|
Lưới
khuya,
hồn ốc lạc thiên đường
Trên NYRB có bài điểm Những kẻ thiện
tâm, của Daniel
Mendelsohn, tuyệt, hơn cả bài
của TLS. Tít trang
bìa: The Furies of J. Littell. Tít
trang trong: Transgression
Chê
thậm tệ Những kẻ thiện tâm,
là Do Thái, và Đức. Quái thế!
It
comes as no surprise that
a book that is preoccupied with giving a persuasive account of what it
would be
like to be an ostensibly civilized person who ends up doing
unimaginably
uncivilized things should, for the most part, have been
enthusiastically
embraced and, to a far lesser extent, vigorously resisted in a country
that has
such a tortured historic relationship to questions of collaboration and
resistance. For the same reason, perhaps, you're not surprised to learn
that
the most violent criticism of the "monstrous" book's
"kitsch" and "pornography of violence" has come from
Germany and Israel: the countries, that is to say, of the perpetrators
and the
victims. The critic of Die Zeit bitterly asked why she should
read
a book written by an educated idiot who writes badly, is haunted by
sexual
perversities and abandoned himself to racist ideology and an archaic
belief in
fate? I am afraid that I have yet to find the answer.[2]
The
executioner's song
Thần số đề…Pol Pot
Phan Nhiên Hạo [talawas]
Đọc bài viết, Gấu bỗng nhớ
đến vài chuyện, vài bài viết khác. Trên Tin Văn cũng có một bài, nhưng
vì lộn xộn quá
không làm sao kiếm ra, post lại từ một diễn đàn khác trên lưới, kể câu
chuyện mấy tên Việt Gian phản động, bị Việt Minh giết, trước khi chết,
hô lớn:
Hồ Chí Minh muôn năm!
Bị Bác Hồ làm thịt, mà trước
khi chết hô lớn Bác Hồ muôn năm, mới ghê!
Xì xụp lạy ông thần đề Pôn
Pốt để xin số hên, là chuyện thường.
Phải một tay Đại Ác như thế
thì mới… linh!
Bà vợ một ông cậu, phía bên vợ của
Gấu, hiện còn sống, ông chồng dân tập kết, về lại Miền Nam hoạt động
khi MTGP
thành lập hình như vậy, mỗi lần ngồi cho con cháu chụp hình, là phía
sau phải
có hình Bác Hồ.
Hồi Gấu bỏ chạy quê hương, qua Thái, tá túc tại một số nhà của
Việt Kiều, nhà nào cũng thờ Bác Hồ.
Họ cho biết, không thờ Bác Hồ
là làm ăn lụn bại.
Thành thử, Gấu thực sự tin
rằng, thần số đề, là phải một vị Đại Ác Thần, như Hitler, Stalin. Kẹt
quá, Bác Hồ.
Nếu không, tại sao mấy ông bà
già, khi nạt con nít, là phải lôi tên Quỉ dữ?
NMG vs Lưu
Vong
Chẳng hạn nhiều người
vẫn nghĩ
nhân vật Tường trong Mùa Biển Động là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Quả tình
tôi có lấy
một vài hoạt động của HPNT thời kỳ tranh đấu Phật giáo hoặc một vài chi
tiết khác
của cuộc đời anh cho vào truyện, nhưng nhân vật Tường của Mùa Biển Động
không liên
quan gì tới
nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện ở Huế.
NMG: Tha Hương.
Viết
như thế, thì thú thực, Gấu này không thể nào chịu nổi. Nó quá vô
lý!
Thứ nhất, cái mà NMG lấy ở đây,
chính là cái tên Tường. Chính vì thế mà HPNT đã từng công khai lên
tiếng, tại làm
sao anh lại lấy tên tôi cho nhân vật của anh?
Gấu hỏi thêm: Tại sao có lấy “một
vài hoạt động… và một vài chi tiết khác”, vậy mà cái tên sờ sờ ra đó,
lại quên
không nhắc tới?
Nói rõ hơn: NMG có thế lấy hết
tất cả những gì gì của HPNT, đưa vô tác phẩm, trừ cái tên!
