FRANCIS FORD COPPOLA, who
turned 70 last month, says that “Tetro” is the kind of film he set out
to make
as a young man, before fame and fortune sidetracked him.
Coppola tái xuất giang hồ, với
Tetro, tác phẩm mà ông, khi còn trẻ, đã từng mơ ước thực hiện, và, khốn
khổ
thay, tiền tài, danh vọng… đã làm ông mê muội, và phụ bạc nó.
Ui
chao, đọc một cái, là nhớ ra cái tuổi trẻ Bắc Kít của Gấu, và cám cảnh
những
đấng con nít những đời sau của đất Bắc, khi Gấu đã bỏ chạy
thoát vào Nam. Quái
làm sao, bỗng nhìn ra hình ảnh Sến Cô Nương đang cắm cờ lên thành
phố...
Pleiku! (1)
(1) Anh đi chiến dịch Pờ Lê... Bỗng
nhìn thấy em nào, đêm qua cũng mơ gặp Bác Hồ!
* Ra khỏi Lò Thiêu là ông
cảm
thấy cần viết liền tù tì? I.
Kertész. Không, làm gì có
chuyện hăng tiết vịt như thế. Thoạt đầu tôi làm ký giả, nhưng Đảng chừa
tôi ra.
Bao vây kinh tế như đám Nhân Văn ấy mà. Thế là tôi đành viết ba tuồng
cải lương.
Nó đã cứu tôi khỏi chết đói. Một người bạn mớm ý, tôi viết đối thoại. Ban
ngày ông viết tuồng cải
lương ba xu, ban đêm viết tiểu thuyết về Lò Thiêu? Thì
cũng một kiểu hồn ma bóng
quế, Liêu Trai Chí Dị, đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm! Nhưng lành mạnh.
Nhờ vậy mà
sống nổi dưới chế độ khốn kiếp đó.
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
The Ghost City [Alexandria: City of Memory] When at the
hour of midnight An invisible choir is
suddenly heard passing with exquisite music .... Listen to the mystic
choir
and bid farewell to her, to Alexandria
you're losing. (1) * You tell yourself:
I'll be
gone To some other land,
some
other sea, To a city lovelier
far than
this Could ever have been
or hoped
to be ... There's no new land,
my
friend, no New sea; for the city
will
follow you, In the same streets
you'll
wander endlessly. Cadafy
"Đời
của mi, ngay ở đây,
tại nơi chốn vất đi này, mi đã làm hỏng nó…"
"Hãy nói lời giã từ
thành phố mà mi đã đánh mất" Chính
thành phố phải chịu xét đoán; nhưng chúng ta, những đứa con
(của Sài Gòn), phải trả giá.
(C’est la ville qui doit être jugée; mais c’est nous, ses enfants,
qui devons payer le prix.)
Sài Gòn là một máy ép tình yêu; thoát ra khỏi, là những kẻ bịnh hoạn,
những gã cô đơn, những bậc tiên tri, tất cả những kẻ dục tính bị tổn
thương nặng
nề.
(Alexandrie était le grand pressoir de l’amour; ceux qui en
réchappaient étaient les malades, les solitaires, les prophètes, tous
ceux
enfin qui ont été profondément blessés dans leur sexe).
Nàng là ai? Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với
Sài Gòn.
(Épargne-moi les blessures de l’amour partagé avec Justine). Lawrence
Durrell: Justine.
Justine
ở ngoài đời, là vợ
thứ nhì của Durrell. Tên thực Eve Cohen, cư dân Alexandria, gốc Do Thái.
