|
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Chàng là
rêu ôm đá mơ thiên đàng
30.4.2009:
Under Construction!
Thượng
Đế đã chết trong thành phố
PEN condemns publication of
Karadzic poems
Slovakian literary magazine
under fire after printing poetry by Bosnian Serb war criminal
PEN kết án báo văn học Slovak đăng thơ đao phủ thủ & thi sĩ
Báo phản pháo: Thơ bảnh
như thế, tại sao không đăng?
Karadzic có tài chữa bệnh bằng nhân điện,
giống thi sĩ PTT ở Việt Nam. Ông đóng vai y sĩ, trong nhiều năm, và chỉ
bị lộ, khi bị đàn em phản thùng.
Un renouvellement de la
culture de masse
Wikipédia
ou la fin de
l’expertise ?
Le printemps de Milan Kundera
par Guy Scarpetta
Mùa Xuân của Kundera
là một bài điểm cuốn mới ra lò của Kundera, Một
cuộc gặp gỡ, trên tờ Thế giới ngoại
giao, số Tháng Tư, 2009. Tin Văn sẽ
có bài tóm tắt.
*
Cái “tính nhẹ” của
Kundera ở
đây, cũng như “sự chậm” ở La Lenteur, hay “cái cười”, “sự lãng
quên”
trong Le Livre du rire et de l’oubli, tất cả đều là các tham
vọng triết
học (mà tôi thấy chẳng mấy thành công) của Kundera. Thêm một cái cực
chán nữa
là Trần Vũ ngồi giảng rất oách về Kundera nhưng lại nói “Vế đầu Kundera
trình
bày trong La Pesanteur, vế sau xuất hiện trong L’Insoutenable
légèreté de l’être”. Tôi có thể khẳng định là chưa bao giờ Kundera
có quyển
sách (tiểu thuyết, tiểu luận hay kịch hay cái gì khác) tên là La
Pesanteur
(tức là “Sự nặng”). Quá sức, thiệt tình cộng hòa.
Blog Nhị Linh
V/v tham vọng triết học của
Kundera, sợ cũng không có, như tác phẩm chẳng hề có của ông!
Tất
cả tác phẩm của K đều mang tính chính trị, có thể vì vậy mà bài viết về
tác
phẩm mới
nhất của ông
trên tờ Thế giới ngoại giao
'giật' cái tít là Mùa xuân
của Kundera, và trong bài viết, tác giả, Guy Scarpetta, cho
rằng, đây
là một
cuốn sách chủ yếu là về nghệ thuật và văn chương – nhưng cũng đưa ra, ở
chỗ này,
chỗ nọ, những suy nghĩ về chính trị, một cách gián tiếp, nhưng, không
thể
coi thường
được.
Le dernier essai de Milan
Kundera, « Une rencontre », n'aborde que très accessoirement les
questions
politiques - de même que tous ses autres livres. Est-ce à dire que son
œuvre
n'entretient aucun rapport avec la politique ?
Ce serait aller un
peu vite
en besogne. Et à sonder cela d'un peu plus près, on comprend mieux,
peut-être, les
mésaventures qui sont récemment arrivées à l'auteur de « La
Plaisanterie» et de
« L'Insoutenable Légèreté de l'être » ...
Un livre, donc,
essentiellement centré sur l'art et la littérature - mais où pointent
aussi, çà
et là, quelques réflexions politiques indirectes, qu'il ne faudrait pas
sous-estimer.
« L'expérience du communisme,
écrit Kundera, - m'apparaît comme une excellente introduction au monde
moderne
en général.»
GUY SCARPETTA
Một bài tuyệt về Kundera. Thú vị hơn nữa, là tay này cũng nhắc tới
thuật ngữ 'chủ nghĩa xã hội với bộ mặt người' mà Gấu này đã từng viện
dẫn khi nói về cái sự quá chán mấy anh Yankee mũi tẹt!
Note: Những tài liệu như bài này, Gấu bỏ tiền túi ra mua, scan, post,
và nếu có thì giờ, dịch, như món quà gửi cho những bạn văn VC của Gấu!
NQT
Qua bài viết, Kundera chính là ngòi nổ, 1'«
inspirateur principal», gây nên biến cố
Mùa Xuân Prague, khoảnh khắc tuyệt vời chẳng khác gì khoảnh khắc tuyệt
vời 'nối
vòng tay lớn' của dân Mít chúng ta, nhất là cư dân thành phố Sài Gòn,
‘tất cả những
cá nhân, những thành phần trong xã hội, những đảng phái… trở thành
những dụng cụ
không ngờ của một nền dân chủ không ngờ… [...
ce
bref moment où « toutes les organisations sociales ( ... ) à l'origine
destinées à transmettre au peuple la volonté du Parti» sont devenues
les «
instruments inattendus d'une démocratie inattendue» ; où l'on a vu
coexister un
substrat authentiquement socialiste (économie collectivisée, «
agriculture aux
mains des coopératives », société relativement égalitaire, sans gens
trop
riches ni gens trop pauvres, médecine et enseignement gratuits) avec
l'abolition du « pouvoir de la police secrète », la « fin des
persécutions
politiques », la « liberté d'écrire sans censure» et, partant, 1'«
épanouissement de la littérature, de l'art ». Cela
n'a pas duré, écrit Kundera, et ne
pouvait peut-être pas durer - mais « cette seconde pendant laquelle ce
système
a existé, cette seconde a été superbe ». ]
« L'Empire soviétique, dit
l'un d'eux, s'est écroulé parce qu'il ne pouvait plus dompter les
nations qui
voulaient être souveraines. Mais ces nations, elles sont maintenant
moins
souveraines que jamais. Elles ne peuvent choisir ni leur économie, ni
leur politique
étranngère, ni même les slogans de leur publicité (3).»
