U.S.
President Barack Obama places a flower at the little camp as he tours
the
Buchenwald concentration camp in Buchenwald, Germany Friday, June 5,
2009. With
him are German Chancellor Angela Merkel, Holocaust survivors Elie
Wiesel and
Bertrand Herz, and Volkhard Knigge, head of Buchenwald Memorial.
(AP
Photo/Gerald Herbert)
Ba
bài ca Auden thổi Lenin: Three Songs of Lenin
Chẳng thua gì Tố Hữu thổi Xì Ta Lin!
Chàng lúc đó đang học nghề làm phim tài liệu dưới sự bảo trợ của Cha
Già của Cha Già.
Song
One
My face in a dark prison lay
And blind by life remained
No learning mine nor light of day,
A slave although unchained
Till through my darkness shone a ray
And Lenin's truth I gained
We never looked upon his face
We never heard his voice
Yet closer than a father he
Much closer to us was
No father for his children did
What LENIN did for us
From darkness thick he made a light
From deserts gardens green
And out of death the life he brought
Through him the [weak] poor have seen.
A million sand grains make a moun
A million com a sack
A million of the weakest straws
Break the strong camel's back.
With all he had he took our part
He gave his brain, his blood, his heart.
Ta
tha thứ cho mi, vì mi có nhiều kẻ thù quá!
BHD phán, từ phiá bên kia vọng qua!
Nhớ,
hồi mới quen BHD, về khoe nhặng với bạn C. trong Thất Hiền, bạn
gật gù thông báo với cả bọn, Thánh nữ đó, mỗi lần Thánh nữ phán, là một
Thánh ngôn đối với bạn Gấu ta!
Còn
bà cụ C thì lắc đầu, nhà đó không chịu nổi một thằng như mày đâu!
Ông anh bèn cãi lại, nó lấy con H. chứ đâu phải gia đình con H. Mày cứ
lấy
nó đi, đem nó ra khỏi cái gia đình đó, là đại phúc cho con H đấy!
Ui chao, đúng ra, ông phải nói, đại phúc cho thằng Gấu chứ!
Mày lấy nó đi.
Ôi sao đơn giản như thế mà Gấu không làm được! Về
già, nghĩ
lại, mới thấm đòn, tại sao ngày đó ngu thế. Vừa mới nghe em nói bây giờ
H hết lãng
mạn rồi, là điên lên, may là chưa tát tai cho em một cái, đúng như
DP, thằng bạn của
thằng em trai đã tử trận, khi đọc đoạn chạy theo em ở nơi cổng trường
Đại Học
Khoa Học:
-Gặp tay em là
em bạt tai cho vài cái rồi!
Sau
này, nhớ lại Maugham, nhớ ra cái mẹo của cô gái ở trong một
truyện ngắn
của ông, khi tìm cách tống cổ ông Phó Vương ra khỏi nhà, thì mới vỡ ra
rằng, BHD
cố tình nói như vậy, để tống cổ Gấu ra khỏi gia đình của cô, tránh cho
Gấu cái
khổ, phải dạ dạ vâng vâng thưa Bố, với ông bố vợ Bắc Kít!
Một mình em gọi ông ta là Bố là quá đủ rồi!
* Ta
tha thứ
cho mi, vì mi ngu quá, không hiểu lòng ta. Ta không muốn mi phải gọi
cái ông bố
của ta là bố, nên đành phải từ chối tình mi.
Mi vừa ngu, vừa kiêu ngạo, vừa bướng bỉnh, vừa quá yêu ta... Chỉ cần ta
giả đò lắc đầu, là mi bỏ đi, ta biết trước như vậy...
Ui chao, sao mà khôn như thế, đúng là Gái Bắc Kít!
*
Trong Lục Mạch
Thần Kiếm, A Châu có tài hóa trang thần kỳ, đóng giả vai Kẻ Đại Ác Đoàn
Chính
Thuần, chịu chết dưới Giáng Long Thập Bát Chưởng của người yêu là Kiều
Phong,
trong khi ngắc ngoải, nằm trong lòng Kiều Phong, nghe người yêu gặng
hỏi, tại "nàm"
sao mà nàng phải "nàm" như vậy, à, thôi ta hiểu rồi, nàng sợ ta đánh
chết Đoàn Chính
Thuần, dòng họ Đoàn có Lục Mạch Thần Kiếm sẽ kiếm ta giết đi để trả
thù…
A Châu
mỉm cười mà đi, chàng hiểu em rồi, em chết là vì chàng, cho chàng, chứ
không vì
ai khác.