Michael Wood trên Điểm Sách
London, số 1 Tháng Giêng, 2009, đọc Tứ Khúc Alexandria
(1)
The God Forsakes Antony Constantine Cavafy Listen When suddenly at the
midnight
hour an invisible troupe is heard
passing with exquisite music, with
shouts - do not mourn in vain your
fortune failing you now, your works that have failed,
the plans of your life that have all turned out to
be illusions. As if long prepared for
this,
as if courageous, bid her farewell, the Alexandria that
is
leaving. Above all do not be fooled,
do not tell yourself it was only a dream, that
your ears deceived you; do not stoop to such vain
hopes. As if long prepared for
this,
as if courageous, as it becomes you who are
worthy of such a city; approach the window with
firm
step, and listen with emotion, but
not with the entreaties and
complaints of the coward, as a last enjoyment listen
to
the sounds, the exquisite instruments of
the mystical troupe, and bid her farewell, the Alexandria you
are
losing. [translated from the Greek
by
Rae Dalven]
“Fortune
and Antony
part here; even here / do we shake
hands”
- William Shakespeare, Antony
and Cleopatra,
IV.12
We all know, or think we
know, when the Fates turned against Antony.
The coast off Actium, Cleopatra’s
ships
retreating into the fog, taking his hopes with them. It’s an incredibly
dramatic
moment: a betrayal at once political, military and personal; a battle
whose
outcome will set the course of Roman history for decades to come,
prompting no
less a poet than Virgil to place it at the very center of Aeneas’
shield.
It is characteristic of
Cavafy that he turns away from this grand scene, and chooses to focus
instead
on a quieter, more meditative moment, replacing public abandonment with
private
self-knowledge, the cry of arms with the piping of an “invisible
troupe”. This
is the true defeat of Antony, the moment when he faces the truth about
the
future, walking up to it the way one walks up to a window and looks
out.
Everything that has gone before has led to this, everything that is yet
to come
will follow, it is here, in the quiet of the Alexandrian night, that
the break
is made.
Paradoxically,
that break is
also the acme of Antony’s glory, the
point at
which, by accepting the inevitable, by not stooping to vain hopes but
acting
“as if courageous” (such a beautiful phrase!), that Antony truly becomes heroic, takes on
all the
Sisyphean dignitythat a mortal can
claim. It is by breaking free of History that we become individuals.
That is
why Antony,
with no god to support him, is more real a champion to us than a
thousand
Octavians.
Not that Antony
is the first hero to be forsaken by
the Gods. On the contrary, in recognizing that the beloved city is lost
to him,
and that he must play his part out to the bitter end, he becomes the
poetic
successor of Hector and Turnus. Cavafy understands better than anyone
the stuff
that myth is made of, the creed of tragedy and its heroes, and deploys
that
knowledge here to devastating effect.
This is an incredible poem -
a testament to the simplicity of perfection that is the mark of true
genius.
It’s not just his talent for melancholy, his ability to bring history
to life,
to make us inhabit the myth, his knack for honing in on the one
critical
moment, or even the exquisite craftsmanship with which, for example, Antony’s doubts
and
weaknesses are laid out for us by a kind of verbal reflection, that
make Cavafy
a great poet. It’s the way his poems, this one included, move off the
page in
two directions at once: the first horizontal, making us think of the
before and
after of the story the poem is taken from; the second vertical, leading
us into
the land of metaphor, where Antony’s Alexandria can
be lover,
ambition or life itself.
Joseph Brodsky writes:
“Cavafy did a very simple
thing. There are two elements which usually constitute a metaphor: the
object
of description and the object to which the first is imagistically, or
simply
grammatically allied. The implication which the second part usually
contains
provides the writer with the possibility of virtually endless
development. This
is the way the poem works. What Cavafy did, almost from the beginning
of his
career as a poet, was to jump straight to the second part: for the rest
of that
career he developed and elaborated upon its implicit notions without
bother to
return to the first part, assumed as self-evident.”
This is the real magic of
Cavafy, the reason his poems can seem so rich in wisdom. “Heard
melodies”,
Keats reminds us, “are sweet, but those unheard /are sweeter” . By
leaving his
metaphors unheard, Cavafy allows us to populate them with our own
imagination,
our own emotion, our own memories. By simplifying the historical to its
most
basic components, by stripping it down to the universal, to the poetic
(for
what is poetry, in the end, but our shared imagination), Cavafy makes
it
possible for us to see the myth in our own terms, apply it to our own
lives.
