Trường hợp Lê
Công Định
Comme
l'observe Carl Thayer, "on ne peut pas mettre Giap en prison".
Touchez
pas
à la bauxite
LCD đã làm gì? Ông bảo vệ
những người chiến đấu vì nhân quyền,
trong đó có tay viết blog nổi tiếng, Điếu Cày, bị kết án hai năm rưỡi
vào năm
2008. Tuy nhiên ông không có dáng dấp của một tay ly khai cổ điển. Dân
Ky tô, vợ
là một cựu hoa khôi, thông thạo tiếng Anh, tiếng Tây, đã đi du học tại
Đại học
Tulane, tại Louisiane, nhờ một học bổng Fulbright, là phó chủ tịch Luật
sư đoàn
TP.HCM. Vào năm 2003, ông cũng đã bảo vệ phía Việt Nam trong vụ tranh
tụng với
Mẽo về vụ giá cả cá. Ông đã từng có tên trong danh sách đi Tây tham dự
một cuộc
hội thảo, nhưng không hiểu vì sao, không thấy ông có mặt.
Chuyên viên về Việt
Nam tại Đại học NSW, Canberra, Carl Thayer bị choáng vì cái màn dựng
tuồng của
VC, và những tội họ chụp cho ông, lần ngược lên tới năm 2005. Nhà nước
VC muốn
chứng tỏ, thằng cha Định này còn quá cả cái tội âm mưu lật đổ: Hắn dám
đụng tới
quá nhiều chuyện cùng một lúc.
Và trong đó, đặc biệt có vụ bô xịt.
Vụ bô xịt
“hot” vì đụng tới những quan hệ giữa anh Tẫu và anh Mít VC. Nhìn ngoài
mặt, mọi
chuyện đều đẹp giữa hai cựu thù, và năm 2010, đánh dấu 60 năm quan hệ
ngoại
giao, sẽ được coi là ‘năm hữu nghị’. Sự thực, theo một chuyên gia về
Việt Nam
cho biết, [tất nhiên, theo kiểu vô danh], ‘căng lắm’. Có hai lý do, đảo
& biển
và núi & bô xịt. Ông Tầu nói, đảo biển của Thiên Triều, VC nói rỗi,
vô, thì
lấy mẹ cả núi, cả mỏ đi cho gọn việc tính toán. Nhiêu?
*
D.M. Thomas,
người viết tiểu sử Solz, coi ông là một đứa em song sinh của Cách
Mạng Tháng Mười Nga, vì
sinh sau nó 1 năm. Nhìn như thế, có thể coi LCD và thế hệ của ông là
‘song sinh’, của 30 Tháng Tư 1975, những đứa trẻ mà Víp Va Ka đã từng
bốc phét, nhìn vầng trán các cháu ngoan Bác Hồ, các cháu LCD của
thành phố rực rỡ mang tên Người, là thấy tương lai của cả đất
nước.
Khi bắt LCD, là VC làm nhục cả một lý tưởng của chính chúng.
Những người
bỏ nước ra đi trước ngày 30 Tháng Tư, không thể nào hình dung ra được
Miền Nam đã
từng hồ hởi như thế nào, những ngày tháng tiếp theo liền 30 Tháng Tư,
khi họ ăn mừng đất nước sạch bóng ngoại bang, khi họ ăn mừng
những đứa con song sinh của Cách Mạng Tháng Tư, những LCD!
*
‘Bán’ đảo, từ
hồi còn Phạm Văn Đồng, theo kiểu mua trâu vẽ bóng, vì khi đó thuộc
VNCH.
Và Gấu
nghi rằng, tất cả những mắc mớ với anh Tẩu, đều từ những ngày đó, anh
Yankee mũi
tẹt, cốt làm sao ăn cướp được Miền Nam, đã gật đầu với anh Tẫu, đủ thứ
chuyện
trên đời. Chính vì thế mà bây giờ há miệng mắc quai. Vụ bô xít khiến Võ
tướng
quân cũng phải nhẩy vô “ăn có”. Nhưng làm sao bỏ tù Giáp? Còn LCD, dễ
ợt!
*
IN A MAN'S LIFE
In a man's life
the first temple is destroyed and the second temple is destroyed
and he must stay in his life,
not like the people that went into exile faraway,
and not like God,
who simply rose to higher regions.
In a man's life
he resurrects the dead in a dream
and in a second dream he buries them.