Bởi thế, mà,
qua bên kia, BHD mới ngoái lại mà nói rằng, ta tha thứ cho mi, vì cái
chuyện,
mi không hiểu lòng ta, đâu phải ta không yêu thương mi, mà vì ta không
muốn làm
nhục mi, khi bắt mi gọi ông bố Bắc Kít của ta là bố!
V/v
Schulz. Trong Inner Workings,
Coetzee đưa ra một hình ảnh thật thần kỳ về
Schulz, người nghệ sĩ "trưởng thành trong thơ ấu", 'mature into
childhood'. Trên Người Nữu Ước, 8 & 15, June, 2009, có bài
viết Giai thoại về Schulz, Bruno Schulz's legend,
thật tuyệt, của David Grossman. Tay này là tác giả cuốn Viết trong bóng tối, Tin Văn đã
từng giới thiệu. Ông cũng đã từng đăng đàn diễn thuyết chung với DTH
tại Nữu Ước.
Cái chết của Schulz cũng là một giai thoại, nhưng thê lương vô cùng,
qua kể
lại của Grossman, trong Viết trong
bóng tối. Ông đi tù Lò Thiêu, nhờ tài vẽ, được một tay sĩ quan
Nazi bảo bọc, khiến một tay sĩ quan Nazi khác ghét, và sau cùng giết
ông, rồi kể lại cho tay kia nghe. Tay kia xua tay, chuyện lẻ tẻ, để
kiếm đứa khác, thế!
*
LIFE AND
LETTERS
THE AGE OF
GENIUS The legend
of Bruno Schulz.
BY DAVID
GROSSMAN
An afternoon
in spring, Easter Sunday, 1933. Behind the reception desk of a small
hotel in
Warsaw stands Magdalena Gross. Gross is a sculptor, and her modest
family hotel
serves as a meeting place for writers and intellectuals. In the hotel
lobby
sits a Jewish girl of about twelve, a native of Lodz. Her parents have
sent her
to Warsaw for a school holiday. A small man, thin and pale, enters the
hotel,
carrying a suitcase. He is a bit stooped, and to the girl-her name is
Jakarda
Goldblum-he seems frightened. Gross asks him who he is. "Schulz," he
says, adding, "I am a teacher, I wrote a book and I-"
She
interrupts him. 'Where did you come from?"
"From
Drohobycz."
"And
how did you get here?"
"By
train, by way of Gdanski Bridge." The woman teases him. "Tanz?
You are a dancer?"
'What? No,
not at all." He flinches, worries the hem of his jacket. She laughs
merrily, spouting wisecracks, winking past him at the girl.
"And
what exactly are you doing here?" she asks finally, and he whispers,
"I am a high-school teacher. I wrote a book. Some stories. I have come
to
Warsaw for one night, to give it to Madame Nalkowska." Magdalena Gross
snickers, looks him up and down. Zofia Nalkowska is a renowned Polish
author
and playwright. She is also affiliated with the prestigious publishing
house Roj.
With a little smile, Gross asks, "And how will your book get to Madame
Nalkowska?"
The man
stammers, averts his eyes, yet he speaks insistently: Someone has told
him that
Madame Gross knows Madame Nalkowska. If she would be so kind-
And when he
says this Magdalena Gross stops teasing him. Perhaps-the girl
guesses-this is
because he looks so scared. Or perhaps it's his almost desperate
stubbornness.
Gross goes to the telephone. She speaks with Zofia Nalkowska and tells
her
about the man. "If I have to read the manuscript of every oddball who
comes to Warsaw with a book," Nalkowska says, "I'll have no time for
my own writing.".
It Magdalena
Gross asks that she take one quick look at the book. She whispers into
the
phone, "Do me a favor. Just look at the first page. If you don't like
it,
tell it him and erase the doubt from his heart."
Zofia Nalkowska
agrees reluctantly. Magdalena Gross hangs up the phone. "Take a taxi.
In
half an hour, Madame Nalkowska will see you, for ten minutes."
Schulz
hurries out. An hour later, he returns. Without the manuscript. "What
did
she say?" Magdalena Gross asks.