Ông chỉ cần phịa ra một cái tên
khác, thí dụ Tượng, Tướng, Tưởng, Xường, Mường…. tha hồ mà lựa!
Chính vì cái sự vờ này, mà Gấu suy ra, có vấn đề ở đây. Nói rõ hơn, NMG
cố tình lấy cái tên của HPNT, để sinh chuyện, cũng như cố tình cho nhân
vật của mình đeo cái tai người, ở một chỗ khác.
Nên nhớ, với nhà văn, chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương.
Và cái tên chính là Thượng Đế của Thượng Đế!
Thí dụ, Meursault của Camus, Samsa của Kafka, Tâm của TTT.
Gấu
thực sự nghĩ, NMG nên lên
tiếng 'thêm', v/v cầm nhầm cái tên này, không thì khi lên chuyến tầu
suốt, lại thêm
một nỗi buồn nữa!
*
Trong bài phỏng vấn Simenon,
tay phóng viên The Paris Review kể là:… On its walls are books of law
and
medicine, two fields in which he has made himself an expert; the
telephone directories
from many parts of the world to which he turns in naming his
characters; (1),
những cuốn niên giám điện thoại nhiều nơi trên thế giới để tìm tên cho
nhân vật!
Có thể,
me-xừ Simenon này cũng
sợ cầm nhầm tên của một người khác, hoặc lộn tên nhân vật, ở chương I
tên Tường,
chương II tên Tàng!
(1) Georges
Simenon The Art
of Fiction
Mr.
Simenon's study in his
rambling white house on the edge of Lakeville, Connecticut,
after lunch on a
January day of bright sun. The room reflects its owner: cheerful,
efficient,
hospitable, controlled. On its walls are books of law and medicine, two
fields
in which he has made himself an expert; the telephone directories from
many
parts of the world to which he turns in naming his characters; the map
of a
town where he has just set his forty-ninth Maigret novel; and the
calendar on
which he has Xed out in heavy crayon the days spent writing the
Maigret-one day
to a chapter-and the three days spent revising it, a labor which he has
generously interrupted for this interview.
In the adjoining office,
having seen that everything is arranged comfortably for her husband and
the
interviewer, Mme. Simenon returns her attention to the business affairs
of a
writer whose novels appear six a year and whose contracts for books,
adaptations, and translations are in more than twenty languages.
With great courtesy and in a
rich voice which gives to his statements nuances of meaning much beyond
the
ordinary range, Mr. Simenon continues a discussion begun in the dining
room.
-Carvel Collins, 1955
*
Đặt vấn đề như thế này: Nếu không có cái tên Tường, là toàn bộ tác phẩm
của NMG, nhất là những đoạn viết về Huế, vứt đi!
Chỉ một cái tên Tường bảo đảm cho cả một giai đoạn lịch sử, và cả một
cuốn trường thiên tiểu thuyết, sống nhờ scandale, chứ không phải vì tài
năng của người viết.
Viết như thế thì quá nặng, nhưng nó đúng là như thế, vì chính NMG cho
biết như thế, trong lá thư cuối truyện.
Giả dụ như cuốn truyện hay, NMG thực sự tin vào tài văn của ông, ông đã
không sử dụng những tiểu xảo như vậy. NQT
Như NMG
cho biết, cuốn truyện
lúc đầu chẳng ai thèm đọc, một năm sau đó mới bị tấn công, không phải
vì viết
hay viết dở, mà vì đụng chạm tới một số người, một số tầng lớp. giai
cấp...
trong xã hội Miền Nam,
trước 1975.
Như thế, thì đâu là giá trị
thực của cuốn truyện, nếu không có những xì căng đan?
Chúng ta cứ giả dụ, đó là một
tác phẩm văn chương thực sự, thì liệu không có những xì căng đan, có ai
đọc nó
không?
Riêng về sự so sánh với Bác
Sĩ Zhivago ở đây, xin cho phép Gấu vờ đi!