Đế quốc Xô Viết sụp đổ bởi vì nó không thể nào thống trị những quốc gia
muốn độc lập tự chủ. Nhưng những quốc gia này, cũng chẳng hề bao giờ
được độc lập tự chủ. Chúng đâu có thể chọn một nền kinh tế của chúng,
một nền chính trị ngoại, cũng không, và cũng không luôn cả những bảng
hiệu quảng cáo.
Ui chao, sao mà đúng tình cảnh Yankee mũi tẹt thế!
«
L'expérience du communisme,
écrit Kundera, - m'apparaît comme
une excellente introduction au monde moderne
en général.»
Chính cái kinh nghiệm về chủ nghĩa CS đã là một dẫn nhập tuyệt hảo vào
thế giới hiện đại nói chung. Kundera viết.
Kinh nghiệm này cũng tuyệt.
Một cách nào đó, chính là nhờ những năm tháng sống với VC mà Gấu tỉnh
giấc hôn
thuỵ!
Cả đen lẫn đỏ!
*
Xì Lô, cô Út sinh ngày 13
tháng 4 năm 1975. Sau này những lúc gia đình quá khổ sở, bố mẹ cô vẫn
thường
than thở, phải chi không có cô chắc là gia đình đã đi Mỹ từ những ngày
tháng Tư
năm đó rồi. Bữa nay sinh nhật thứ 21, bố mẹ chỉ có cô ở bên. Mấy anh
chị của cô
ở quá xa, biết ngày nào gặp lại. Bố mẹ chỉ còn biết cầu nguyện tất cả
đều khỏe
mạnh, an lành. Bố mẹ chỉ mong Xì Lô được hạnh phúc.
Người ta nói, những đứa trẻ
sinh ra từ một gia đình vợ chồng không hòa hợp, nói rõ hơn, những đứa
trẻ bất
hạnh thường dễ thành công trên đường đời nếu chúng vượt qua được những
mặc cảm
tuổi thơ. Có lần cô nói, từ khi con qua đây, mới đó mà đã gần nửa năm,
gạt nỗi
nhớ anh chị qua một phần trái tim, mỗi lần thấy bố mẹ vui đùa con ứa
nước mắt
vì sung sướng. Suốt tuổi thơ chúng con chưa hề biết đến những giọt nước
mắt hân
hoan hạnh phúc đó.
Thật cũng may, cuối cùng bố mẹ
lại tìm thấy nhau, cho dù bố mẹ biết rất rõ, nếu cuộc đời được làm lại
từ đầu,
thì mọi chuyện vẫn y nguyên như vậy. Chắc là bố sẽ lo cho mẹ thêm một
chút xíu,
nhờ vậy mẹ sẽ bớt đi một chút, niềm tủi thân.
Như con biết đấy, gia đình
mình, ngoài chú Sĩ đã tử trận, bố còn một người chị và một đứa em trai
út ở
miền Bắc. Trong những năm chống Mỹ cứu nước, chú Bảo bị qui thành phần
có mẹ và
anh di cư nên không được quyền đi bộ đội, sau đó chú làm công nhân cho
nhà máy
đường Việt Trì, nhờ vậy mà còn sống. Bá Hiền lấy chồng có được một đứa
con gái.
Chồng vào Nam
chiến đấu mất tích. Qua đây gần một nửa thế kỷ, bố mới nhận được tin
tức của
chị và em. Đúng là nửa thế kỷ, bởi vì khi ông Nội mất tích ngay từ năm
1945 vì
tai họa đảng phái, bà Nội phải đem mấy đứa con gửi mỗi đứa một nơi, bố
không
gặp bá Hiền, chú Bảo kể từ ngày đó.
Con đã đọc thư chú Bảo thì
biết gia đình mình ở ngoài Bắc. Đó là quê hương mà bố phải từ bỏ, theo
bà Nội
vào Nam,
và khi chú Sĩ chết, bố tự nhủ sẽ chẳng khi nào trở về. Đấy là một phần
lý do
tại sao bố lấy mẹ. Bố muốn các con có một quê hương Miền Nam,
các con sẽ
cần tới nó như bố cần tới mẹ vậy.
Trước tháng tư năm 75, ngoài
công việc của một công chức, bố còn làm thêm cho một hãng thông tấn
nước ngoài.
Khi hiệp định Paris chấm dứt chiến
tranh Việt Nam
được ký
kết, bố thôi làm cho họ, tính bỏ Sài-gòn đưa gia đình về một tỉnh lỵ.
Nhưng
biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29 tháng
4 bố
không còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người
sếp cũ,
lúc này làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản.
Lúc đó cơ
quan DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có
thể đi
bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được
thôi. Bố
không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc
Việt đang
chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người
dân
Sài-gòn. Chết một đống còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua cho
biết,
ngày xưa bà Nội đã nói với Bá như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào Nam,
nhưng Bá
không đi vì còn mê phong trào. Bố đã ở lại. Phải chi ngày đó bố chạy
theo người
Mỹ, gia đình mình đã không gặp những cảnh ngộ đói khổ, tủi nhục như hầu
hết
những gia đình Miền Nam
khi Cộng Sản Bắc Việt thắng trận. Nhưng chính những ngày tháng sống
dưới chế độ
Cộng sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ mà gia đình mình đã trải
qua
khiến bố mẹ hiểu nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở nước người nhiều khi
phải trả
một giá quá đắt. Chắc chắn một điều, con không thể quên tiếng Việt. Đó
là khí
giới hữu hiệu nhất để chống lại sự tha hóa mà đôi khi người ta lầm lẫn
là hội
nhập. Và để chống lại sự cô đơn, niềm lãng quên, và tuyệt vọng.