He says,
"Madame Nalkowska asked me to read the first page to her out loud. She
listened. Suddenly she stopped me. She asked that I leave her alone
with the
pages, and that I return here, to the hotel. She said she would be in
touch
soon."
Magdalena Gross brings him tea, but he can't drink it. They wait in
silence.
The air in the room grows serious and stifling. The man paces the lobby
nervously, back and forth. The girl follows him with her eyes. Years
later,
after she has grown up, she will leave Poland, go to live in Argentina,
and
take the name Alicia. She will become a painter there and marry a
sculptor,
Silvio Giangrande. She will tell this story to a newspaper reporter
during a
visit to Jerusalem, nearly sixty years after the fact.
The three
wait. Every ring of the telephone startles them. Finally, as evening
draws
near, Zofia Nalkowska calls. She has read only thirty pages, there are
things
that she is certain she has not understood, but it seems to be a
discovery-perhaps
the most important discovery in Polish literature in recent years. She
herself
wishes to have the honor of taking this manuscript to the publisher.
The girl
looks at the man: he seems about to faint. A chair is brought to him.
He sits
down and holds his face in his hands.
Of the many
stories, legends, and anecdotes about Bruno Schulz that I have heard
over the
years, this one especially moves me. Perhaps because of the humble
setting of
this dazzling debut, or perhaps because it was recounted from the
innocent
vantage of a young girl, sitting in the corner of the lobby, watching a
man who
seemed to her as fragile as a child.
And another
story I heard: Once, when Schulz was a boy, on a melancholy evening his
mother,
Henrietta, walked into his room and found him feeding grains of sugar
to the
last houseflies to have survived the cold autumn.
"Bruno,"
she asked, "why are you doing that?"
"So
they will have strength for the winter."
Elisabeth
Pisani là phóng viên, phần lớn viết cho Reuters, đã
từng tường thuật, trong khoảng 1986-1995, từ
India, China, Việt Nam, Cambode và những nơi khác. Bài viết cho số Granta, Lost
and Found, là toan tính tái sinh, resurrection, Đêm
Thiên An Môn bà đã từng trải qua, khi còn
là một phóng viên chưa có kinh nghiệm. Kể lại nó thế nào cho đúng sự
thực? Bài
viết là một suy tưởng về hồi ức, khi được viện tới, để kể lại một sự
kiện. Có những
nhận xét thật tuyệt, về sự kiện Thiên An Môn:
Foreigners
with a special interest in China know that 'the Tiananmen massacre'
acts as
a convenient shorthand for a much messier and certainly very bloody
reality
that affected the whole of Beijing. But for many other people
outside
China, the narrative has been rewritten around that single geographical
point.
For many people in China, of course, there's no narrative at all. The
events of
that night have been wiped from the record entirely. So much so that
three
editors on a provincial newspaper were sacked in 2007 because a young
clerk,
clueless about what had happened eighteen years before, allowed a
tribute to
the victims of '4/6' to slip into the classified ads column.
Journalism,
it is said, is the first draft of history. But this first draft is
edited
before it even hits the page, or the airwaves, by individual
journalists who
weave facts into a story that will engage the reader. It then gets
edited over
time into the dominant narrative. Details that seemed important to a
reporter
in the moment - friendly troops, babies on laps - get drowned by larger
events
and eventually disappear.
Nhân đây, post bài phỏng vấn Ma Jian, tác giả Hôn Thuỵ Bắc Kinh, của tờ
L'Express, số đề ngày 14 Tháng Sáu, 2009.
*
DOCUMENT
Ma Jian
« En Chine, chaque jour
est un 4 juin
1989 »
Il serait l' « une des
voix les plus
courageuses et les plus importantes de la litttérature chinoise
actuelle »,
selon Gao Xingjian, prix Nobel de littérature ... Vingt ans après
l'écrasement
sanglant de Tiananmen, le 4 juin 1989, Ma Jian revient sur le Printemps
de
Pékin, qui fournit la trame de son roman magistral, Beijing Coma
(Flammarion),
dont paraît ce mois-ci la version en mandarin. Ancien photographe au
service de
propagande des syndicats chinois, cet écrivain inclassable a fui Pékin,
au
début des années 1980, et traversé le pays de part en part, trois ans
durant.