*
Chẳng lạ gì NMG quan tâm đến
việc xây dựng nhân vật. Với NMG, “căn bản hấp dẫn và lôi cuốn người
nghe người
đọc người xem những tác phẩm” là những nhân vật và “những nhân vật
huyễn tưởng
ấy cư xử y như người đời, y như những độc giả khán giả. Con người, đời
sống
trong tiểu thuyết cần thiết cho thể loại này hơn bất cứ thể loại nào
khác.”
(Dẫn từ “Thảo luận…”) Trong lúc có người mưu toan giết chết nhân vật
hay tìm
cách đẩy lùi nó đàng sau hậu trường, thì NMG vực dậy, thêm da thêm thịt
để cho
chúng tiếp tục sống. Sống mạnh.
NMG đã tạo ra một số lượng
nhân vật phong phú, đủ hạng đủ loại. Trí thức, bình dân, vua quan, dân
dã, phe
bên kia phe bên này, trẻ già trai gái, trong ngoài … NMG chăm chút các
nhân vật
của mình rất cẩn thận, từ lời ăn tiếng nói cho đến cử chỉ và hành động,
nhằm
làm cho chúng “cư xử y như những người đời”.
Trần Hữu Thục, Da Mầu
Còn gì “cư xử y như những
người đời”, bằng chính người đời?
Còn ai "sống mạnh"
hơn HPNT, vào thời kỳ đó?
Nhận định của THT về những
nhân vật của NMG, “thực như thực” khiến Gấu nghĩ tới cái xen, do D.M.
Thomas
kể, về Pasternak, một lần phôn cho em Lara, [có thực ở ngoài đời, lẽ
tất nhiên
tên khác], khóc ròng, em hoảng quá, hỏi, sao dzậy, Pasternak càng thêm
nức nở,
ông ta chết rồi, chết rồi; ai chết? Zhivago chết rồi!
So Gấu... có thực,
Pasternak... có thực, THT... có thực, NMG... có
thực, sao bằng Zhivago.. có giả, nhưng thực hơn
cả thực đó?
Gấu
nhớ, có lần nghe chính
NMG than, cứ mỗi lần, tôi tính để cho nhân vật của mình thở ra mùi suy
tư,
triết học… là cứ thấy ngượng miệng, ngượng cả cây viết.
Nếu như thế, có thể những nhân
vật thực của NMG, hằng hà sa số trong truyện của ông, đều thực, vì
không dám
suy tư, cũng nên!
Note: Những dòng viết của Gấu
này, về NMG, có thể rất căng, nhưng… thà vậy, bạn ta khi đi, thì cũng
còn có tí
kỷ niệm mang theo, viết như viết vào hư vô, thì… chán chết! NQT
Tiện đây, post đoạn mở ra tác
phẩm Đốt đuốc chơi đêm, The Perpetual
Orgy: Flaubert & Madame Bovary, cũng nói cái chuyện “giả mà
bảnh hơn
thực”.
Flaubert chẳng đã từng phát
điên lên, vì con điếm Bovary thì cứ sống hoài, còn ta thì chết như con
chó,
sao? (1)
AN UNREQUITED PASSION
Criticism would perhaps be
simplified if, before setting forth an opinion, one avowed one's
tastes; for
every work of art contains within itself a particular quality stemming
.from
the person of the artist, which, quite apart .from the execution,
charms us or
irritates us. Hence only those works which satisfy both our
temperaments and
our minds arouse our unqualified admiration. The failure to make this
fundamental
distinction is a great cause of injustice. -Preface to Dernières
chansons by Louis Bouilhet
"The death of Lucien de
Rubempré is the great drama of my life," Oscar Wilde is said to have
remarked about one of Balzac's characters. I have always regarded this
statement
as being literally true. A handful of fictional characters have marked
my life
more profoundly than a great number of the flesh-and-blood beings I
have known.