Hôm nay là sinh nhật của con,
đúng ra chẳng nên nhắc chuyện đau buồn nhưng tháng Tư vẫn luôn luôn làm
những
ngưòi như bố mẹ cảm thấy bứt rứt. Có lẽ đã đến lúc bố mẹ đem cất kỹ lá
cờ phủ
trên quan tài chú Sĩ vào một nơi thật yên ổn, thật thiêng liêng là trái
tim của
mình...
Nguyễn Quốc Trụ
Thằng
Khờ được việc
Người và Việc:
Trần Phong Giao, người gác
cổng văn học, tạp chí Văn
Sunday, April 05, 2009
Du Tử Lê
Cái tít này, “người gác cổng”, theo Gấu, mô phỏng của một tay ở trong
nước. (1)
Văn học nào mà cần người gác
cổng?
Người và Việc?
Chẳng lẽ một bài tưởng niệm, bạn bè của nhà thơ, và nhân đó, cả một nền
văn học, mà nhét vô mục Chó Cán Xe như
thế này?
(1) Hoàng Hưng, Thơ
Việt Nam
đang chờ phiên đổi gác.
Note: V/v ẩn dụ 'ngưòi gác' này, Gấu nghi, mấy anh
thi sĩ
VC thuổng của ngoại quốc, nhưng họ dùng theo cái nghĩa, người gác đền
thiêng, viện chư thần, đỉnh thi sơn...
Đền thiêng thì cần có người gác, còn kiêm việc ông từ, ngày ngày lo
việc cúng bái, cầu nguyện...
Bài viết của bạn ta có vài sai sót. Phạm Thị Hoài viết thành Nguyễn Thị
Hoài. Nguyên Ngọc không phải là người khám phá ra bà này, cũng không
phải là tác giả cụm từ 'văn chương minh họa' [của Nguyễn Minh Châu].
Trịnh Công
Sơn vs Lịch Sử
TCS:
Kẻ Sĩ?
Kẻ sĩ
là... cái quái gì?
Đối với mấy anh Yankee mũi
tẹt, Miền Nam,
ngoài đám VC nằm vùng, thì đều là Ngụy, làm sao có kẻ sĩ?
Nếu TCS là kẻ sĩ, thì đã theo
HPNT lên rừng, ra bưng rồi, có khi được đưa ra ngoài Bắc, ra hải ngoại
làm cái
loa tuyên truyền cho CS.
Nhưng chắc chắn bị làm thịt,
hoặc trở thành một thứ Trần Vàng Sao, đại khái như vậy.
Bởi vậy, Gấu này nói, đám
Yankee mũi tẹt không nghe được “nhạc Trịnh” là vậy.
Chúng lợi dụng nó, khi còn
chiến tranh.
Làm nhục [làm hư], người làm
ra nó, khi lấy được Miền Nam,
bằng rượu, bằng nỗi nhục vì bị lừa.
Bài viết của tay này làm ra
vẻ uyên bác, nhưng bịp, đại bịp. Làm sao lại ví von TCS với kẻ sĩ phản
thùng
này nọ trong thiên hạ?
Trong chiến tranh, người ta
có thể trách TCS đã trốn nó, khi bị gọi nhập ngũ, nhưng có biết bao kẻ
bỏ chạy,
đâu phải một mình TCS?
Theo
Khâm định Việt sử, tháng Tám, mùa thu, năm Nhâm
Tuất 1202 vua Lý Cao Tông “Sai nhạc công đặt ra nhạc khúc gọi là “Chiêm
Thành
âm”. Nhạc khúc này giọng sầu oán não nùng, ai nghe cũng rỏ nước mắt.
Nhà sư
Nguyễn Thường nói rằng: “Tôi nghe nói: thanh âm của nước loạn thì ai
oán giận
hờn. Nay chúa thượng rong chơi vô độ, kỷ cương triều đình rối ren, lòng
dân
ngày một ly tán. Tiếng nhạc ai oán làm não lòng người! Đó là triệu
chứng bại
vong”. Chỉ hơn hai mươi năm sau, nhà Trần đoạt ngôi của họ Lý.
Chôm chĩa lịch sử, rồi “áp dụng”
vào nhạc Trịnh thì đúng là quái trạng!
Chẳng lẽ tác giả là Nguỵ, kết
án nhạc TCS làm mất Miền Nam?
Chẳng lẽ tác giả là Cách
Mạng, và chấp nhận chuyện, Miền Nam
bị Miền Bắc ăn cướp?
Vả chăng coi nhạc TCS làm mất
Miền Nam là quá đề cao nhạc Trịnh, và chấp nhận những dòng nhạc như
“Tôi có
người yêu chết trận Pleimei”, là thứ “thanh âm của nước loạn thì ai oán
giận
hờn”? Không lẽ thứ âm nhạc “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, xúi người
ta vào
chỗ chết, lại “bảnh” hơn âm nhạc nhân bản mang tính tưởng niệm?
Gấu này thực sự không tin
nhạc TCS góp phần vào việc làm mất Miền Nam.
*
Auden đã từng nói: "Không một thi sĩ nào có thể
ngăn
cấm chuyện thơ của người đó được sử dụng như là trò phù thuỷ."
Có vẻ như TCS lâm đúng tình
trạng như vậy, không chỉ một mà tới hai lần! Khi còn cuộc chiến, bị đám
VC nằm
vùng và Yankee mũi tẹt lợi dụng, vì tính phản chiến của nhạc của ông.