Après l'interdicction d'une de ses nouvelles, il choisit l'exil à
Hongkong,
puis à Londres, où il vit désormais. Dans son dernier opus, le
narrateur gît
dans un coma éveillé après avoir reçu une balle dans la tête, place
Tiananmen.
Alors qu'il se remémore les événements qui ont précédé la nuit tragique
du 4
juin, le monde change autour de lui...
Bài này hiện đang
hot nhất
trên net. Thiên hạ khen um lên, còm rối rít, loạn xà ngầu, nhân người
ngẫm đến
ta, rồi so sánh ta, với đủ thứ người ngượm trên thế giới. Ai cũng biết
xấu hổ,
trừ... VC. Sao
lạ thế, cà?
Note:
Đây là
thứ lịch sử "của đám đông" mà Cao Hành Kiện rất tởm. Cũng
là thứ lịch sử
mà cả một đất, Miền Nam, "cam chịu", cho dù cuộc chiến đã chấm dứt, để
có được sự
phát sinh ra con bọ VC.
Câu
của
Camus - Par définition, il [l'écrivain] ne peut se
mettre aujourd'hui au service de ceux qui font l'histoire : il est au
service
de ceux qui la subissent - dịch theo kiểu 'Anh Hai'
của Gấu, đại khái như vầy, ‘nhà văn,
thay vì làm
tà lọt cho những kẻ làm ra lịch sử, thì làm bồi cho những kẻ chịu đựng
[không
phải cam chịu] lịch sử’, câu này, dân Mít miệt vườn đọc không sướng
bằng câu của
Greene (1).
(1)"The
novelist’s station" he [Greene] insists "is on
the ambiguous borderline"; a writer, like a double agent, “must be able
to
cross over, to change sides at the drop of a hat”. Cái
trạm sở của tiểu thuyết gia thì ở vùng biên cương mù mờ; nhà văn,
thì cũng
một thứ gián điệp hai mang, nhưng 'phải dám vượt lằn ranh, đổi bên liền
lập tức
khi cái nón [tai bèo] vừa rớt xuống'. Graham Greene.
* Cái vụ hoan
hỉ cam chịu lịch sử này, Gấu sợ văn sĩ VC Bùi Ngọc Tấn lấy hứng, không
phải từ Camus, mà
từ mấy thằng nhà văn Ngụy!
Thảo
Trường chẳng đã từng phán: ...
Cho tới năm 1975, tội lớn nhất của Cộng Sản, là thắng trận và chiến
công lớn nhất của Cộng Hòa là thua trận!
Gấu,
trong bài
viết về Sơn Nam, cũng đã thỏ thẻ: Khi
còn ở Trại
Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho
đi mò
tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra
một cuộc
tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một
điều: tại
sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình
cảnh cả nước
phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền
Nam, có
thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho
chính mình,
rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất
trận.
*
Tuy nhiên,
những lời phán như thế, là, trước khi có hiện tượng Chúa Sẩy Thai, hiện
tượng VC
ăn nhằm cứt phồn vinh giả tạo của Mẽo bỏ lại, và gen bị đột biến, biến
thành bọ,
thành ruồi.
Giá như có cái nhà Mít to lớn đàng hoàng, thì mới có chuyện hoan hỉ,
cam chịu lịch sử, ông nhà văn VC ơi! Ông nhảm quá!
Viết như thế
là làm nhục thêm một lần nữa, cái vụ đi "tù vì lương tâm"!
*
Cái ý tưởng
làm ‘nhục thêm một lần nữa’… tình cờ làm sao, đúng khi vừa viết ra, thì
Gấu đọc
được những dòng sau đây, trên tờ TLS May 29, 2009:
Như
vậy là những nạn nhân của Stalin chết thêm một lần thứ nhì, ở trong hồi
ức của nhân loại.
Ấy là vì nhân loại chỉ biết đến Lò Thiêu Auschwitz của Hitler, mà không
hề biết đến Lò Cải Tạo của Bác Xì, Bác Mao, Bác Duẩn!