- Yehuda Amiehai
(Translated, from the
Hebrew, by Leon Wieseltier. )
The New Yorker 26 Dec
2005 & Jan 2, 2006
*
Trong đời một người đàn ông
Trong đời một người đàn ông
Đền thiêng đầu tiên bị huỷ diệt và đền thiêng thứ nhì bị huỷ diệt
Và anh ta phải bám riết lấy cuộc đời của anh ta.
Không như những kẻ bỏ chạy lưu vong
Và trở thành những khúc ruột hàng vạn dặm
Không như Chúa, như Phật
Bò lên lên những tầng trời cao hơn.
Trong đời một người đàn ông
anh ta làm sống lại những người chết
Ở trong một giấc mộng
Và trong giấc mộng thứ nhì
Anh ta chôn họ.
[Note: To LCD. NQT]
Đang lo dọn
nhà, giở đống báo The New Yorker tính vứt bỏ, cho nhẹ tội, vớ bài thơ
trên, xem
ra ứng đúng quẻ LCD.
Đền thiêng đầu tiên bị huỷ diệt là Miền Nam trước
1975. Đền
thiêng thứ nhì, là vầng trán ngây thơ trong trắng của ông, mà
ngài Víp Va
Ka đã từng soi vào, thay vì mò mu rùa, để bói tương lai đất nước. (1)
Thai đố ở đây
là: Hai giấc mộng của ông.
Liệu giấc mộng thứ nhất, làm sống lại những người đã
chết, là ‘cái trò’ viết bài, viết blog? Giấc mộng thứ nhì, ông chôn họ,
khi ngồi
thành khẩn xin nhà nước khoan hồng, trên youtube?
(1)
V/v Mò mu rùa.
Gấu nhớ, hồi còn mồ ma Miền Nam VNCH, khi bài "Người thương binh" của
PD mới ra lò, [hẳn thế], và ấn bản nhại của nó, như vầy:
Chàng về, chàng về nay đã
cụt cu,
Lấy gì nhấp nháy trên mu,
trên mu con rùa, à a, à a!
*
Tình cờ, vớ được bài thơ của Borgres, đăng trên The New Yorker, July 6, 2009, cũng
ứng vào LCD:
Poetry
A Dream
by Jorge Luis Borges
July 6, 2009
In a deserted place in Iran
there is a
not very tall stone tower that has neither door nor window. In the only
room
(with a dirt floor and shaped like a circle) there is a wooden table
and a
bench. In that circular cell, a man who looks like me is writing in
letters I
cannot understand a long poem about a man who in another circular cell
is
writing a poem about a man who in another circular cell . . . The
process never
ends and no one will be able to read what the prisoners write.
(Translated,
from the
Spanish, by Suzanne Jill Levine.)
No one will be able
to read what the prisoners write.... Chẳng
ai biết tù nhân LCD viết cái đéo gì. Còn cái mà ông đọc, ở trên một tấm
bảng, ở bên ngoài camera của Cớm VC. Bên cạnh tấm bảng, một tay Cớm
đang kề dao vô cổ vợ con ông!
*
Trong
hình
dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng
sau này
khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu cũng rất kiên cường.
BBC
Câu này, qua
bối cảnh [chủ nghĩa CS áp dụng vào Việt Nam], nhân vật [Nguyễn Hộ],
đúng ra phải
viết như vầy:
Trong hình
dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng
sau này
khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu chống CS cũng rất kiên
cường [căn cứ vào câu này: Ông nói ngày
xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB
sẽ cứu đất
nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu].
Bởi
vì bắt buộc phải hết sức rõ ràng, không để cho ngưòi đọc mơ hồ, vì một
câu văn lửng lơ, mà có thể nghĩ khác đi, về một con người vừa nằm
xuống.
Chiến
đấu kiên cường với ai? Với Mỹ Ngụy hử?
Gấu
đã nói rồi, mấy tên VC nằm vùng này, vô tài, bất tướng, viết một câu
văn không nên thân, là vậy.
Có thể, tâm địa sao thì viết như vậy.
Bởi vì, là một tên VC nằm vùng, một chuyên gia về chủ nghĩa CS, "y" cảm
thấy nhục nhã, khi phải viết, Nguyễn Hộ là một tên "Chống Cộng điên
cưồng", hay, dùng chữ của y, "quyết liệt"?