Although there is no denying that when literary characters and human
beings are
an immediate presence, a direct contact, the reality of the latter
prevails
over that of the former-nothing is as alive as the body that can be
seen and
touched-the difference disappears when both become part of the past, of
memory,
to the considerable advantage of the first over the second, whose
fading in our
minds is irremediable whereas the fictional character can be brought to
life
indefinitely, merely by opening the pages of the book and stopping at
the right
lines. In that heterogeneous, cosmopolitan circle, a gang of friendly
ghosts
whose members come and go, depending on the period of my life and my
mood
(today I might mention, offhand: D'Artagnan, David Copperfield, Jean
Valjean,
Prince Pierre Bezukhov, Fabrice del Dongo, the terrorists Cheng and the
Professor,
Lena Grove and the tall convict); none of them has been present as
persistently, and with none of them have I had as clearly passionate a
relationship, as Emma Bovary. That story may perhaps serve as a small
example
that will help to shed light on the much-discussed, enigmatic
relationships
between literature and life.
(1) Tại sao 'con điếm’ Bovary
cứ sống hoài, trong khi ta nằm đây, chết như một con chó ghẻ? (Flaubert
cried
out against the paradox whereby he lay dying like a dog whereas that
‘whore’ Emma
Bovary, his creature… continued alive.
G. Steiner, The Uncommon
Reader
Cái chuyện Zhivago chết, chưa
ghê bằng, cái chuyện tiếp theo đó, cũng do D.M. Thomas kể, trong một
tác phẩm
khác của ông. Zhivago, giả, chết, bắt hồn kẻ sống đi theo cùng với ông,
mới
kinh hồn bạt viá.
*
"Tôi trở nên khiếp đảm
bởi nghệ thuật", D. M. Dylan Thomas mở đầu "Hồi tưởng & Hoang
tưởng". Với ông, khả năng thấu thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó
xẩy
ra, ở một cậu bé, chính là "phép lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và
ông trở nên khiếp đảm, bởi nó.
"Nghệ thuật là những ngã
ba ngã tư tàn khốc, mang tính Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và cái
chết gặp
gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều, rằng nghệ thuật luôn
luôn là
suy tư về cái chết, từ đó sáng tạo ra sự sống. Điều ngược lại cũng hoàn
toàn
đúng.
Cách đây vài năm, tôi đi thăm Lydia,
người chị/em gái, của Pasternak. Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp
ẹp, tối thui. Chủ nhà, một
người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng, mang đôi giầy cụt lủn, lủng
lẳng bị
chìa khoá... Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà phê. Một cái hũ cà phê,
loại uống
liền, hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi không làm sao
liên hệ bà
với Boris, người sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà hỏi tôi có
muốn đi
xem mấy bức họa của ông thân sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng. Tôi
đi theo
đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên lầu. Bà mở cửa căn phòng. Một luồng
mầu sắc
và ánh sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng là một phòng tranh tuyệt
vời. Tôi
nhận ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những khung, giá
vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một
cuộc triển lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi theo,
suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên tài Leonid Pasternak. Có đến
vài phút
đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung một người đàn bà
đẹp, dáng
mơ mộng, đang chải tóc. Tôi yêu liền ngay nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún vai:
"Ôi dào, tôi đó
mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi mất
mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì đáng kể, ngoại
trừ thiên tài bất tử của người cha. Tôi có cảm giác những bức họa đã
hút sạch
bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu đời sống từ căn nhà của cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà đã
có bảo hiểm những bức họa?"
"Không, nếu bị đánh cắp,
cái gì có thể thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi coi
những bức hình gia đình, hầu hết là của Boris và con cháu của ông. Một
trong
những đứa cháu trai, Lyovya, đã chết trong những tình huống thật là kỳ
bí, đáng
sợ; bà bảo tôi. Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì
đứng tim,
ngay trên đường phố Moscow,
đúng chỗ Zhivago bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ đến
một điều, cái
chết của nhân vật giả tưởng Zhivago đã "ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài Pasternak đã biến đứa cháu thành một cái bóng, y hệt như cô
con gái Lydia
đã trở
thành cái bóng của nghệ thuật, của ông thân sinh.