*
Nhưng, như
Hitler của Steiner, đã từng biện minh cho cái Ác Lò Thiêu, nếu không có
nó, làm
sao có quốc gia Israel? Nhờ
pha lê hóa
Miền Bắc, nên thắng cuộc chiến đỉnh cao chói lọi. Nhờ pha lê hóa Miền
Nam, đuổi
sạch giống Ngụy. Nhờ vậy mà nhân loại có thêm sắc dân, dân tộc ngồi
thuyền, boat people? Liệu
có thể dịch
thuật ngữ “pha
lê hóa”, đặc biệt của BNT, sang tiếng Anh, tiếng U, là “cleansing”? Ui
chao, đúng bong! Sau 30 Tháng Tư, những đợt đánh tư sản mại bản,
tống dân thành phố đi Kinh Tế Mới, tống sĩ quan Ngụy vào Lò Cải Tạo...
là đều nằm trong chủ trương pha lê hóa Miền Nam, "tẩy uế" nó, trước
khi đón ông chủ mới là Yankee mũi tẹt!
Nhà văn "phục sinh" BNT nếu thực sự là nhà văn, thì phải viết về những
kẻ cam chịu lịch sử đó!
*
“Après
Auschwitz, écrire un poème est barbare, et la connaissance exprimant
pourquoi
il est devenu aujourd'hui impossible d'écrire des poèmes en subit aussi
la
corrosion. » Sau
Auschwitz, làm một bài thơ thì dã man, và sự hiểu biết dẫn giải ra cái
điều, tại
làm sao bây giờ đếch có thể mần thơ, chính sự hiểu biết đó cũng ‘cam
chịu’ sự bào
mòn. T.
W.
Adorno, Critique
de la culture et société Pour
les
écrivains d'après 1945, l'ambition la plus noble, et c'est ce qu'il a
bien vu,
était de trouver une langue et des formes servant la construction d'un
avenir
qui, dans son caractère négatif, posait l'événement Auschwitz comme
fondateur.
Cette ambition “antibarbare” subsiste. Dès 1944, Albert Camus
entrevoyait
l'ampleur de la tâche: « Ce qui caractérise notre siècle, ce n'est pas
tant
d'avoir à reconstruire le monde que d'avoir à le repenser. Cela revient
en fait
à lui donner son langage. » Với
những nhà
văn sau 1945, tham vọng bảnh nhất của họ, là, tìm ra được một ngôn ngữ,
và những
thể loại, để xây dựng tương lai, và cái tương lai này, thì tiêu cực, và
đây phải
là bản chất của nó, và đặt cái biến cố Lò Thiêu như là cái nền, cái cột
đồng trụ.
Tham vọng ‘chống lại dã man’ này thì cứ phải giữ dịt lấy mãi. Ngay từ
năm 1944,
Camus đã ngộ ra điều này, và 'chàng' phán: "Điều đặc trưng của thế kỷ
của chúng ta,
thì không phải là xây dựng thế giới, mà tái suy tư về nó. Nói vậy thì
cũng có
nghĩa là đem đến cho nó một ngôn ngữ”. Theodor
W.
Adorno: La
Culture est-elle morte à Auschwitz? [Văn
hóa ngỏm
ở Lò Thiêu ư?] Le Magazine
Littéraire số Tháng Giêng 2005, đặc biệt về Văn chương và Nhà tù [La litérature
et les Camps] Sau
Lò Thiêu,
làm đếch gì có thứ nhà văn nhà thơ dễ dãi và sung sướng, hay thứ văn
chương ngây
thơ và vô tội?
Sau Tân Trào, đọc CKN2000, chỉ muốn hưởng mùi tù Tân Trào!
* Hồi
đó “phong
trào” nó là như vậy. Bà chị Gấu giải thích. Còn BNT giải thích, “trong
cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ
trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp,
với Mỹ, những
người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản,
những phần
tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những
gì là vẩn
đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều
bị tập
trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa,
nó còn
có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.” Tại
làm sao mà cả một miền đất lại nhắm mắt nhắm mũi đi theo "phong trào",
chấp nhận
pha lê hóa, thản nhiên nhìn một cô gái vô tội bị ‘bức tử’, như thế?
Những
nhà văn Đức, của thời hậu Nazi, cũng gặp tình trạng y chang, và cố gắng
giải thích,
nhưng không như BNT, tất nhiên!
Trước
Littell, tác giả Những kẻ thiện tâm,
cả nửa thế kỷ, trước Hannah Arendt
và ý niệm
sự "tầm phào của Cái Ác" của bà, vào đầu thập niên 1950,Robert Merle, một trong tiểu thuyết gia lớn của
thời hậu chiến, đã dám chấp nhận sự thách đố, “nhìn vào vực thẳm”
[regarder l’abime],
với cuốn “Cái chết là nghề của tôi”
[La mort est mon métier]...