Khi ăn cướp
được Miền
Nam, chúng đầy đọa ông, vì những cái lỗi chúng vẫn găm đấy, thí dụ như,
tại sao
mày dám coi cuộc chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước là nội chiến, và
khi thấy ông
vẫn còn ăn khách, vào cái thời kinh tế thị trường, thì bèn lợi dụng
tiếp!
Bản
thân ông, mới đau, chẳng biết đâu là nhà, là bạn, là thù. Đến bạn thân
của ông,
mà cũng thọi cho ông những cú liểng xiểng, khi ông ngỏm rồi, chẳng thể
nào mà phản
hồi!
Dân Mít Miền Nam thương, quí TCS, có lẽ nhiều nhất, ở cái sự “cứ tưởng
bở” của ông, như tất cả họ,
cứ tưởng bờ, khi nhìn về Miền Bắc la lớn, “Help, Help, please!”
"Thằng
ăn cướp, ông anh ruột, kẻ cắn hạt gạo ra làm tư... " chỉ chờ có thế, là
bèn xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước!
*
Thời của chúng ta chưa có tha
cho mi đâu.
We will
have an opportunity
to test a case and to see what kind of vice there is in Broch.
Canetti
Chúng ta sẽ có cơ hội để coi xem Broch có tật xấu gì không.
You expect something about
the peculiarity of our writer, about the vice he addicted to, his
terrible
passion. You expect something embarrassing behind it, or, insofar as
you are
more trusting, at least something very mysterious. I have to disappoint
you.
Broch's vice is quite an ordinary thing, more ordinary than smoking,
drinking,
or cards, for it is older. Broch's vice is: breathing.
Canetti
Bạn cứ tưởng bở, sẽ tóm được một cái gì tội lỗi ở đằng sau nhạc Trịnh.
Hay ở đằng sau họ Trịnh. Tôi đành phải làm cho bạn thất vọng. Đếch có
tham vọng chính trị nào hết ở đằng sau ông ta. Thói hư của ông thì hơi
bị quá bình thuờng, còn bình thường hơn cả hút, hít, ghiền ghiệc, bài
biệc. Thói hư của ông xưa hơn nhiều: Thở.
Mai Thảo có lần phán về Bùi Giáng, ăn ngủ, đi đứng, ỉa đái... với thơ.
Có lẽ họ Trịnh cũng có thói hư này: Thở ra thơ, ra nhạc.
Gấu
này, khi họ Trịnh vừa nằm
xuống, là đã nhanh nhẩu đi một đường, trước tất cả mọi người, để nói ra
cái bực,
lần đầu gặp ông, tưởng cũng Bắc Kít, cho tới khi
có một thằng bạn chợt ghé bàn, là liền lập tức đổi giọng Huệ!
Cho tới
khi nhạc của ông “cảm
hóa” được Gấu, khi nằm trong Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung.
Nhưng,
phải đến già, thì Gấu
nhận ra được chân lý, "ghét của nào trời trao của đó": Nhờ ghét tiếng
Huế mà Gấu
mới quen được Joseph HV, và sau này, mấy “o” thật thân thương.
Tks, both of U. NQT
*
Nhớ Sài
Gòn quá!
Ôi
chao, nhớ sao bằng, so với
người ở lại, rồi chết ở đó: Trịnh Công Sơn.
Chứng
cớ?
Bạn cứ
thử so tất cả những
bái hát, sau 30 Tháng Tư, viết về nó.
Có bản
nào so được với Em Còn
Nhớ Hay Em Đã Quên?
Nếu có,
thì lại là, nhớ về Hà
Nội. Thí dụ như bản Hướng Về Hà Nội của anh chàng Hồng Dương.
Gấu này
có nghe kể một giai
thoại tuyệt vời về bài hát này.
Tác giả
của nó, đã di cư vô
Sài Gòn rồi, nhớ Hà Nội quá, bật ra cái bản nhạc trên. Làm xong, lại
càng nhớ,
chịu không nổi, bèn bò về lại Hà Nội.
Về rồi,
là hết nhớ.
Làm sao
vo với TCS, ở lại Sài
Gòn và nhớ nó như là đã mất nó đời đời.
Những
lời nhạc, phải nói là
tuyệt cú mèo, thí dụ như, "phố bỗng là dòng sông uốn quanh", thì, chỉ
những ai đã từng ở Sài Gòn, mới sướng, mới đã được!
Có một
câu, trong bản nhạc
khác, Mưa đêm tỉnh nhỏ, có thể
so được với câu trên. Đó là câu:
"Chờ
em, đêm vắng, với
cô đơn, ngõ hồn mưa ngập lối."
Chỉ có
'ngõ hồn mưa ngập
lối" mới đối lại được với "phố bỗng là dòng sông uốn quanh".
Vế
trên, là trong hẻm, nhớ
em.
Vế
dưới, là đứng hè đường phố
Sài Gòn, khu Nguyễn Thiện Thuật chẳng hạn, nhớ em!
*
Người
nhớ Sài Gòn nhất, hóa
ra, sau cùng, lại là người ở lại, rồi chết ở đó. (1)
(1) "Tớ có thể bỏ đi chứ. Nhưng tớ
đếch làm
như thế. Ở lại, trong cái thế 'di cư nội đó', dưới chế độ độc tài của
Yankee mũi tẹt, là một giải pháp tồi tệ nhất trong tất cả".