Và Thomas kết luận, đâu có gì
là đáng ngạc nhiên, nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật ? "Không
phải
cuốn sách của tôi là một tên sát nhân, nhưng đâu đó, từ những trang
sách vang
lên, tiếng cười sảng khoái, của quỷ...".
Nguồn
Trong
The Sranger Shores, tập
tiểu luận, nhà văn nhớn, nhà phê bình nhớn, nhà văn Nobel, Coetzee đi
một đường
ai điếu hơi bị sớm nhà văn hiện còn sống, Josef Skvorecky: … Looking
back over his career, Skvorecky produces a humorously modest obituary:
“After
years of socialism… he was..”. [Nhìn lại sự nghiệp văn
chương....
]. Không
biết ông nhà văn này có
quê không, nhưng liền mới đây, cho ra lò một cuốn thật hách xì xằng, tờ
TLS, số
mới nhất đi một đường chào mừng: Josef Škvorecký's Ordinary
Lives A novel
that reveals the
horror inherent in life under totalitarianism, trong
đó để nhẹ nhà phê bình
nhớn, Nobel văn chương một câu: In
2002, in Stranger Shores,
J. M. Coetzee published a premature obituary on Škvorecký’s literary
career,
implying he was finished as a writer.
Đọc, Gấu bỗng nhớ, chính Gấu,
ngay khi NMG vừa xuất hiện, đã đi một đường bói mu rùa, tay này không
biết viết
truyện dài. Nay, về già, nhìn lại "nghiệp" của mình, Gấu băn khoăn, như
KD, tự hỏi,
không hiểu do đâu mà dám phán như thế, về một nhà văn sau này là
tác giả của hơn một trường thuyên tiểu thuyết, và câu vinh danh của Da
Mầu
trong số đặc biệt, ra lò như để cho kịp cái chuyện, có thể nhà văn của
chúng
ta, như Gấu này, chẳng còn ở lại bao lâu nữa với chúng ta nữa
[vậy mà Gấu đếch được hân hạnh đó]: Nguyễn Mộng Giác không còn là
một tên tuổi xa lạ với độc giả trong cũng như ngoài nước. "Không còn xa lạ", hẳn là để nói cái chuyện
NMG đã bệ tác phẩm về rồi.
Cái sự về của NMG cũng có quá nhiều vấn đề phi văn chương!
*
Chẳng hạn nhiều người
vẫn nghĩ
nhân vật Tường trong Mùa Biển Động là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Quả tình
tôi có lấy
một vài hoạt động của HPNT thời kỳ tranh đấu Phật giáo hoặc một vài chi
tiết khác
của cuộc đời anh cho vào truyện, nhưng nhân vật Tường của Mùa Biển Động
không liên
quan gì tới
nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện ở Huế.
NMG: Tha Hương.
Sự thực, NMG có
thể lấy hết cả cuộc đời của HPNT đưa vào tác phẩm của mình, cũng chẳng
ai có ý
kiến, vì có ai biết, đó là cuộc đời của HPNT, trừ những người biết rành
về ông
ta. Trong văn chương, đã có rất nhiều trường hợp như vậy, nhưng đâu có
ai nói gì,
ấy là vì, tác giả đã dùng một cái tên giả, khác hẳn tên thực ở ngoài
đời. Khi
NMG dùng ngay tên thực của HPNT, một cách nào đó, ông đã vi phạm trầm
trọng đạo
đức văn chương. Gấu chắc chắn một điều, nếu không lấy cái tên Tường,
ông mất đi
rất nhiều độc giả, thứ tò mò muốn viết về cuộc đời riêng của
HPNT.
Và khi sử dụng tên
Tường như vậy, ngay lập tức, những gì ông viết về nhân vật Tường,
độc giả kể
như là chính me-xừ HPNT, ở ngoài đời, đã làm những chuyện đó, trong có
cả cái chuyện
“làm thịt' một cô gái yêu thương anh ta, nếu Gấu nhớ không lầm!
*
Ông có điều gì
truyền cho đám nhóc tập tành viết?