Czeslaw Milosz
có một bài viết thật tuyệt về Simone Weil, in trong "To Begin Where I
Am": Sự quan trọng của Simone Weil. Tin
Văn sẽ post và cố gắng dịch bài
này gửi tới độc giả.
Gấu biết
đến Milosz, là qua tờ Partisan Review. Có thể nói, tất cả những tác giả
từng ăn bả CS, Gấu biết, là nhờ
tờ báo khuynh
tả này. Cũng tiếc, đám Yankee mũi tẹt,
chẳng hề biết gì về họ. Chúng, cho đến giờ này, vẫn còn tấm tắc, nắc
nỏm, tâm đắc… với những vần thơ của Mai a
cốp
ki, của Ê
ren bua, trong khi , Mai a, có thể do xấu hổ nhục nhã, và ân hận, vì
những vần
thơ của mình, đã tự tử bằng súng lục, còn Ê ren bua thì than, ta đã
sống đời ta
như là một con chó!
Cái sự vờ những nhà văn có
một thời say mê CS, và sau này tỉnh giấc "hôn thuỵ", theo Gấu, là một
trong những lỗi lầm nặng nhất của Yankee mũi tẹt. Vờ, và tiếp tục bơm
thổi những nhà văn, nhà thơ vệ quốc, như Maia, Êrenbua, Ép vô chen
khô... Đám này, anh nào chị nào lương tâm cũng có cứt.
Ngay ông Trùm văn học xã hội chủ nghĩa là Gorki, người cũng đầy cứt, và
đã từng phán, cái đám dân quê ngu ngốc, cho chết mẹ hết đi, để một
giống dân mới nẩy sinh từ đó (1)
(1) The humane Maxim
Gorky, in
1922, had expressed the hope that "the uncivilized, stupid, turgid
people
in the Russian villages will die out, all those almost terrifying
people ...
and a new race of literate, rational, energetic people will take their
place."
Now Stalin was intent on granting his wish.
Sói với Người
Đám già vờ, đám trẻ cũng vờ,
vì chúng đâu cần. Cái quá khứ chống Mỹ cứu nước không có chúng, cái vụ
làm thịt
Miền Nam
tuy chúng có phần kít, nhưng đâu phải chúng trực tiếp nhận [hàng, đầu
hàng] Miền Nam [ruột
thịt]?
Chúng tự hào chúng sạch, và để chứng tỏ, chúng đọc những tác giả khác,
hợp
thời, hợp gu với chúng. Chúng còn viết văn bằng tiếng của tụi mũi lõ,
hoặc lấy
chồng mũi lõ, tếch thẳng.
Trai ngay thờ Chúa, Gái thuận, gái ngoan này
thờ Chồng!
*
Thời
gian của người
Đây
là lúc để thừa nhận - để rú lên, hay để
gào khóc -
Ta đã sống đời ta như một con chó...
Ilya
Ehrenburg
Đó là những dòng thơ Ehrenburg viết một năm
trước khi chết. Nhà thơ, nhà văn, và trên tất cả, nhà báo nổi tiếng
nhất trong
số những người cùng thời tại Liên Bang Xô Xiết. Chẳng bao giờ được chế
độ tin
cậy, ngay cả những khi lên đến tột đỉnh của vinh quang. Bị khinh khi
bởi những
người chống Stalin. Nạn nhân của những mâu thuẫn nội tâm vô phương hòa
giải.
Cuộc đời của I. Ehrenburg đày những đau thương, ray rứt. Bản chất dễ
xúc cảm
trước những đau khổ của con người, nhưng chút nhân tính đó chẳng là gì
so với
sự yếu đuối vì còn phải lo cho an nguy bản thân, phải làm sao đừng
thiếu thốn
một chút tiện nghi, cuối cùng ông đành xả thân phụng sự hết mình cho
chế độ phi
nhân, cho dù luôn luôn bị xâu xé bởi tình yêu nước Nga và lòng trung
thành với
gốc Do thái của mình. Ông chết năm 1967, "nát bấy người", kể cả tinh
thần lẫn thể xác, trong niềm hoài nghi về những "nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành", trong niềm ăn năn về những thỏa hiệp liên quan đến vấn đề đạo
đức,
nhân phẩm.
Cuộc đời ông có thể chia làm
ba giai đoạn. Giai đoạn đầu kéo dài tới năm 1932, khi cư ngụ ở Paris, ông trở
thành phóng viên cho nhật báo
Izvestiya. Từ đó tới năm Stalin chết, 1953, ông là "tuyên truyền
viên" nổi tiếng cho Stalin, đầu tiên là để chống Phát-xít, sau tới Hoa
Kỳ.