Mô
phỏng Alfred Andersch. W.G. trích dẫn, trong bài viết về tay này: Giữa Quỉ Ma và Biển Xanh Sâu Thẳm,
Between the Devil and the Deep Blue Sea, in trong On the natural history of destruction.
Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt.
Nguyên văn, bản tiếng Anh: I could
have emigrated, but I did not. To go into internal emigration under a
dictatorship is the worst alternative of all.
*
Có lần
ông anh nhà thơ phán,
mà Gấu nhớ đại khái, cái "rythme" của một bản nhạc là cái
"rythme" của thời gian.
Sau
này, đọc Brodsky, ông
cũng phán tương tự như vậy, về thơ.
"Nguồn
của nhịp điệu là
thời gian. Bạn [Volkov] còn nhớ, có lần tôi nói, bất cứ một bài thơ đều
là thời
gian được sắp xếp lại [that any poem is reorganized time]. Nhà thơ càng
tản
mạn, về kỹ năng của mình, bao nhiêu, người đó càng mắc míu với thời
gian bấy
nhiêu, với nguồn cội của nhịp điệu.... Thời gian nói với cá nhân bằng
những
giọng thay đổi, lên xuống. [Time speaks to the individual in various
voices].
Thời gian có giọng trầm của riêng nó, giọng bổng của riêng nó - và có
giọng
falsetto, chói chang, cũng của riêng nó. Tsvetaeva là một falsetto của
thời
đại. Một giọng vượt lên trên mọi giọng."
Volkov:
Chuyện trò với
Brodsky.
*
Nhưng
câu này của ông, mới
ghê:
Bao thơ
tôi, ít nhiều chi, là
về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my
poems are more
or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
*
Chơi
luôn cả một mớ, của cả
hai ông nhà thơ, để phán về nhạc TCS, thì thật là tuyệt!
Và, như
thế, cái nhịp của bài
Tình Nhớ, là cái nhịp thời gian mà Gấu trải qua, cùng với Sài Gòn, sau
Mậu
Thân, 1968: Vừa mới mất thằng em, 1967, đến lượt mình lừng lững đi vô
Trung Tâm
Ba Quang Trung, 1969. Đúng những ngày cận Tết.
*
Thành
thử, nhạc TCS mất đi
hẳn cái sức nặng thời gian của nó, với những người không sống cái thời
gian mà
từng bản nhạc của ông đã được thai nghén.
Ôi
chao, bạn phải được nghe
nó, bài Tình Nhớ, khi nó vừa mới ra đời, tại một nơi chốn như Trung Tâm
Ba
tuyển mộ nhập ngũ Quang Trung, những ngày lành lạnh cận Tết, sau Tết
Mậu Thân,
như thể nó được viết ra, chỉ để dành riêng cho bạn, bạn là người thứ
nhất được
nghe, sau tác giả của nó... thì mới thấy cái điều mà Brodsky phán: Về
thời gian
làm gì con người.
*
Một ý khác của Lữ Phương cho
rằng bài viết của Trịnh Cung như là một gợi nhớ về cái thời huy hoàng
của chế
độ Việt Nam Cộng hòa, một điều lạc lõng trong thái độ kêu gọi hòa giải
hiện
nay. Nếu Lữ Phương hiểu được tâm lý của kẻ bại trận chắc ông sẽ có một
cái nhìn
khác. Nó giống như bố mẹ đánh oan một đứa con mà không cho nó có một cơ
hội nào
để tự bào chữa cho hành động của nó, đứa bé khóc nhưng trong lòng cứ
rấm rứt,
còn bố mẹ cứ bảo thôi lỡ rồi con, quên đi. Nhưng làm sao quên được khi
mà trong
lòng cứ rấm rứt. Hãy để những kí ức được viết ra, viết để rồi quen, để
giải
tỏa, và khi người đọc thấy đó là những điều rất bình thường, đã thuộc
về lịch
sử thì lịch sử đã được đóng lại, và một giai đoạn mới được mở ra.
Nguồn talawas
Ui chao, kẻ bại trận hết "được
bị gọi" là Ngụy, nay trở thành "đứa con bị bố mẹ đánh oan", thì… phi ní
lô đia [hết
nước nói]!
Tâm lý
kẻ bại trận nào như vậy? (1)
(1)
Tuy 30 năm mới có ngày hôm nay, nhưng dân Mít Miền Nam, Ngụy hay không
Ngụy, đều biết họ thua trận.
Nhưng
thua trận như vậy coi bộ khó hơn thắng trận rất nhiều!
La Peau
Thảo nào được ‘còm’
nức nở,
hay quá, nhứt thằng cha này!
Bởi vậy, Gấu này ‘tởm’ là đúng
quá rồi!
Chúng ta phải làm sao cho
xứng đáng với những tủi hổ mà Miền Nam đã phải chịu đựng.
Và trong miệng tôi lúc đó
xông lên một cái hôi thối, giống như mùi một miếng
thịt ôi. Đó là mùi của ba tiếng “Miền Nam Ngụy”!
Đó mới là tâm lý của kẻ bại trận, thưa mấy đấng Yankee mũi tẹt!
Tụi khốn nạn!
Thắng trận nhục nhã lắm!
HERMANN
BROCH
Đây có
lẽ là bài viết tuyệt vời
nhất của Canetti, và càng tuyệt vời hơn nữa, khi áp dụng vào thực tế
Mít của chúng
ta. Đọc bài này, song song với bài của Sontag viết về Canetti, Mind as Passion,
mới lại càng tuyệt.
Tin Văn sẽ đi cả hai bài, trong khi, cùng lúc, tưởng niệm
TCS, và tất nhiên, thời của cả lũ chúng ta: Những ngày còn Miền Nam,
trước 30
Tháng Tư 1975.