Simenon: Viết được coi như là một nghề, a profession, và tôi không
nghĩ, nó là
một nghề. Tôi nghĩ, đừng cần là nhà văn; khi có thể làm một
điều gì đó,
thì nên làm [I think that everyone who does not need to be a
writer, who
thinks he can do something else, ought to do something else]. Viết
không phải
là một nghề nhưng là một thiên hướng của sự bất hạnh, writing is not a
profession but a vocation of unhappiness. Tôi không hề tin có một thằng
cha
nghệ sĩ nào mà lại hạnh phúc.
Tại sao?
Bởi vì, thứ nhất, tôi nghĩ, nếu một người đàn ông có
cái sự cần thiết, bức
xức, để là một nghệ sĩ, if a man has the urge to be an artist, ấy là
bởi vì hắn
ta cần tìm chính hắn ta, it is because he needs to find himself. Mọi
nhà văn cố
tìm hắn ta qua những nhân vật của hắn, qua tất cả những gì hắn viết ra.
Hắn ta viết cho hắn ta?
*
Áp dụng những câu trên vào trường hợp NMG, [if a man has the urge to be
an artist, it is because he needs to find
himself... ],chúng
ta tự hỏi, tại làm sao NMG lại cần những nhân vật như Tường, như Nguyễn
Huệ, thí dụ?
“La Peau”de Malaparte
Thua ai, thua anh bộ
đội Cụ
Hồ, thì còn vinh dự nào bằng!
Tuy
nhiên, mọi thứ, hễ anh sờ vô, là trở thành
hư ruỗng.
Anh
vừa mới cười với một cô
gái trong trắng, xong, là cô ta biến thành điếm!
Một
khi mọi lý tưởng chỉ là
cứt đái, thì lá cờ độc nhất, cho một con người, là làn da của chính anh
ta.
100 năm
ngày sinh
của Simone Weil
Simone Weil
(1909-1943)
Martin
Steffens
*
Longue
discussion, hier soir, avec un poète hongrois (Pildusky) sur Simone
Weil, qu'il
considère comme une sainte. Je lui dis que je l’admire également mais
qu'elle
n'était pas une sainte, qu'elle avait en elle trop de cette passion et
intolérance
qu'elle détestait dans l'Ancien Testament dont elle est sortie et
auquel elle
ressemble malgré le mépris où elle le tenait. C'est un Ezéchiel ou un
Isaïe
féminin. Sans la foi, et les réserves que celle-ci implique et impose,
elle
aurait été d'une ambition effrénée. Ce qui ressort chez elle, c'est la
volonté
de faire accepter à tout prix son point de vue, en brusquant, en
violentant
même l'interlocuteur. J'ai dit encore au poète magyar qu'elle avait en
elle
autant d'énergie, de volonté et d'acharnement qu'un Hitler ...
Là-dessus, mon
poète ouvrit de grands yeux et me regarda intensément, comme s'il
venait
d'avoir une illumination, A mon étonnement, il me dit: “Vous avez
raison ... ».
Ces deux Juives
extraordinaires: Édith Stein et Simone Weil. J'aime leur soif,
et leur
dureté envers elles-mêmes.
Ce qui manque à Simone Weil,
c'est l'humour. Mais si elle en eût été pourvue,
elle n'aurait pas fait de tels progrès dans la vie spirituelle. Car
l'humour
fait manquer l'expérience de l'absolu. Mystique et humour ne vont pas
ensemble.
Cioran
Tranh luận dài,
chiều qua, với một thi sĩ Hung, về Simone Weil, mà ông ta coi là một vì
thánh.
Tôi nói, tôi cũng nể trọng bà, nhưng bà không phải là một vì thánh, bà
có ở
trong bà quá nhiều đam mê, và sự thái quá, mà bà ghét bỏ ở trong Cựu
Ước, mà bà
từ đó ra, mà bà giống nó, mặc dù khinh nó. Đây là một Ezéchiel hay
Isaïe, nữ.
