Cầu, miêu tả tất cả những điều khủng khiếp, ghê rợn của ‘khủng bố lớn’, của Stalin, nhưng cùng lúc, bà hoài huỷ nói về tình trạng mấp mé bờ điên khùng, hoảng loạn. Bạn nhớ không?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.
Khùng điên giang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối
   I realize that to this madness
  
The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Tôi nhận ra, đối với điên khùng này,
là chiến thắng mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận kề,
cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!
(1) Trên talawas, có một đấng dịch:

Cơn điên dại đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo tôi xuống thung lũng tối đen.

Đó cũng là lúc tôi nhận ra,
Trong khi lắng nghe cơn mê sảng xa lạ của mình,
Rằng tôi phải trao chiến thắng
Cho nó.

Không hiểu nửa trái tim, là sao. Bạn văn VC nào rành tiếng Nga, coi lại nguyên tác, khai cái ngu cho Gấu.
Đa tạ. NQT
*
 Brodsky phán,
khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót [Listening closely to my own/Delirium, however strange] nói sự thực lớn lao nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên. Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Mi là kẻ điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mớ gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky

Nên nhớ, chẳng hề có một độc giả khen Quần Đảo Gulag, là hay cả!

Và Steiner đành phải phán, ông Solz. đếch viết cho thời đại của chúng ta!
Một cách nào đó, ông không viết cho chúng ta, mà là cho một hậu thế xa vời, cho những thế hệ sau: họ có thể thưởng thức tác phẩm, thấy nó xứng đáng, hơn là cái nhìn tức thời của chúng ta.

*

Thiếu tính khách quan của một sử gia, và khả năng xàng lọc dữ kiện, những trở ngại này khiến ông không thể miêu tả đất nước của ông, trong cơn đọa đầy, sa xuống tình trạng dã man. Ông nhìn quá khứ, như là một cuộc chiến đấu kiểu Manichaean, giữa tốt và xấu, thiện và ác, với những người Nga hô hào tự do dân chủ, nhưng ở lộn bên hàng rào. Chúng ta có thể tỏ ra không công bằng, "not fair", khi hất hủi kiệt tác, magnum opus, này, coi là một thất bại khổng lồ. Một cách nào đó, ông không viết cho chúng ta, mà là cho một hậu thế xa vời, cho những thế hệ sau: họ có thể thưởng thức tác phẩm, thấy nó xứng đáng, hơn là cái nhìn tức thời của chúng ta. George Nivat khẳng định, Solzhenitsyn đã sáng tạo ra một thể loại văn chương đa giọng, dựa trên cấu tạo toán học, mỗi điểm thắt nối của bi kịch được nghiên cứu tỉ mỉ theo nhiều hướng, và được triển khai qua những cuộc đối thoại, trò chuyện giữa những nhân vật, và tác giả. Ông đã thành công trong việc lật tẩy, cái gọi là đạo đức Cộng Sản, và từ đó, nhìn ra sự sụp đổ của nó. Cuộc đời của ông cho thấy, ngay cả trong thế kỷ hung bạo khủng khiếp như thế kỷ của chúng ta, sự can đảm của một cá nhân thôi, đã làm nên điều phi thường.
Solz: Một linh hồn lưu vong