Có thể, đây cũng là tưởng niệm
chót của Gấu, cũng nên!
Hơn bẩy bó rồi còn gì nữa!
“Hiền” đi, là vừa rồi!
NMG vs Lưu
Vong
Quand
Robert parle de
Jonathan
Littell,
père et fils
Cha
& Con Littell.
Ông bố
thì bị ám ảnh bởi chủ
nghĩa toàn trị Stalin, ông con, Nazi.
Tên ông
con, Jonathan October
Littell., là để đời đời ghi nhớ Cách
Mạng Tháng 10!
Tác
phẩm mới nhất của ông bố:
Chim Báo Bão, kể cuộc đụng độ giữa nhà thơ Mandelstam và đao phủ Stalin.
Life vs
Death
Sao bac
ghet talawas...?
"Khi
bạn
bị
người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở
lại".
*
Nhà văn là một thứ phong vũ
biểu. Thứ dữ dằn, một loài chim báo bão.
"Gấu nhà văn", về nhà hai lần,
nhưng lần thứ ba, tính về, ngửi thấy có gì bất an, hay là do quá rét,
bèn đi một
cái mail, hỏi thăm thời tiết nơi quê nhà, và được trả lời, không được
đẹp, thế
là bèn đếch có dám mò về!
*
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm]
bằng gỗ
nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng
bé còn thủ theo, toàn là
những
kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những
kỷ niệm
đó, và trên đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được
chúng…
Bà giữ
đủ cả, chẳng thiếu một, nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ
hơn, cũng những kỷ niệm
về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết Miền Nam làm cho dịu hết cả
đi, và đều
như những vết sẹo thân thương của một miền đất ở nơi Gấu.
*
Khi được hỏi về phản ứng gay
gắt trong một tiểu luận về cuốn Trái
Tim Của Bóng Đen của Conrad, và ý nghĩ của
ông về hình ảnh Phi Châu ngày nay trong đầu Tây phương, Achebe trả lời:
Cái
hình ảnh Phi Châu bây giờ
có vẻ thay đổi chút đỉnh trong đầu người Tây phương. Khi tôi nghĩ về
thế giá, về
sự quan trọng, và về sự uyên bác của tất cả những đấng chóp bu như vậy,
khi họ
chẳng hề nhìn thấy gì, về tính phân biệt chủng tộc ở trong Trái tim của bóng đen,
thì tôi đành đi đến một kết luận là, chúng ta hẳn là đã sống trong
những thế giới
khác biệt. Vả chăng, nếu bạn không thích câu chuyện của một người nào
đó, thì hà
cớ làm sao không viết ra, cái của riêng mình? Có thể có một số người
nghĩ là điều
tôi muốn là, “Đừng đọc Conrad”. No! Tôi đã từng dậy Conrad, I teach Conrad. I đang dậy Trái tim của bóng
đen [I teach Heart of Darkness], trong đó, điều mà tôi đang nói
là, hãy nhìn cái
kiểu người đàn ông này đối xử với những người Phi châu. Bạn có nhận ra
cái gọi
là nhân loại ở trong đó? [Look at the way this man handles Africans. Do
you
recognize humanity there?].
Người ta sẽ nói với bạn là ông ta chống lại chủ nghĩa
thực dân thuộc địa. Nói, tôi chống lại chủ nghĩa thực dân thuộc địa, là
chưa đủ,
là chẳng đi tới đâu. Hay là, tôi chống đối cái chuyện những con người
này - những
con người nghèo khổ này - bị đối xử như vậy. Nhất là khi ông ta cứ vô
tư mà gọi
là họ “những con chó ngồi trên những cái chân sau của chúng”. Cái kiểu
viết như
thế đó. Hình ảnh thú vật tràn lan, đại trà trong cuốn truyện. Ông ta
chẳng thấy
gì là sai trái với chuyện miêu tả như thế. Và nếu như thế, thì chúng ta
đành phải
nghĩ là, chúng ta sống trong những thế giới khác biệt. Khi mà hai thế
giới đó gặp
gỡ nhau, thì chúng ta mới khốn khổ khốn nạn.
*
Và nếu
như thế,
thì chúng ta đành phải nghĩ là, chúng ta sống trong những thế giới khác
biệt.
Khi mà hai thế giới đó gặp gỡ nhau, thì chúng ta mới khốn khổ khốn nạn.
Until these two
worlds come together we will have a lot of troubles.
Đúng là
cái tình cảnh Gấu, khốn
khổ khốn nạn, a lot of troubles, khi lọ mọ mang mớ kỷ niệm về cái đói
xuống tầu
há mồm ngày nào, hơn nửa thế kỷ sau, lại lọ mọ mang về, để kế bên, cũng
những kỷ niệm
về cái đói
đó, của bà chị ruột còn ở lại Đất Bắc.
*
Về nhà
Nhớ
một giai
thoại về Hemingway, chẳng nhớ ai hỏi ông câu gì, nhưng ông nói: “Thì đi
về để
treo cái mũ.”
Có những câu văn
phải nhờ cơ may mới hoàn tất nổi.
Thí dụ như câu này, nửa đầu, viết lúc nằm tù nhà tù quốc tế Bangkok,
cùng với
ông bạn vừa nằm xuống, Nguyễn Phước.
*
Bạn
không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, tôi đã nhớ Sài Gòn tới
mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan" tới… Sài Gòn!
Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị sếp
dựng dậy,
bắt phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn
còn đang
ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa
thành
phố London:
"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món
hàng
chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm tháng
Giêng ẩm ướt.