Không có niềm tin [tôn giáo], và những gìn giữ mà nó hàm ngụ và đặt để,
thì bà
sẽ trở thành một niềm đam mê vô chừng, không sao kìm giữ. Từ bà toát ra
một ý
chí, muốn bắt buộc người nghe chấp nhận với bất cứ giá nào, quan điểm
của bà, dù
có phải đè bẹp, nếu cần bằng bạo lực. Tôi còn nói với nhà thơ, bà có
trong bà, nghị
lực, ý chí, sự hăm hở, chẳng thua gì và có thể còn hơn cả Hitler…. Nhà
thơ mở
to mắt, nhìn tôi chăm chú, như vừa ngộ ra một điều gì đó, và trước sự
kinh ngạc của tôi, ông ta nói: “Ông có lý”.
Hai phụ nữ phi thường
Do Thái này, Édith
Stein và Simone Weil, tôi yêu sự khát khao, và sự cứng rắn của họ
đối với chính họ.
Điều
thiếu ở Simone Weil, là
hài hước. Nhưng nếu bà có nó, thì bà không thể có được những
thành tựu khủng khiếp như thế ở trong đời sống tinh thần. Bởi vì hài
hước
thui
chột kinh nghiệm về tuyệt đối. Bí nhiệm và hài hước không đi
chung với
nhau.
*
V/v Những nhận định của Cioran
về Weil, để ‘rộng đường dư luận’, nay post thêm.
EMMANUEL LÉVINAS
L'intelligence de Simone Weil
dont ne témoignent pas seulement ses écrits, tous posthumes, n'avait
d'égale
que sa grandeur d'âme. Elle a vécu comme une sainte et de toutes les
souffrances du monde. Elle est morte. Devant les trois abimes qui nous
séparent
d'elle - et dont un seul est franchissable - comment parler d'elle, et
surtout,
comment parler contre elle?
“Des hommes ... peuvent se
croire et se dire athées bien que l’amour surnaturel habite dans leurs
âmes.
Ceux-là sont certainement sauvés.» Cette affirmation est nôtre. Elle
est
certainement dans la Bible. Mais Simone Weil hait la Bible. Nous
appelons Bible
ce que les chrétiens désignent par Ancien Testament. La passion
antibiblique de
Simone Weil a pu blesser et troubler des israélites. A eux, il faut
parler.
On est certes infiniment plus
ridicule à porter secours à la Bible qu'à discuter avec une morte
fût-elle
sainte et géniale. Mais le contact du judaïsme occidental avec les
Ecritures
est devenu depuis un siècle si incertain - je veux dire si étranger à
l'esprit
talmudique - qu'il se défait sans résistance sous les coups d'une
argumentation
pour peu qu'elle soit nourrie à d'autres sources qu'aux «cours
d'instruction
religieuse “.
On a reproché à Simone Weil
d'avoir ignoré le judaïsme. Et, ma foi, elle l'a ignoré royalement.
Mais on se
trompe beaucoup en pensant que la culture courante dans ce domaine
l'aurait
instruite. Elle avait l'exigence d'une pensée et on lui aurait offert
ces
méditations privées et familiales dont, d'une manière incompréhensible,
nous
nous contentons pour notre vie religieuse, alors que, pour notre vie
intellectuelle, il nous faut un Kant ou un Newton. Rencontrer un vrai maitre du
judaïsme
est devenu question de chance. Chance qui dépend beaucoup de celui qui
la
cherche. Elle est faite de discernement. La plupart du temps on la
laisse
passer. C'est une différence de potentiel intellectuel entre Simone
Weil et une
science du judaïsme devenu “oubli de science”, tout entière
transsformée en
homilétique ou en philologie, qui constitue la tragédie de ceux que
Simone Weil
troubla.
Si l'on veut sans présomption
ouvrir un débat il faut donc renoncer à une bataille de théoloogie et
de
textes. Il faut se placer sur le terrain de la logique que nous avons
en
partage avec nos contemporains non juifs, partir des études que nous
avons
faites comme eux.