And that, after all, is what myth is for. Nguồn net
The man who lost China
History may have judged
Chiang Kai-shek too severely Chiang was not such a
loser
after all.
Note:
Bài “Tại sao đọc cổ điển”,
Gấu có bản tiếng Tây, trong tập tiểu luận cùng tên, nhưng tình cờ thấy
nó, bản
tiếng Anh, cũng trong tủ sách của Gấu, trong cuốn Những sử dụng của văn chương.
Sẽ post lên để độc giả cùng thưởng lãm. Trong The Uses of
Leterature có mấy bài cũng thật tuyệt, [tuyệt ở đây, có nghĩa,
với Mít, có liên quan tới Mít].
Thượng Đế đã chết trong
thành phố,La peau,
khép lại bằng một câu thần bí: "Thắng trận nhục nhã lắm". Nhưng cuốn
sách cho thấy, nhục nhã biết bao, khi thua nó.
Bởi vì cái Miền Nam nước Mít sau 30 Tháng Tư 1975 quả đúng là một miền
đất bị ông anh ruột thịt của nó làm cho nát bấy, vì đói khổ, khốn cùng,
và nhục nhã.
Và cái sự đói khổ, khốn cùng, nhục nhã đó kéo dài 34 năm cho đến bây
giờ, và chẳng có gì hy vọng, sẽ chấm dứt.
*
V/v cái sự nhắc nhở công lao,
đòi nợ…Yankee mũi tẹt của những đấng
đàn anh Liên Xô, Trung Quốc ngày nào, mi thắng Điện Biên, mi ăn cướp
được Miền
Nam, là nhờ súng đạn của chúng ông đấy nhé, càng làm Gấu nhớ đến con
quỉ ở nơi
chuồng lợn, trong truyện ngắn Y sĩ đồng quê của Kafka, sau khi biếu ông
chủ cặp
ngựa, bèn đòi ngay cô người làm Rose.
Tuy nhiên mấy đấng đàn anh
không hề quyết định cái cú Lò Cải Tạo. Cái Ác Bắc Kít có từ đời nào đời
nào,
cùng một lúc với nền văn minh sông Hồng, cùng với viên đất đầu tiên ném
xuống
công trường xây dựng con đê ngăn lũ. Đỉnh cao chói lọi của nó chính là
ngày 30
Tháng Tư, nhưng than ôi, “ở nơi nào có quá nhiều ánh sáng thì cũng có
quá nhiều
bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup de lumière, il y a beaucoup d’ombre’
[Goethe].
Đó
những ngày trên nông
trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi. Tất cả những bài hát cách mạng,
Gấu nghe lần đầu tiên, sống cái không khí có quá nhiều ánh sáng, ở đó,
như tất
cả Miền Nam hừng hực sống cái không khí tưng bừng “Tổ Quốc ơi, ta yêu
Người mãi
mãi. Từ trận thắng hôm nay ta xây lại bằng mười!”
Câu trên, “ở nơi nào có quá
nhiều ánh sáng thì cũng có quá nhiều bóng tối”, ‘là où il y a beaucoup
de lumière,
il y a beaucoup d’ombre’, Gấu đọc trong bài giới thiệu “Nhật ký một
đời”, của
Canetti, bản tiếng Pháp, trên tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire,
số Tháng
Sáu 2005, đặc biệt về thành phố New York và những nhà văn của nó.
Có quá nhiều bóng tối.
Kinh Tế Mới, Lò Cải Tạo… đã là những bóng
tối.
Hang động Bô Xịt sẽ là một
bóng tối.
Lời toà
soạn : Chúng tôi vừa
nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam
& Nhà
xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác
phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây
bài
viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
Diễn Đàn
*
Cũng bằng thừa!
Phách lối hơn cả… thằng cha Gấu!