Sau khi Stalin chết, ông đóng vai nhập nhằng giữa một kẻ bảo vệ đường
lối mới
chống-Stalin, trong khi cố gắng cùng lúc, làm sao "ổn thỏa" với quá
khứ.
Sinh tại Kiev, trong một gia đình Do thái khá
giả, đã được đồng
hóa, hội
nhập, Ehrenburg luôn cảm nhận gốc rễ Do thái của ông. Năm 1905, 15
tuổi, do ảnh
hưởng của bạn là Nicholas Bukharin, ông gia nhập Bolshevik. Tuy nhiên,
không
được bao lâu, ông bỏ đảng. Năm 1908, ông rời đi Paris. Nơi đây trở thành nhà của ông,
mãi tới
năm 1940, khi Đức chiếm đóng. Ở đó ông sống một cuộc đời lãng du, quen
biết đám
trí thức nổi tiếng Pháp, đây là một "tài sản quí giá" của ông đối với
nhà cầm quyền Xô Viết. Khi cuộc cách mạng tháng Hai xẩy ra, ông trở về
Nga. Ông
không chấp nhận cuộc nổi dậy của Bolshevik, kết án những kẻ cầm quyền
mới là đã
ngăn cấm tự do ngôn luận. Để trốn chạy ông rời đi Kiev, ở đó, ông viết báo chống
Bolshevik, tố
cáo những người theo Lênin là những tên hiếp dâm, những kẻ tiếm quyền,
thề
nguyền không một thứ quyền lực nào bắt buộc ông phải sống bằng "sắc
luật
này tới sắc luật khác". Sau khi Hồng Quân chiến thắng Bạch Vệ, chiếm
đóng Ukraine,
ông
xin xuất cảnh. Với sự giúp đỡ của Bukharin, đầu năm 1921 ông trở lại
Paris,
tiếp tục cuộc sống trước 1917, viết ào ạt. Trong vòng 10 năm, 19 cuốn
sách,
chưa kể bài viết linh tinh, có vài cuốn được in tại Nga. Cuốn quan
trọng nhất,
Julio Jurenito, 1921, Berlin,
tố cáo sự toa rập giữa chế độ Stalin và Nazi. Cuốn sách làm ông nổi
tiếng tại
quê nhà và đây là tác phẩm văn học lớn lao nhất, và cũng là độc nhất
của ông.
Cùng với việc ngôi sao quyền
lực của ông Trùm Đỏ ngày càng sáng tỏ, và đời sống kinh tế, tiền bạc
ngày càng
khó khăn, khó kiếm, Ehrenburg từ bỏ văn chương, ngả sang chính trị.
Trong những
bài viết, bài nói, ông lên tiếng chỉ trích Balan, Pháp, Hoa-kỳ, bảo vệ
Liên
Bang Xô Viết. Stalin tỏ ra có thiện cảm vô bờ với gã émigré, một
ứng viên rất hợp khẩu vị của ông: trí thức Do thái với một quá khứ
chống-Bolsevik,
giao du với những "tinh hoa, trí thức" tại thủ đô văn hóa Paris. Mối thiện
cảm cho
thấy cuộc đời Ehrenburg được cứu rỗi, về vật chất, nhưng thảm kịch tinh
thần
của ông cũng bắt đầu.
Vào đầu thập niên 1930, Ehrenburg viết một cuốn
tiểu
thuyết, theo tinh thần "hiện thực xã hội chủ nghĩa", đặt tên là
"Hết thời hỗn mang", ca tụng hết lời chủ trương kỹ nghệ hóa của
Stalin. Ông tự mình in lấy vài trăm cuốn, gởi một mớ tới mấy cơ quan lo
việc
xuất bản ở Moscow, và một mớ, tới Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng. Mớ
trước bị vứt
vào sọt rác, nhưng trước sự ngơ ngác của tất cả mọi người, Stalin tỏ ra
rất
thích thú, và ra lệnh cho Radek viết bài ngợi ca. Khỏi nói, sách được
in ra cấp
thời. Ở Paris,
Ehrenburg trở thành nhà văn Xô viết đầy đủ lông cánh. Đừng ai đụng tới
ông ta,
con cưng của Stalin. Ông trùm đỏ vốn ban ân sủng theo lối tùy hứng,
nhưng trong
trường hợp Ehrenburg, Stalin có tính toán trước. Nhà độc tài cần, và
Ehrenburg
sẵn sàng chấp nhận, vai trò vị đại sứ của Stalin tại khu vực Tả phái Âu
châu.