Il y a
dans la doctrine de
Simone Weil deux thèses troublantes. Elle impose une lecture de la
Bible telle
que le Bien y soit toujours d'origine étrangère au judaïsme et le Mal
spécifiquement juif. Et elle se fait du Bien une idée absolument pure,
excluant
tout mélange, toute violence. Parce que la deuxième thèse apparait
comme
évidente à l'intuition - sinon à la pensée - de l'Européen de nos
jours, la première
thèse peut désemparer. Antijudaïsme du type gnostique, concernant
davantage les
Hébreux que le judaïsme post-exilique, lequel heureusement aurait subi
les
influences bienfaisantes des Chaldéens, des Égyptiens, des druides
peut-être,
et de tous ces païens si authentiquement monothéistes. Rien de commun
avec
Hitler. Quel réconfort!
Qu'il y ait dans cette cécité
foncière du judaïsme biblique à l'égard de la Révélation, un privilège
surnaturel et une élection à rebours, aggravée d'une vocation de
plagiaire et
de faussaire, cela rendrait tout de même bien compromettante la
position de la
Bonté divine, pensée comme idée simple. Simone Weil s'explique ainsi
que la
Passion se soit déroulée en Palestine:
c'est là qu'on en avait le plus grand besoin. On connait la suite.
Emmanuel Lévinas, “Simone
Weil contre la Bible”, Évidences, n 24, 1952, repris dans Difficile
Liberté.
Essais sur le judaïsme, Albin
Michel/, 1983.
Life vs
Death
Kundera, trong Bức Màn, cho
rằng, muốn hiểu là phải so sánh . Và do muốn hiểu tiểu thuyết gia, ông
so sánh
với nhà thơ. Không phải bất cứ nhà thơ, mà nhà thơ trữ tình.
“Nội dung thơ trữ
tình, theo
Hegel, là nhà thơ, chính anh ta/chị ả. Anh ta nỉ non về mình, để làm
bật ra ở
những người nghe, những tình cảm, những trạng thái tâm hồn như anh ta
cảm thấy. Và ngay cả khi nói về những đề tài ‘khách quan’, ở
bên ngoài
cuộc đời anh ta, thì nhà thơ trữ tình cũng vội vàng thoát thân để làm
một
cái chân
dung về mình.
Âm nhạc và thơ có cái
lợi hơn
là hội họa, là nhờ cái chất trữ tình này, theo Hegel. Âm nhạc còn ghê
hơn thơ,
nó tới được những vùng sâu, nơi lời nói không thể tới được. Và
từ âm
nhạc, chúng ta suy ra, có một thứ nghệ thuật còn trữ tình hơn cả thơ
trữ tình.
Nói rõ hơn, chúng ta có thể suy ra, ý niệm trữ tình không chỉ hạn hẹp
như là
một ngành của văn học [thơ trữ tình] mà nó còn chỉ ra một cách hiện hữu
ở đời,
elle désigne une certaine facon d’être, và nhìn như thế, thơ trữ tình
chỉ là
một cách nhập thân bảnh nhất, hách nhất, của một con người choáng váng
đến phát
rồ, bởi tâm hồn của chính anh ta, và bởi cái ham muốn được nghe nó hát
lên.
Với tôi, [Kundera],
đã từ
lâu, tuổi trẻ đúng là tuổi trữ tình, l’age lyrique, tức tuổi cá nhân
chỉ
xoáy vào mình, chẳng thể nào có thể nhìn, hiểu, và phán đoán một cách
sáng suốt
thế giới chung quanh. Và ông kết luận, trưởng thành có nghĩa là vượt
qua được tuổi
trữ tình!" Tiểu thuyết gia, là người sinh ra từ đống điên tàn của thế
giới trữ tình, theo Kundera. [le romancier nait sur les ruines de son
monde lyrique].
Có vẻ như thơ Mít, cả
ở những
nhà thơ sắp xuống lỗ, như BMQ, TT... đều chưa thoát ra được cái
thuở vãi lệ, và, vãi
máu, của người khác, trong có bạn bè, người thân của họ.
Sao
bac ghet talawas...?
The Lost Domain
Cuộc vạn lý trường chinh của Kadaré
Quê hương
tưởng tượng
Đỉnh
cao chói lọi
|
|