Nhưng Cao Huy Thuần
là thằng cha nào vậy, cà?
*
Thường ra, khi nhận được sách,
tòa soạn đi một đường cám ơn tác giả, và trân trọng giới thiệu
với độc
giả, và nếu có thể, tóm tắt vài dòng nội dung.
Đâu có như đám coi trời bằng
vung này, tuy ở Paris
nhưng cũng thuộc loại vô học, câng câng cái mặt, coi thường độc giả,
“giới thiệu
cũng bằng thừa”!
Chính là do đọc lời giới thiệu mất dậy như trên, mà Gấu phải tò mò gõ
Google, coi đấng "cũng bằng thừa" này là ai.
Viết
chỉ vài dòng giới thiệu
một cuốn sách mà còn không nên thân, thảo nào làm
cớm cho
VC.
Thú thực, Gấu sao quá tởm đám
VC nằm vùng. Không phải vì cái chuyện chúng bỏ chạy, tả phái ngày nào,
mà vì thái
độ của chúng, bây giờ, trước cơn băng hoại của cả đất nước, kể từ sau
30 Tháng
Tư 1975. Không một thằng nào con nào tỏ ra đau xót, vẫn nham nhở viết
"thư tình"
gửi về cho đất nước, từ trái tim thơm mùi phó mát con bò cười của
chúng. (Mùi thơm toát ra từ
trái
tim chúng tôi đấy. Thư tình mà. (Trích
Bổ túc một bài phỏng vấn Thời đại mới, tháng 11, 2005).
Mà cũng hay thật. Nào là "buồn bã với những môi hôn", nào là "mùi thơm
xịt
ra từ trái tim", văn chương thúi như kít, vậy mà "giới thiệu cũng bằng
thừa"!
*
Các văn
nghệ sĩ của Sài Gòn
thưở ấy như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Cung Tiến, Viên Linh, Ðỗ Quý
Toàn...
thường ngồi tại quán La Pagode. Còn quán Brodard là quán của lớp trẻ,
những nam
thanh nữ tú Sài Gòn. Nguyễn Đạt
Tất cả
những tên tuổi lớn của
giới văn học Sài Gòn như được Nguyễn Đạt nêu ra trên đây, thì đều không
phải là
khách hàng thường trực của Quán Chùa.
TTT, có một thời cũng hay ngồi, nhưng ngắn
ngủi lắm, MT, còn ngắn hơn. Nhà thơ lớn Đỗ Quí Toàn thì lại càng hiếm
hoi hơn
nữa.
Nói
chung họ đều không phải là
khách hàng thường trực của La Pagode.
Thường
trực, phải là.. Gấu.
Vì
sáng nào cũng phải đi làm UPI, số 19 Ngô Đức Kế, gần đó. Rồi tới Nguyễn
Đình Toàn,
Huỳnh Phan Anh… Có một tay cũng rất thường trực, nhưng bảo đảm Nguyễn
Đạt không
hề biết, vì ông hay ngồi buổi chiều. Nhà văn Chàng Phi, chuyên môn viết
truyện
ngắn, đăng đúng một kỳ báo, cho tờ Ngôn Luận đầu tiên thì phải.
Nguyễn
Đạt hồi đó hình như chưa
từng ngồi Quán Chùa, có thể sợ đụng ông anh là Nguyễn Nhật Duật cũng
nên!
*
“Visiting Mrs Nabokov”, của Martin Amis, gồm những tản
mạn về một số nhân vật, nhà văn. Cuốn sách mở ra bằng lần gặp Graham
Greene. Amis cho biết, Greene đã từng vô
Đảng Cộng Sản, cùng với Claud Cockburn, chỉ để "hy vọng có cái vé miễn
phí
đi thăm Moscow". Thời gian ông suy sụp, hết pin, đến nỗi phải đi gặp
một
ông bạn bác sĩ chữa bịnh tâm thần, để được sạc điện, [electric-shock
treatment]. Thời gian lân la làm quen benzedrine, buổi sáng viết Điệp
viên tin
cẩn [The Confidential Agent], buổi chiều, The Power and the Glory.