Trước hết là chống Phát-xít. Năm 1934, Ehrenburg viết thư cho Stalin,
đề nghị
thành lập liên hiệp quốc tế chống Phát xít: "Tình hình ở Tây Phương rất
thuận lợi. Đa số những nhà văn tài năng nhất, vĩ đại nhất, nổi tiếng
nhất thành
thực muốn gia nhập với chúng ta trong việc chống Phát xít." Để thí dụ,
ông
kể tên Romain Roland, Thomas Mann, Henrich Mann. Lá thư này đã khiến
cho chính
sách của Xô Viết thay đổi, trước đó vốn không chấp nhận bất cứ một sự
cộng tác
nào của đám trí thức nước ngoài, những người không "tam cùng" với chủ
nghĩa CS. Stalin "chịu" đề nghị của Ehrenburg và ra lệnh cho Lazar
Kaganovich và Andrei Zhdanov cùng làm việc với ông. Cuộc xâm nhập văn
hóa này
tỏ ra rất thành công, kể cả trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến. Nó tạo một
dư luận
thuận lợi cho Liên Bang Xô Viết, vô địch cho tự do và hoà bình của mọi
thời,
trong khi sự thực đây là thời gian ở trong nước, Liên Xô đang huỷ diệt
mọi tự
do, và đang trên đường hung hăng điên cuồng sửa soạn chiến tranh. Đám
nhà văn,
khoa học gia, nghệ sĩ nổi tiếng thế giới, mù tịt về thực tế Xô Viết,
ngây thơ
tin tưởng, chỉ còn Russia là có thể cứu vớt loài người khỏi chủ nghĩa
tư bản
bịnh và Nazi quỷ. Qua tài phù thuỷ của Ehrenburg, các Phong Trào, Mặt
Trận...
mọc lên như nấm. Hết chống Phát-xít tới đế quốc Mỹ. Hết Hội nghị Nhà
văn tới
Hội nghị Hòa bình... Chính ông đã "dụ khị" André Malraux và André
Gide viếng thăm Liên-xô.
Trong đời, Ehrenburg đã từng trích dẫn lời
khuyên của
Tolstoy:
(1) Đừng bao giờ viết bất cứ một điều gì mà anh không quan
tâm. (2)
Đừng bao giờ viết vì tiền. (3) Nếu anh không thể viết điều anh muốn,
đừng viết
gì hết. Ông đã "vi phạm" cả ba, lúc điều này, khi điều nọ, tùy theo
nhu cầu, giai đoạn. Với tư cách phóng viên của nhật báo Izvestiya, ông
du lịch,
viết bài về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Là cái loa tuyên truyền cho
Xô-viết,
ông cố tình lờ đi việc thủ tiêu dã man bởi đám đồ tể của Stalin, tại
Tây Ban
Nha, đối với những phần tử vô chính phủ (anarchists), và những người xã
hội
theo Trotsky.
Tiếp theo đó là "thời khổ ải" đối với ông. Thời kỳ
1936-37, ông đành phải nhắm mắt ngậm bồ hòn, trước những "vụ án" đối
với đám cựu trào Xô-viết bị buộc tội do thám và âm mưu lật đổ. Ông có
mặt tại Moscow
khi xử án
Bukharin, bạn thời niên thiếu và cũng là người che chở Ehrenburg. Ông
Trùm Đỏ,
vốn là một tay sa-đích bậc thầy, đã ra lệnh cho Ehrenburg phải có mặt
tại phiên
tòa. Ông "mần thinh" trước công lý bị chà đạp, và bạn ông bị xử tử
sau đó. Trong thời gian Liên-xô "đi đêm" với Quốc Xã, Moscow cảm thấy
cái loa chống-Nazi của ông bất thuận lợi, cho nên Izvestiya vẫn tiếp
tục trả
lương cho ông nhưng không đăng bài. Rồi hiệp ước bất tương xâm
Stalin-Hitler nổ
bùng ra. Hiệp ước phản bội tất cả những gì mà Ehrenburg coi là thiêng
liêng cao
cả. Trong vòng 8 tháng trời, ông không nuốt nổi đồ ăn, sống nhờ rau cỏ,
sút 40
pounds. Trong thời gian chiến tranh, mhững bài viết của Ehrenburg trên
tờ báo
Hồng Quân được đích thân Stalin kiểm duyệt mỗi ngày. Lòng hận thù, sự
ghê tởm
đối với quân đội Đức do những bài viết tạo nên, đôi khi khủng khiếp đến
độ, lính
Nga tàn sát hàng loạt binh sĩ Đức, cho dù họ đang sửa soạn để đầu hàng.