An toàn, vì không thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên
đường phố
Luân Đôn…"
(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband,
smuggled
from his bed and hoarded against the wet January night. Safe because
unreal: it
was his ghost that ranged the London
streets….)
Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây
trạng thái
chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà tù
quê
hương. Không thực, vì chung quanh là cả một khối hỗn độn người ngợm lạ
hoắc… cứ
thế, một đoạn văn ở trong tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con
chữ:
Trong những đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây
là hồn
ma của chính mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải
hồn ma của
mình, mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là
tôi ráp
lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức
giấc
ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên
những đường
phố cũ…". Tới đó tịt luôn.
Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau đó, tôi mới kết
thúc nổi
câu văn:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc
ở
trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang
trên những
nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn,
bởi cái
phần đời đó mới đáng kể."
Một
thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về
nó…
Đêm
Thánh Vô Cùng
*
Hay câu này.
Mãi sau này, khi vô tình nghe bản nhạc Kẻ Ở Miền Xa, Gấu mới
nhận ra một
trong những song sinh của nó.
Những
ngày Mậu Thân căng
thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt
thay cho
cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố
cùng với
tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu.
Cái nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái
chết,
thì có khác chi:
Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen, tầm đạn thay [cho]
tiếng em?
*
2. Sự lầm lẫn thứ hai là cái thích những câu văn
vẻ. Tôi bị ảnh
hưởng tai hại của sự học ở nhà trường của văn chương Pháp và của văn
chương Tàu
hay ta hồi ấy (quãng 1922 - 1930); tôi thích những câu đọc lên nghe êm
tai,
nhịp nhàng đăng đối (nhưng trống rỗng) thành thử tôi chỉ cốt viết ra
những câu
như thế và cho ngay là truyện của tôi hay.
Thí dụ như câu cuối cùng trong truyện Nắng mới trong rừng xuân:
"Đôi
bạn tay cầm tay, nhìn nhau yên lặng, trên đầu gió rì rào trong cành
thông như
tiếng than vãn của buổi chiều". Tuy câu ấy không phải hoàn toàn dở
nhưng bây giờ đọc lại tôi vẫn ao ước rằng không có thì hơn, hoặc có
nhưng đừng
"văn vẻ", "sáo" quá như thế, giản dị hơn như những câu
trong các tiểu thuyết sau này của tôi, viết chỉ cốt tả đúng cảm giác,
đúng
những nhận xét của mình; điều cần không phải là câu văn hay mà ở chỗ
cảm giác,
nhận xét của mình có gì hay không, đặc biệt không.
Nhất Linh: Viết
và đọc tiểu thuyết.
*
Những câu văn ở trên, bảo rằng văn vẻ quá, và là một lầm lẫn thì...
sai. Cái
văn vẻ của nó, là do đời sống [theo nghĩa "cơ may"] ban cho.
Giả như Gấu không nhớ cô bạn đến như thế, giả như không có những tiếng
xèo xèo
của những trái hoả tiễn bay ngang đầu như thế, làm sao có câu văn trên ?
*
Mỗi người, ông và nàng, cầm một đầu tấm thảm. Nàng ngửa mặt ra phía
sau, vung
cao hai tay như trên một cây đu, nàng quay đầu để tránh bụi bay mù,
nàng nheo
mắt và cười ha hả phải không? Phải vậy không ông? Tôi biết thói quen
của nàng
quá mà? Sau đó hai người đi lại phía nhau, gấp tấm thảm lại thoạt đầu
gập đôi,
sau đó gập tư, và trong lúc làm việc đó, nàng luôn miệng nói đùa và nô
giỡn chứ
gì? Phải vậy không ông? Phải vậy không ông?
Bác
sĩ Zhivago [VN thư quán]
Đây có lẽ là đoạn tuyệt vời nhất, ít ra là với Gấu, của cuốn tiểu
thuyết.
Anh chàng VC Nga, Người Thép, Strelnikov, bị Đảng săn lùng làm thịt,
trở về căn
nhà ngày nào của mình, gặp Zhivago. Hai người đàn ông tranh nhau nói về
người
đàn bà.
Câu văn trên Gấu đọc, là nhớ liền, không làm sao quên được.
Có một cái gì đó, ở trong câu văn, một hình ảnh nào đó, làm Gấu nhớ
hoài.
Chỉ tới khi về già, Gấu mới hiểu. Gấu đã từng tưởng tượng ra cảnh này.
*
Đoạn ngay trên, về chủ nghĩa Mác, về nước Nga, về thế kỷ hung bạo, qua
hình ảnh
của Lara, mà chẳng tuyệt vời sao?
Tôi hay lui tới khu nhà kia và thường gặp nàng ở đó. Nàng còn là một
thiếu nữ,
một cô bé, nhưng đã có thể đọc thấy trên vẻ mặt và ánh mắt nàng tư
tưởng căng
thẳng, nỗi lo âu của thời đại Tất cả các đề tài của thời đại, toàn bộ
nước mắt
và sự hờn giận của thế kỷ, tất cả những thôi thúc, toàn bộ nỗi thù hằn
chồng
chất và niềm kiêu hãnh của thời đại đều được ghi trên khuôn mặt và
trong dáng
điệu của nàng, trong sự pha trộn giữa tính ngượng ngùng thanh tân và sự
cân đối
táo bạo của nàng. Có thể nhân danh nàng, qua đôi môi nàng mà đưa ra lời
buộc
tội thế kỷ. Ông phải đồng ý với tôi rằng đó không phải là chuyện tầm
thường. Đó
là thứ giống như một thiên chức, một phẩn thưởng quý giá. Phải có cái
đó từ lúc
bẩm sinh, phải có quyền mới được hưởng cái đó.