-Bạn biết tỏng về tôi, và tôi cũng chẳng có gì để thêm vô. Tất cả đều
đã đưa
vào sách. Một lần tôi được mời nói chuyện về phim và sách. May quá,
ngay bữa
trước, tôi có một cuốn mới ra lò, về đề tài này. Thế là trúng tủ!
-Ông nói, ông đếch thích đến Mẽo, đếch thích sống ở
Mẽo…?
-Đúng thế, tôi đếch thích Mẽo. Đếch thích New York. Đếch
thích người Mẽo…
Tôi [Amis] bèn đế thêm, hình như ông đã có lần phán,
thà chấm dứt những ngày tàn của mình ở Liên Xô thay vì ở Mẽo?
-Điều tôi muốn nói thực sự là như vầy: Tôi muốn chấm
dứt những ngày của mình sớm sủa ở Liên Xô, bởi vì ở đó, họ biết quí
trọng nhà
văn khi coi nhà văn là một thứ nguy hiểm…. Tôi muốn chấm dứt đời mình ở
trong
Lò cải Tạo còn hơn là ở Tiểu Sài Gòn!
[I would rather end my days in the Gulag than in –
than in California].
Gấu chép lại câu trên, để tặng mấy đấng nhà văn VNCH
đã hồi chánh, nhân đọc bài
viết của HHT về NMG!
*
“Tình cờ” đọc bài viết về PD,
và bài phản hồi. Cũng thật thú.
Bài Phản hồi, tác giả cố gắng
làm cho PD đỡ… nhục, khi trở về.
Tính nhân bản, tính dân tộc của
bài viết, thật tuyệt. Nhưng đám VC và nhất là đám Yankee mũi tẹt làm
sao làm được
như vậy?
Chính vì thế, mà thật khó về,
trừ khi chịu nhục được như PD!
Thái độ của chúng đối với PD,
sao có vẻ giống như thái độ của.. chúng ta, đối với TCS!
Chán thế!
Đều là do thù hằn người có tài
hơn mình!
*
Steiner cũng nói như Amis,
khi nhận định về vai trò của nhà văn trong thế giới toàn trị: Bảnh hơn
nhiều so
với xã hội tư bản!
Trong bài Nhà văn và chủ nghĩa
CS, ông phán: Ngay dưới thời Stalin, nhà
văn và những tác phẩm văn học giữ một vai trò sinh động trong chiến
lược Cộng
sản. Nhà văn bị bách hại, bị hành quyết chính bởi vì văn chương được
coi là sức
mạnh quan trọng, đầy tiềm năng nguy hiểm. Đây là điểm quyết định. Văn
chương
được đề cao, coi trọng, tuy theo một đường hướng độc ác, ghê rợn, hiển
nhiên là
do sự bất tín nhiệm vào nó, của Stalin. Tới thời kỳ băng tan, vai trò
nhà văn
trong xã hội Xô-viết lại một lần nữa trở nên khúc mắc, và mang tính vấn
nạn.
Khó mà có thể tin được một điều, một nhà nước Phát-xít bị chao đảo, vì
một cuốn
sách nhỏ nhoi; nhưng Bác sĩ Zhivago đã là một trong những cơn khủng
hoảng lớn
lao trong cuộc sống gần đây của giới trí thức tại nước Nga Cộng sản.
Do trực giác, hoặc do suy
nghiệm, nhà văn luôn nhận ra vai trò đặc biệt của họ trong ý thức hệ
Cộng sản.
Họ nghiêm trọng với chủ nghĩa Cộng sản, bởi vì nó nghiêm trọng với họ.
Từ đó, một
lịch sử những liên hệ giữa chủ nghĩa Cộng sản và văn chương hiện đại,
là lịch
sử của cả hai, với những sự vị nể bắt buộc phải có.