Hận
thù, một phần do lòng ái
quốc, do gốc rễ Do thái, nhưng chủ yếu là ông không ưa người Đức, bởi ý
thức hệ
của họ, cũng như những sắc thái đặc biệt của dân tộc này. Ngay từ khi
còn là
một đứa nhỏ, trong một lần viếng thăm Đức quốc, Ehrenburg khám phá ra
một điều,
xe lửa của Đức chạy rất đúng giờ. Đối với cậu bé Ehrenburg, chỉ có quỉ
sứ mới
làm nổi chuyện đó!
Note: Theo bài điểm sách của
Richard Pipes: "Tangled Royalties": The life and times of Ilya
Ehrenburg,
tác giả Joshua Rubenstein, nhà xb Tauris, 464 trang,1996, đăng trên tờ
The
Times Literary Supplement, Oct 4, 1996.
R. Pipes là nhà sử học Harvard, cuốn
sách sắp xb của ông là The Unknown Lenin.
NQT
*
Có lần, Gấu nhắc tới
một ẩn dụ,
về một cái trứng chim, rớt xuống đất, may sao không vỡ, và được một con
vịt ấp.
Trứng nở ra chim, được vịt nuôi, thành ra cứ nghĩ mình là vịt, không
biết bay. Vịt, do không phải là chim, nên không biết, cái cú, đạp
con
chim non ra khỏi tổ, để cho nó tập bay.
Cái số phận của con chim được vịt
nuôi này,
là số phận Yankee mũi tẹt, suốt đời tin vào Đảng, còn Đảng, do ngu quá,
không biết đạp nó ra khỏi tổ, cho nó tập bay!
Cái đám Yankee mũi tẹt, chỉ đọc
được văn học vệ quốc Liên Xô, chẳng phải giống con chim được vịt nuôi ư?
Ui chao, tình cờ, do dọn nhà,
vớ được cuốn tập của cô học trò trong Bụi ngày nào, trước khi đi tái định
cư,
tặng thầy, cùng bức hình, làm chút kỷ niệm.
Cô
nói, bức hình, em tặng cô,
không phải tặng thầy!
*
The
bird and the egg.
Once
upon a time, there was a
bird which did not have the power of flight. Like a chicken he walked
about on
the ground, although he knew that some birds did fly.
It so happened that, through
a combination of circumstances, the egg of a flying bird was incubated
by this
flightless one. In due time, the chick came forth, still with the
potentiality
for flight which he had always had, even from the time when he was in
the egg.
It spoke to its foster-parent,
saying: “When will I fly?” And the land-bound bird said: “Persist in
your
attempt to fly just like the others”. For he did not know how to take
the fledgeling
for its lesson in flying, even how to topple it from the net so that it
might
learn.
And it is curious, in a way
that the young bird did not see this. His recognition of the situation
was
confused bay the fact that he felt gratitude to the bird which hatched
him. “Without
this service”, he said to himself, "surely I would be still in the egg”.
And again, sometimes
he said
to himself: “Anyone who can hatch me, surely he can teach me to fly. It
must be
a matter of time, or of my own unaided efforts, or of some great
wisdom, yes,
that it is! Suddenly one day, I will be carried to the next state by
him who
has brought me thus far”!
Nếu không có Đảng ấp ủ, chắc là tôi vẫn còn ở bên trong cái vỏ chim!
Kẻ nào ấp ủ tôi, thì cũng sẽ dậy tôi biết bay. Đây là vấn đề thời gian,
hay do sự cố gắng của riêng tôi mà không cần đến sự giúp đỡ, hay nhờ
một sự khôn ngoan nào đó, chắc hẳn vậy!
THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Sự quan trọng của Simone Weil
Nước
Pháp dâng tặng một món
quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự
hiển hiện
ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả
những qui
luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy
ra