Họ vẫn còn
và Em vẫn còn và viết cho
những ai nữa…
MT
có những đầy
vơi trên cốc rượu
có trắng một
màu tuyết với đông
có dáng ai
ngồi chân chữ ngũ
đậy chặt nút
chai rượu với người
CT
có lá rơi đầy
không thứ tự
có vàng ươm
đẫy những mùa thu
có đôi chân
cũ xào xạc cũ
nhốt tiếng
dương cầm trong ngón tay
TTT
có hoa có cỏ
và lệ đá
có tiếng
xuân về gọi vang vang
có ai về
gióng hồi chuông mới
khép lại một
lần với lưu vong
DT
có đen có trắng
không hơn kém
có bóng hạ mềm
rũ trên môi
có bàn chân
sỏi đều trên cát
ngày tắt
trên nền khung vải đen
Và Em
có tháng năm
già hơn tất cả
có em độ lượng
với thời gian
có bờ ngực dậy
cho tôi thở
những biến
thiên thầm cõi ba sinh Đài
Sử
Note:
Tuyệt
cú. Thần cú!
Bài thơ nào ứng
với ông nấy. Nhưng tuyệt nhất, là khúc sau cùng: Có tháng năm
già hơn tất cả.
Câu này làm nhớ Brodsky:
Bao thơ tôi,
ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì
con người.
"All my
poems are more or less about the same thing – about Time. About what
time does
to Man."
Joseph
Brodsky.
* Thời
Gian Lớn Hơn Không Gian.
Ngôn Ngữ Lớn Hơn Thời Gian
Thơ Lớn Hơn Văn
“Nói
cho cùng, bài hát là thời gian được tái cấu trúc”, "Song
is, after all, restructured time", như Brodsky viết, trongbài về nhà thơ Osip Mandelstam. Hay giản dị
hơn, khi nói về nhà thơ Anh, Auden, “cái kho thời gian”, “a repository
of
time”. Và nếu ngôn ngữ sống nhờ nhà thơ, vậy thì liệu, “thời gian”
sống, nhờ
thi sĩ, trong thơ của người đó?
Theo cách đó, để xứng đôi vừa lứa với thời gian, thơ nên cố bắt
chước cho được giọng đều đều cùa thời gian. Cố làm sao giống như tiếng
đồng hồ.
Tiếng nói “rất, rất” Brodsky, do đó, hầu như không nghe được, inaudible: I am speaking to
you,
and it's not my fault if you
don't
hear. The
sum of days, by slugging on,
blisters
eyeballs;
the same goes for vocal cords. My
voice may be
muffled
but, I should hope, not nagging. All
the better to
hear
the crowing of a cockerel, the tick-tocks in the
heart of a
record, its needle's patter; all
the better
for you
not to notice when my talk stops, as
Little Red
Riding
Hood didn't mutter to her gray partner.
("Afterword",
1986).
Tôi đang nói với anh, nhưng không phải lỗi tôi,
nếu anh không nghe được. Những tháng ngày vật vã làm sưng phồng mắt
bạn,
thì cũng như thế,
là những thanh âm.
Tiếng nói của tôi có thể được tiết giảm,
Nhưng tôi hy vọng,
Nó không trở thành lầu bầu.
Còn hay hơn, là nghe con gà sống gáy [Đường ra trận mùa này đẹp lắm!],
tiếng tích tắc của trái tim cái dĩa, tiếng lải nhải của cây kim
hát. [Mặt trời chân lý chói qua tim!].
Còn hay hơn cho anh, chẳng thèm để ý, tôi ngưng từ lúc nào.
Như Cô Bé Quàng Khăn Đỏ không thèm thầm thì với đồng chí chó sói
xám.