I AM HIGHLY
SUSPICIOUS WHENEVER the name of a collective is invoked; I actually
become
afraid that this collective name will strangle me before I have the
chance to
say anything. "Chinese intellectuals" is a collective noun that I
cannot, of course, represent, and I am terrified that if it represents
me I
will be annihilated. However, it happens to be one of the issues for
discussion
today, and it may be said to be a very important issue. Tôi
rất hơi bị nghi ngờ cứ mỗi khi tập thể lên tiếng. Tôi sợ nó bóp cổ tôi
lè lưỡi
ra, trước khi tôi thốt ra, dù chỉ một lời. "Tầng lớp trí thức Tầu" là
một danh từ tập thể mà tôi không thể đại diện, lẽ dĩ nhiên, và tôi sợ
đến khiếp
vía, nếu nó đại diện tôi, thì tôi sẽ tan biến vào hư vô! Tuy nhiên, đây
là một đề tài rất quan trọng. Kể
từ thất bại
của Những cuộc cải cách 100 ngày,
năm 1898, tới Cách Mạng 1911,
trí thức, như là
chúng ta biết đến nó, qua quan niệm của Tây phương, bắt đầu xuất hiện ở
TQ. Trước
đó, theo tôi, giai cấp trí thức TQ chỉ gồm có những bậc văn nhân tài
tử, những nhà
học giả; họ, ngoài chuyện rất quan tâm tới cách ứng xử cá nhân, và văn
chương,
còn chú tâm tới yếu tố tinh thần. Họ mong sự toàn thiện, toàn mĩ, theo
những tiêu
chuẩn đạo đức của đạo Khổng. Triết học hướng về thiên nhiên, thuận theo
thiên
nhiên của đạo Lão đưa đến không hành động, đạo Phật không coi trọng cái
thân. Cách
ứng xử kỳ cục của những học giả của những triều đại Wei và Jin, sự ló
dạng của văn
hóa đô thị ở cuối triều Ming, tất cả đều chẳng thể nào cung cấp cho
giới trí thức TQ một
mảnh đất, để từ đó mọc lên chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân thực ra
là sản
phẩm mới mẻ của những truyền thống duy lý của văn hóa Tín lành Tây
phương và sự nở rộ tiếp theo của chủ nghĩa tư bản. Trí
thức TQ
không tạo ra được một giai cấp xã hội độc lập, so với giai cấp cầm
quyền, cho đến
thời kỳ văn hoá mới 4 Tháng Năm,
tiếp theo sự sụp đổ chế độ phong kiến và cơn lũ
tư tưởng Tây phương vào TQ. Một ưu tư về
chủ nghĩa cá nhân hiện đại manh nha xuất hiện cùng với sự khơi mào của
tư tưởng
chính trị Tây phương, nó đáp ứng nhu cầu chính trị, trước tiên và sự
thừa nhận giá
trị của những hoạt động tinh thần của một cá nhân chỉ là thứ yếu. Kết
quả là,
những trí thức TQ, như là những con người suy tư, bắt đầu nói với xã
hội, như là
từng cá nhân. Than
ôi, tình trạng lý tưởng này không kéo dài. Tới thập niên 1930, tức là
muời năm
sau đó, những hỗn loạn ở trong nước, sự hăm dọa của nước ngoài, cách
mạng, và
chiến tranh, tất cả lại xô đẩy trí thức TQ vào những cuộc xung đột
chính trị để
cứu quốc gia và dân tộc. Liệu họ có ý thức được, hay không, và có lẽ,
những
duyên do tại sao, thì vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ, bởi vì họ,
chính họ, tự biến thành những món đồ để cho những đảng phái chính trị
lợi dụng để giết hại lẫn nhau. Mặc dù có một dúm nhỏ trong số họ, cố
gắng giữ sự
độc lập của mình, nhưng thật khó khăn vô cùng đối với họ, trong cái
việc suy
nghĩ và viết lách. Đây là cái kinh nghiệm bi thảm của giai cấp trí thức
hiện đại
TQ, ngay từ khi trứng nước của nó. * Ui
chao, sao
giống Mít thế, những ngày trước Cách Mạng Mùa Thu 1945!