Ai điếu Obituary nhật xét về Solz: Ông ta không phải là một Tolstoy, hay một Dos khác! Những cuốn sách của ông, một chiều [one-dimensional], giọng văn mỉa mai, chi tiết khoa trương, chán ngấy. Tuy nhiên, chính cái sự không thể nào bị huỷ diệt, tao đố chúng mày đánh gục tao đấy, cuối cùng mang đến cho những tác phẩm của ông giọng tiên tri, [tiên tri theo nghĩa của Hemingway: Con người có thể bị huỷ diệt, nhưng không thể bị đánh gục, Man can be destroyed, but not defeated].
Nhưng, cách đọc của Anne Applebaum tuyệt hơn, theo Gấu. [Sẽ giới thiệu trên Tin Văn]
Quan tâm số 1 của Solz: Trí thức Nga đi trật đường vào thời điểm nào [Le Point phỏng vấn Georges Nivat, người dịch những tác phẩm đầu tiên của Solz qua tiếng Tây].
*
Còn bài trả lời ông Trùm WJC, của nhà văn BNT, ông viết "trung thực, bao dung, không hận thù", thì đành mượn cái còm của một độc giả mũi lõ, nhân đọc Obituary.
Điều mà BNT gọi là sự trung thực, theo Gấu, chỉ là "huyền thoại", cái "bố nếu bố náo", nonsense, đôi khi chúng ta gọi là sự thực. Bởi vì chính ông, đã coi cái việc đi tù của ông là bắt buộc phải như thế, vì đây là điều cần thiết. Bởi vì theo ông, nếu không có sự "pha lê hóa" xã hội Miền Bắc như thế, làm sao có chiến thắng Miền Nam?
Một nhà văn trung thực, là phải có cái sự "tham dự lớn vào bản khế ước xã hội".
Những nhà văn trong nước chưa từng làm được điều này.
*
Chính trại tù đã làm nên Solz. Nhờ lao động cải tạo mà ông được cứu vớt, mất đi niềm tin Mác xít Lêninít, và tìm lại được niềm tin Chính thống giáo khi còn nhỏ, và nhận ra lời gọi [the calling]: ta sẽ là một ký sự gia của trại tù và kẻ tố cáo hệ thống Xô viết [the camps’ chronicler and the Xoviet system’s denouncer]
Trường hợp BNT, ngược lại, chính nhờ trại tù mà ông ngộ ra chân lý "pha lê hóa" xã hội, như ông viết trong lần viếng thăm WJC:

Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.
Quít làm, Cam chịu [Lịch sử]

Còn đây là cảnh "pha lê hóa" tại thiên đường Xô Viết:
On 29 December 1929 Stalin announced laconically in Pravda: "We have gone over from a policy of limiting the exploiting tendencies of the kulak to a policy of liquidating the kulak as a class."….
Vasily Grossman, a Jew who also wrote powerfully about the Holocaust, has described a typical departure scene:
From our village ... the "kulaks" were driven out on foot. They took what they could carry on their backs: bedding, clothing. The mud was so deep it pulled the boots off their feet. It was terrible to watch them. They marched along in a column and looked back at their huts, and their bodies still held the warmth from their own stoves. What pain they must have suffered! After all, they had been born in those houses; they had given their daughters in marriage in those cabins. They had heated up their stoves, and the cabbage soup they had cooked was left there behind them. The milk had not been drunk, and smoke was still rising from their chimneys. The women were sobbing-but were afraid to scream. The Party activists didn't give a damn about them. We drove them off like geese. And behind came the cart, and on it were Pelageya the blind, and old Dmitri Ivanovich, who had not left his hut for ten whole years, and Marusya the Idiot, a paralytic, a kulak's daughter who had been kicked by a horse in childhood and had never been normal since.
Some, taken to the far Siberian North, were shipped down the great rivers by raft, and were mostly lost in the rapids. Imagine a man, woman, and two or three children, plucked from the mild Kuban, hurtling down the icy, wild Yenisei.
But we should steel ourselves against bourgeois compassion. Or so argued Ilya Ehrenburg, writing as Robert Conquest says with "exceptional frankness" in a novel of 1934. "Not one of them was guilty of anything; but they belonged to a class that was guilty of everything."