Tiếng nói của thi sĩ, cho dù đã tiết giảm, nghe thoang thoảng, nhẹ
hơn cả tiếng chim hót, nhưng “ầm ầm” [sonorous] hơn tiếng kèn đồng của
tên xung
phong, như được diễn tả chi li trong bài thơ “Comments from a Fern”
(1989). “Ầm ầm sóng vỗ chung
quanh chỗ ngồi” [Nguyễn Du]: Những tiếng sóng
ngầm này xóa sự khác biệt giữa âm thanh và im lặng, tới thật gần với
nhịp thời
gian, và nhà thơ có thể làm được điều này, với sự trợ giúp của vận luật
[meter]. Khi Brodsky nhấn mạnh sự quan trọng của những thể thơ cổ điển,
ông
không chỉ là một người bảo thủ, nhưng ông làm điều này với niềm tin vào
chức
năng kép của chúng: như là phần tử cấu tạo và như là một tên gìn giữ
văn minh.
Khẳng định giá trị tuyệt đối về thể văn thể thi, điều này chủ yếu không
phải là
một vấn đề liên quan tới thể thơ, nhưng đây là phần quan trọng của điều
mà
Brodsky gọi là triết học của văn hóa.
Nghĩ theo dòng
Joseph Brodsky làm thơ ở quãng đời đẹp nhất của ông, và lịch sử việc
in thơ ông phản ánh hệ thống chính trị mà ông trưởng thành từ đó. Những
cuốn
thơ đầu của ông, do bạn bè hoặc những người yêu thơ ông ở Tây Phương,
tuyển chọn
và xuất bản. Chúng đều bị cấm đọc tại quê hương ông. Tại Liên Bang Xô
Viết, tập
thơ đầu của ông chỉ được xuất bản sau khi ông được Nobel. Sau khi chế
độ độc
tài Cộng Sản sụp đổ vào năm 1991, thơ ông mới được xuất bản đầy đủ [in
full
scale].
Một trong những hậu quả của tư tưởng của ông, rằng, một con người
chỉ có đi, khởi từ đầu một con đường một chiều, là, ông chẳng bao giờ
trở về
quê hương. Cách ông suy nghĩ, và hành động, là trực tuyến, thẳng một
lèo, như
người Việt mình nói. Từ tuổi ba mươi hai, ông đã là một “nomad” [một
tên lang
thang, một kẻ du mục] - một người hùng của Virgil, bị số phận trù ẻo:
Đi mà đừng
bao giờ mong, có một ngày trở về.
Khi được hỏi tại sao không trở về, ông nói, ông không muốn thăm
quê hương như một khách du lịch. Hay là, ông không muốn về thăm quê
hương mà lại
phải xin xỏ cái đám khốn kiếp đó. Cho dù là đám khốn kiếp đó ngỏ lời
mời.
Luận cứ sau cùng của ông là:
Cái phần đẹp nhất của tôi, thì đã ở đó.
Rồi.
Thơ Của Tôi. Nhà thơ nổi loạn
Có em độ lượng với thời
gian. Có bờ ngực dậy cho tôi thở.
From:
Tien Dang
Subject: Tham hoi.
To: "nguyenquoctru" <quocoai_sontay@yahoo.com>
Date: Sunday, June 14, 2009, 6:04 AM DT gu+i
NQTru:
...
Chuc
su+c khoe tot,
Chu
nhat vui, Than
Dang
Tien
Note:
Ui
chao, Gấu lèm bèm về cái vụ bạn hiền bưng thơ về trong nước bị đám tai
trâu chê,
tưởng bạn giận, dè đâu không, chẳng thú sao?
Tks. NQT
Did
he love
his motherland? Did he leave it voluntarily, or was he an exile? Why
did he
never go back, even to visit? Was he in any meaningful sense a
Christian? What
was the significance of his being Jewish? Did he remain a Russian poet,
or
indeed a Russian in any acceptable sense of the word? Why did he
profess to
worship language, and in what way did he worship it? Why does he keep
going on
about "empire"? Why did he eventually insist on translating his own
poetry into English himself, and how good are the results?.