Ba trăm năm sau, nhắc lại cuộc chiến đỉnh
cao, cái còn lại, chỉ là hai câu: -Tao chờ tụi bây để bàn giao. -Chúng ông lấy sạch rồi, mày
còn gì mà bàn giao?
Về cảm hứng
triết luận, cổ học nhân văn phương Đông và quan điểm lịch sử văn hoá
trong
nghiên cứu, phê bình văn học
Hoàng Ngọc
Hiến
Note: Cái hình
nhà học giả, chôm của Tin Văn. Cái tít bài viết khiến Gấu tò mò tìm
đọc. Cái tên
tờ tạp chí, Le Magazine Littéraire, viết
trật.
Cái câu phán
của Borges, về Dos, nghe kỳ kỳ, nhưng do không có nguyên bản, đành
chịu. (1)
Tuy nhiên,
post ở đây, bài của Borges viết về Dos, từ Borges, selected non-fictions.
* Nabokov không đọc được Dos. Ông viết cả một bộ
sách, an anthology of Russian
literature, trong đó, chê Dos hết lời. Cái đó cũng dễ hiểu. Hai ông Nga
này khác
hẳn nhau. Một sướng, một khổ. Một nhếch
nhác luộm thuộm, một sạch sẽ ngăn nắp… Borges so sánh Dos với
Faulkner, là vậy, vì hợp lý hơn!
* William
Faulkner has been compared to Dostoevsky.
The comparison is not unjust, but Faulkner's world is so physical, so
carnal,
that, next toColonel
Bayard Sartorisor TempleDrake, the explanatory
homicide Raskolnikov is as
tenuous as one of Racine's
princes. Rivers of brown water, rundown mansions, black slaves,
equestrian
wars-lazy and cruel: the peculiar world of The Unvanquished is
consanguineous with this America and its history, and it is also criollo. There are some books that touch us physically like
the nearness of the sea
or the morning. This-for me-is one of them.
"Thầy của Gấu" thường được so sánh với Dos. Cũng được thôi, nhưng thế
giới Miền Nam của Faulkner thì dung tục, xuồng xã, thành thử, đứng kế
bên
những
Colonel Sartoris, hay Temple Drake, thì anh chàng sinh viên bầy đặt
chơi trò giết người
Raskolnikov mới yếu ớt, tội nghiệp làm sao, chẳng khác một trong những
ông
hoàng của Racine! Nguồn *
Fyodor
Dostoevsky, Demons
Like the
discovery of love, like the discovery of the sea, the discovery of
Dostoevsky
marks an important date in one's life. This usually occurs in
adolescence;
maturity seeks out more serene writers. In 1915, in Geneva, I avidly
read Crime
and Punishment in the very readable English version by Constance
Garnett. That
novel, whose heroes are a murderer and a prostitute, seemed to me no
less
terrible than the war that surrounded us. I looked for a biography of
the
author. The son of a military doctor who was murdered, Dostoevsky
(1821-1881)
knew poverty, sickness, prison, exile; the assiduous exercise of
writing,
traveling, and gambling; and, at the end of his days, fame. He
professed the
cult of Balzac. Involved in an indeterminate conspiracy, he was
sentenced to
death. Practically at the foot of the gallows where his comrades had
been
executed, Dostoevsky's sentence was commuted, but he spent four years
in forced
labor in Siberia, which he would never forget.
He studied
and expounded the utopias of Fourier, Owen, and Saint Simon. He was a
socialist
and a pan-Slavicist. I imagined at the time that Dostoevsky was a kind
of great
unfathomable God, capable of understanding and justifying all beings. I
was
astonished that he had occasionally descended to mere politics, that he
discriminated and condemned.
To read a
book by Dostoevsky is to penetrate a great city unknown to us, or the
shadow of
a battle. Crime and Punishment
revealed to me, among other things, a world different from my own. When
I read Demons, something very strange occurred.
I felt that I had returned home. The steppes were a magnification of
the
pampas. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky were,
despite
their unwieldy names, old irresponsible Argentines. The book began with
joy, as
if the narrator did not know its tragic end.
In the
preface to an anthology of Russian literature, Vladimir Nabokov stated
that he
had not found a single page of Dostoevsky worthy of inclusion. This
ought to
mean that Dostoevsky should not be judged by each page but rather by
the total
of all the pages that comprise the book.