*
Ôi chao, "có thể nhân danh nàng, qua đôi môi nàng, mà đưa ra lời buộc
tội
thế kỷ".
*
Ôi chao, Hai Lúa lại nhớ Bông Hồng ở làng Thanh Trì, Thanh Lạng, Quốc
Oai, Sơn
Tây, của thằng bé mắt lác [lé], tức Hai Lúa ngày nào .
Cô con gái địa chủ bị cả một miền đất bỏ đói, khát, bịnh, trong căn nhà
của bố
mẹ cô để lại, sau khi hai ông bà bị đấu tố đến chết. Cô gái khát quá,
cố vượt
"tường lửa", bò ra ao làng, ngay đầu ngõ, nhưng vừa đến bờ ao, là đi
luôn.
Lần Hai Lúa về lại Bắc, về lại làng, hỏi, bà chị nói, Hai Lúa cảm thấy
chưa bao
giờ thù ghét cái làng của Hai Lúa như là lần đó.
Và cũng chính trong cơn đau đớn để cho lòng thù hận lấn áp tất cả, Hai
Lúa nhớ
ra tên họ đầy đủ của cô. Luôn ánh mắt của cô, lần gặp gỡ cuối cùng, Hai
Lúa về
làng trước khi bỏ vào Nam.
Đó là ánh mắt nói, anh đi đi, hãy cố mà tự cứu lấy thân, đừng bao giờ
trở về
làng này nữa.
Và nói, tên của tôi là Trương Thị Hồng.
Sống ở trên đời, thèm miếng thịt kẻ thù, là vậy.
Không thèm, không làm sao nhớ ra tên của Cô Hồng Con.
*
Mi đâu có thương ta. Mi thương con bé con mười một tuổi, là ta, từ đời
thuở
nào. Và Hà Nội của mi, ở trong con bé đó!
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Simenon
trả lời tờ The Paris Review
Có lần ông nói về ước muốn
của
ông, viết tiểu thuyết “còn trinh” [‘pure’ novel: tinh khiết]. Có phải
đó cũng là
điều ông muốn nói, về sự cắt bỏ hết những từ, những câu ‘có tính văn
học’ – hay
là ông còn muốn bao gồm trong đó, thơ, mà ông vừa nói tới?
Tiểu thuyết “còn
trinh” sẽ làm
điều mà chỉ tiểu thuyết có thể làm. Tôi muốn nói, trong đó sẽ chẳng có
chuyện gì
về dậy dỗ, hay về báo chí. Trong một cuốn tiểu thuyết còn trinh, bạn sẽ
không
phải bỏ ra cả sáu chục trang để mô tả Miền Nam,
hay Arizona,
hay một xứ sở nào đó ở Âu Châu. Chỉ bi kịch, với chỉ
cái gì mắc
mớ tới nó. Just the drama, with only what is absolutely part of this
drama. Tiểu
thuyết bây giờ theo như tôi nghĩ, chỉ là một sự chuyển dịch, a
translation, của
những luật lệ của bi kịch vào trong tiểu thuyết. Tôi nghĩ, tiểu thuyết
là bi kịch
của thời đại chúng ta, the novel is the tragedy for our day.
Như vậy chiều dài quan trọng?
Và đó là một phần ở trong định nghĩa của ông về tiểu thuyết còn
trinh?
Đúng như thế. Nghe
thì có vẻ chuyện thực dụng, nhưng tôi nghĩ, nó thật quan trọng, cùng
một
lý do theo đó, ông không thể nào coi hơn một bi kịch! Tôi nghĩ, thứ
tiểu
thuyết
còn trinh, là thứ căng thẳng, khốc liệt, nếu
ông ngoạm vô một cái, là làm cho xong, làm tới chỉ, chứ không thể để
dành đến hôm
sau làm tiếp! [I think that the pure novel is too tense for the reader
to stop
in the middle and take it up the next day].
*
Ui
chao, nghe mà ham. Giá mà
Gấu này cũng ngoạm được nó một cái, thứ tiểu thuyết còn trinh này!
Nhận xét của Simenon về bi kịch
và tiểu thuyết, theo Gấu, đã được Lukacs nhìn ra từ lâu, trong Lý thuyết của tiểu thuyết, nhưng
ông
triết gia Mác xít này phán bảnh
hơn “Simenon nhà văn”.
Tiểu
thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn chương chính, la
principale forme littéraire, của một thế giới trong đó, con người cảm
thấy
không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu
thuyết, khi có
sự đối nghịch cơ bản giữa con người và thế giới, giữa cá nhân và xã
hội. Hùng
ca diễn tả sự tràn đầy của linh hồn và của thế giới, của bên trong và
bên
ngoài, đó là một vũ trụ mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những
câu hỏi
được đặt ra, một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng
râm nhưng
không có tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi
thơ và của
thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết (bi
kịch), tiểu
thuyết chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le
roman est
la forme de la maturité virile).
Hùng tính mà gặp thứ còn trinh, là kể như xong!
*
To be a litterateur
is to
live under the sign of mere intellect, just as prostitution is to live
under
the sign of mere sex.
[W. Benjamin: Schriften II, 179]. Just as a prostitute betrays love, a
litterateur betrays the mind.
Hannah Arendt: Tựa, cho cuốn Illuminations của Walter Benjamin.
[Nhà văn sống với chữ, thì cũng giống như bướm sống với cái số ta.
Và nếu như thế, bướm phản bội tình yêu, cũng như nhà văn phản bội cái
đầu của
mình].
|