Alongside the awe, the respect, and the
genuine love, these books contain some of the most penetrating
observations
ever made about Brodsky, both the poet and the man. About the former,
Pyotr
Vail observes: "Pushkin was all about how we wanted to be; Brodsky was
all
about how we really are". About the man, Annelisa Allleva makes some
cutting remarks, notably: "He stole other people's love in order to
hide
his insecurity". Derek Walcott puts the two together: "Joseph didn't
make a distinction between his calling and his life. He was the best
example I
know of someone being a poet in the professional sense".
Joseph [HV] Brodsky đếch thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên hướng
nhà thơ và đời của ông. Ông là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một
người, là một nhà thơ, theo một cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"I was only too glad to be the handmaid of
genius, and to be taken for granted": Tớ thật hạnh phúc được là người
hầu của thiên tài, và được đảm bảo như vậy.
Chắc là nhà
văn phục sinh BNT chưa từng đọc về chủ trương pha lê hóa tại đất nước
của Gấu Mẹ
Vĩ Đại, xin post ở đây một chương trong Cuộc đời Solz của D.M. Thomas,
liên
quan đến cú làm sạch cỏ, pha lê hóa đám bần cố nông Ku Lắc. Robert
Conquest begins his powerful and passionate book The Harvest of Sorrow
with
this devastating summary: "Fifty
years ago as I write these words, the Ukraine and the Ukrainian,
Cossack and
other areas to its east -a great stretch of territory with some forty
million
inhabitants-was like one vast Belsen. A quarter of the rural
population, men,
women and children, lay dead or dying, the rest in various stages of
debilitation with no strength to bury their families or neighbors. At
the same
time (as at Belsen), well-fed squads of police or party officials
supervised
the victims." [Robert
Conquest mở ra Mùa Gặt Buồn bằng những dòng đau thương sau đây: Năm mươi năm
trước đây khi tôi viết những dòng này, cả một vùng đất bạt ngàn với
chừng 40
triệu cư dân thì chẳng khác gì trại tù Belsen của Nazi. Chừng ¼ đàn bà
trẻ con
nằm chết hay chờ chết. Số còn lại thì chẳng còn sức lực, dù để chôn họ,
dưới
con mắt trông chừng của đám viên chức và cảnh sát mập mạp].
* Vasily
Grossman, a Jew who also wrote powerfully about the Holocaust, has
described a
typical departure scene:
From our
village ... the "kulaks" were driven out on foot. They took what they
could carry on their backs: bedding, clothing. The mud was so deep it
pulled
the boots off their feet. It was terrible to watch them. They marched
along in
a column and looked back at their huts, and their bodies still held the
warmth
from their own stoves. What pain they must have suffered! After all,
they had
been born in those houses; they had given their daughters in marriage
in those
cabins. They had heated up their stoves, and the cabbage soup they had
cooked
was left there behind them. The milk had not been drunk, and smoke was
still
rising from their chimneys. The women were sobbing-but were afraid to
scream.
The Party activists didn't give a damn about them. We drove them off
like
geese. And behind came the cart, and on it were Pelageya the blind, and
old
Dmitri Ivanovich, who had not left his hut for ten whole years, and
Marusya the
Idiot, a paralytic, a kulak's daughter who had been kicked by a horse
in
childhood and had never been normal since.
Some, taken
to the far Siberian North, were shipped down the great rivers by raft,
and were
mostly lost in the rapids. Imagine a man, woman, and two or three
children,
plucked from the mild Kuban, hurtling down the icy, wild Yenisei.
But we
should steel ourselves against bourgeois compassion. Or so argued Ilya
Ehrenburg, writing as Robert Conquest says with "exceptional
frankness" in a novel of 1934. "Not one of them was guilty of
anything; but they belonged to a class that was guilty of everything." Ilya
Ehrenburg phán: "Chẳng có ai trong số họ có tội, nhưng họ thuộc một
giai cấp có tội."