[1985] [EW]
*
Dos, Những Con Quỉ Như khám phá ra tình yêu,
như khám phá ra biển cả, cái sự khám phá ra Dos tạo một dấu ấn quan
trọng trong đời một người [Sến cô nương mê liền ông già rậm râu, ngay
lần đầu gặp gỡ!]. Chuyện thường ngày ở tuổi mới nhớn. Đám người nhớn
mò tới những nhà văn thanh thản hơn.
Vào năm
1915, ở Geneva, tôi ngấu nghiến đọc Tội
Ác và Hình Phạt qua bản tiếng
Anh thật
dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết, mà những nhân vật thì
là một kẻ
giết người, và một cô điếm, vậy mà khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến
đang bủa vây
chúng ta..
Tôi bèn dị mọ
tìm hiểu tác giả. Con một ông bác sĩ quân y, ông via bị người
ta làm thịt.
Dos rành về sự nghèo khổ, bịnh hoạn, nhà tù, lưu vong; mê viết như
điên, mê du
lịch, mê đánh bạc, vàsau cùng, về cuối
đời, rành rọt điều mà người đời gọi là danh vọng.
Ông rao giảng
sự thờ phụng ngài Balzac. Dính vào một âm mưu, ông bị kết án tử. Bị cột
vô cột
pháp trường, trong khi các bạn đồng mưu đã bị hành quyết, đúng lúc tới
phiên ông,
thì có lệnh ngưng làm thịt! Và án tử thành
bốn năm lao động khổ sai tại Siberia, và ông chẳng bao giờ quên.
Ông nghiên cứu
và chú giải những triết học không tưởng của Fourier, Owen, và Saint
Simon. Ông
là nhà theo chủ nghĩa xã hội và pan-Slavistic. [liên-Slave]. Tôi tưởng
tượng ra
vào thời kỳ đó, Dos là một đấng Thượng Đế toàn năng, biết hết và biện
minh hết
về muôn vật. Tôi cũng kinh ngạc, là lâu lâu, ở trên cao chót vót như
thế, ông cũng
ráng mò xuống phía bên dưới để mà chen
chân vào chốn bụi hồng, nơi những phường chính trị cà chớn lèm bèm,
trong khi ông
thật tởm và kết án chúng.
Đọc một cuốn
sách của Dos thì cũng giống như nhập vào một thành phố lớn mà chúng ta
mù tịt về
nó. Hay là nhập vào cái bóng của một trận đánh. Tội Ác và Hình Phạt mở ra trước
tôi - trong nhiều điều khác nữa - một thế giới khác hẳn cái thế giới
của riêng
tôi. Khi tôi đọc Những ConQuỉ, một điều gì rất lạ lùng xẩy
ra. Tôi cảm thấy như
là mình về nhà [để treo cái nón!]. Những thảo nguyên thì bạt ngàn,
hoành
tráng chẳng khác gì vùng đồng hoang Nam Mỹ của chúng tôi. Varvara
Petrovna and
Stepan Trofimovich Verkhovensky, mặc dù tên khó đọc, đều là những anh
già vô trách nhiệm của xứ
sở Argentine. Cuốn sách bắt đầu vui như tết, như thể người kể chuyện
không biết
cái tận cùng bi đát của nó.
Trong lời tựa cho tuyển tập văn học Nga, Nabokov phán,
ông chẳng thể nào kiếm ra, chỉ một trang ra hồn của Dos, để nhét vô một
bài viết.
Điều này phải hiểu như là thế này: Tác phẩm của Dos phải được xét đoán
trên cái
toàn bộ của nó, chứ không phải mỗi trang.
(1) Có thời ông
tưởng rằng Đôxtôievxki là tiểu thuyết
gia độc nhất vô song và ông đã đọc đi đọc lại nhiều lần Tội ác và trừng phạt và Những
người bị quỷ ám. Nhưng dần
dà ông nhận thấy trong truyện của Đôxt rất khó phân biệt nhân vật này
với nhân
vật khác, tất cả đều giống Đôxt một cách lôm nhôm và các nhân vật dường
như
thích thú với sự bất hạnh của họ. Thế là ông không đọc Đôxt nữa và theo
lời
ông, “sức sáng tạo của ông chẳng vì sự thiếu vắng này mà giảm sút” (2).
(2) Xem Magazine Literaire, Mai 1999,
p. 21. (sic)
HNH, Bài đã dẫn.