Sói với Người
*
V/v trác tuyệt.
Lý Trác Ngô, trong bài Tựa cho Tây Sương Ký, phán một câu thật ‘trác tuyệt’, thật ‘hay của hay’:
Vả chăng, những kẻ thật biết viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn.
Theo ý đó, ông viết: Người viết Mái Tây là thợ trời, người viết Tỳ Bà chỉ là thợ vẽ. Người thợ vẽ có thể cướp được cái khéo của thợ trời. Nhưng thực ra thợ trời nào có khéo đâu!
Cũng theo nghĩa đó, Steiner coi cái đẹp là cái bất toàn. Chưa hoàn toàn. Chưa hay. Chưa trác tuyệt. (1)
Cái dở của CKN2000 là vì nó hay quá!
Hay hơn nữa, là, lời cám ơn của tác giả, ông cám ơn cái thằng, cái chế độ đã đẩy ông vô tù, nhờ vậy mà ông viết được một tuyệt phẩm như vậy.
Gấu cũng muốn cám ơn cái thằng, cái chế độ đã tống Gấu vô tù, bởi vì quãng đời tù của Gấu quả là tuyệt vời. Nhờ nó, Gấu sống lại.
Cứ hăm he viết về nó hoài, mà cứ ba cái lăng nhăng nó quấy ta mãi, thành thử không có được đại tác phẩm trác tuyệt như của BNT.
(1)
"Toàn thể là bố láo." Trong bài "Work in Progress", điểm cuốn "Thương Xá" (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung ở thương xá), của Walter Benjamin, đăng trên tờ TLS (December 3, 1999), Steiner coi "chưa hoàn tất" là mật khẩu tới chủ nghĩa hiện đại (incompletion is the password to modernism). Trích dẫn Adorno, "toàn thể là bố láo" (totality is a lie), ông chỉ ra, tất cả những tác phẩm lớn sau thời kỳ Ánh Sáng, đều chưa hoàn tất: tác phẩm của Proust, Cantos của Pound, Moses und Aron của Schoenberg… Tác phẩm "đại diện" cho thế kỷ, của Heidegger, Thời gian và Hữu thể (Time and Being), thiếu phần ba đầy hứa hẹn. Và Steiner tự hỏi: đâu là những toàn thể mang tính hình thái (formal totalities), trong những tác phẩm của triết gia Wittgenstein?
Ngoài Đạt Ma Tổ Sư, không ai là người thông thạo đủ thất thập nhị huyền công, tức 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Kim Dung mượn lời nhà sư già chuyên quét dọn trong Gác Chứa Kinh (Tàng Kinh Các) để diễn ý niệm duy vật biện chứng của Marx, khi giải thích tại sao Phật pháp (từ bi), lại rong ruổi với võ công (cái ác): trên đường rong ruổi, lý thuyết (Phật pháp) và thực hành (võ công) đều quyện vào nhau, rồi triệt tiêu lẫn nhau, để có được con người hoàn toàn (l’homme total), theo nghĩa: không còn Phật pháp mà cũng chẳng còn võ công. Hoặc nói một cách khác: hết nhị nguyên, không còn thiện ác đối đầu nữa.
Vô Kỵ giữa chúng ta


Czeslaw Milosz có một bài viết thật tuyệt về Simone Weil, in trong "To Begin Where I Am": Sự quan trọng của Simone Weil. Tin Văn sẽ post và cố gắng dịch bài này gửi tới độc giả.
Gấu biết đến Milosz, là qua tờ Partisan Review. Có thể nói, tất cả những tác giả từng ăn bả CS, Gấu biết, là nhờ tờ báo khuynh tả này. Cũng tiếc, đám Yankee mũi tẹt, chẳng hề biết gì về họ. Chúng, cho đến giờ này, vẫn còn tấm tắc, nắc nỏm, tâm đắc…  với những vần thơ của Mai a cốp ki, của Ê ren bua, trong khi , Mai a, có thể do xấu hổ nhục nhã, và ân hận, vì những vần thơ của mình, đã tự tử bằng súng lục, còn Ê ren bua thì than, ta đã sống đời ta như là một con chó!

THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Sự quan trọng của Simone Weil

Nước Pháp dâng tặng một món quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự hiển hiện ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả những qui luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy ra

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường


Quít làm, Cam chịu [Lịch sử]


Kỷ niệm, kỷ niệm