Những hậu quả
từ sai lầm này thoạt đầu khó nhận rõ, bởi sự phá hoại trong văn hóa
không dễ nhận
thấy. Trong văn hóa không có “máy bay rơi”. Ở đó dường như chỉ có việc
trao giải
thưởng, trao danh hiệu nào “ưu tú”, nào “nhân dân”. Chẳng có gì quan
trọng. Nhưng
sau đó nhìn lại: sau hai mươi năm mà dân chúng đã suy đồi, còn đám trí
thức nghệ
sĩ thì đứng trên Tháp [Rùa ở Hồ Gươm] Eiffel mà khạc nhổ lên số phận
đất nước.
Rồi tất cả lại bắt đầu hỏi: tại sao, tại sao? Chỉ tại người ta đã trao
giải thưởng
cho những cuốn sách không thể đọc nổi, cho những cuốn sách dạy thái độ
thờ ơ với
những giá trị thiêng liêng của dân tộc... Tỉnh ngộ thì đã muộn. Nguồn: Phong Điệp
Gấu mới đi một
đường ai điếu một nền văn chương vô dụng, (1) là đã có tiếng vang từ
Liên Xô, liền
tù tì, chẳng thú sao? (1) Sartre
mê làm cách mạng, nhưng khi có dịp, ông lại để lỡ: Trong Buồn Nôn đã
manh nha
những điều sau này được đám tiểu thuyết mới phát triển.
Gấu đã từng phán thật hách như thế về Sartre, trong Đọc
Bếp Lửa của TTT. Từ hồi 1973.
Ra ý, Bếp Lửa cũng chịu đựng cùng một số phận như Buồn Nôn.
Về già, đọc lại, Gấu sợ quá, làm sao mà hồi đó liều lĩnh như thế?
Nhưng, tuyệt vời thay, đúng y chang.
Post sau đây, những lời tự thú của đám tiểu thuyết mới:
IV. LA NAUSÉE LUE
PAR LES ROMANCIERS DU SECOND DEMI-SIÈCLE. Trong
có một, ‘tuyệt vời thay’
tiên đoán y chang, số phận của cả
một nền văn học Mít sau 1975: chuyên sản xuất, dịch thuật, toàn những
thứ sách
tồi, theo nghĩa, vô dụng.
Ai phán, bảnh như thế?
Le Clézio, Novel văn chương Tây:
L'efficacité d'un livre tel que La Nausée n'est pas celle d'une œuvre
de
vulgarisation; ce qui est exprimé là n'est pas une facilité, ni un
système.
C'est un accord parfait entre Sartre et le monde, un accord tel que
seule la
vie réelle pouvait le fourrnir. Sartre a vécu La Nausée, et il fallait
qu'il
l'écrive. Nous vivions La Nausée, et nous devions lire ce livre. Cette
double
expérience et cette double nécessité sont les véritables raisons de
cette
œuvre. C'est cela la force de l'écriture de Sartre, et cela sa vertu.
Les
mauvais livres sont peut-être avant tout des livres inutiles. Et le
génie est
peut-être tout simplement la plus grande adhésion au contrat social.
Những cuốn sách dở có lẽ, trước tiên, chúng là những cuốn sách vô dụng.
Văn chương trong nước, viết, đọc, dịch... đều cố tránh cái điều mà
Clézio gọi
là 'la plus grande adhésion au contrat social'.
Đám hiện sinh gọi là, [tránh] 'xuống thuyền'.
Chính vì thế mà cả một nền văn chương trở nên vô dụng! "Ai
điếu
một nền văn chương vô dụng", liệu có thể chôm NMC và đi một đường như
vậy
chăng?
Nhưng ai điếu kiểu này thì bực mình lắm đấy!
Ngay cả những khi mấy đấng Yankee mũi tẹt bàn về Camus, [Tôi chọn
Camus!], hay
dịch, tán tỉnh về Kundera, về Kafka… nhảm cả đấy! Ấy là vì toàn tán
tỉnh theo
kiểu vô dụng cả, nghĩa là không tìm cách cho nó dính với da thịt Mít,
vào cái
“contrat social” Mít.
Hay lập lại những gì mũi lõ phán.
Nhục thật!