|
Love, styes and stools
The
first volume of Samuel
Beckett's letters is a treasure trove, says Nicholas Lezard
Một mỏ vàng, thư gửi bạn ta,
của Beckett
"One does one's best to
prefer Spring, in vain." [tạm dịch: Cố cách mấy thì cũng vô ích: Thích
Mùa Xuân]
One recalls the story about
his comment, made many years later, to a friend who was with him
watching
cricket on a sunny day and who had just said, perhaps forgetting to
whom he was
talking, that it was the kind of day that made you glad to be alive; "I
wouldn't go as far as that" was the (apocryphal) reply. [B. kể về lần
ngồi với bạn coi chơi cricket, vào một ngày nắng đẹp, và ông bạn gật
gù, đời ơi là đời, đẹp ơi là đẹp, sống ơi là sống: Tôi chằng hề muốn
quá cỡ thợ mộc tới mức đó!]
Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường
100 năm ngày sinh
của Simone Weil
"Don't
expect
friendship. Friendship is a miracle."
Simone
Weil
Đừng
trông mong tình bạn. Tình
bạn là một phép lạ.
Ui
chao đọc một cái là lại thấy
nhớ ơi là nhớ mấy đấng bạn quí của Gấu!
Mỗi
ông là một phép lạ!
*
Chắc chắn một điều, Milosz
viết Cầm Tưởng từ những kinh nghiệm ông đã từng trải qua, kể luôn cả
cái kinh
nghiệm cay đắng của một nhà văn nhà thơ bị rứt ra khỏi tiếng nói mẹ đẻ.
Nhưng
đây mới là điều tuyệt vời: Cầm Tưởng đã được gợi hứng từ những tư tưởng
của một
vị thánh, một bậc nữ lưu số một của thế kỷ 20: Simone Weil.
Cầm
Tưởng
Cách
đây vài năm,
tôi trải qua rất nhiều buổi chiều tại căn phòng của gia đình bà, nhìn
ra những
khu vườn Luxembourg
Gardens,
tại cái bàn đầy
vết mực từ cây viết của bà, nói chuyện với bà mẹ, một người đàn bà
tuyệt vời, ở
vào tuổi tám mươi.
Albert Camus, cái ngày được Nobel văn chương, đã trốn đám phóng viên,
bằng cách
trú ẩn trong căn phòng này.
Milosz: Sự quan trọng của Simone Weil
Nhân tưởng niệm 100
năm ngày
sinh của Simone Weil, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Steiner về bà, Thứ
Sáu Xấu, Bad
Friday [March 2, 1992]. Trong cuốn
Steiner ở tờ Người Nữu Ước.
*
OUR
VEXED CENTURY
would be much thinner without the witness of Simone de Beauvoir,
without the
power of that prodigious woman to make her ardent life a critique of
gender, of
society, of literature and politics. And Hannah Arendt persists as a
pivotal figure
in political and social theory, and as one of the compelling voices out
of the
totalitarian dark. But neither woman was a philosopher in any strict
sense.
Here extreme precision is needed. Philosophic thought is that which
bears on
questions rather than answers; where answers arise, they turn out to be
new
questions. The honor of the craft is that of disinterestedness, of an
abstention from practical yield. The philosophic stance-notably in its
metaphysical reach and in where it touches (as it must, whether in
acquiescence
or denial) on the theological-is, in the rigorous sense of the word,
unworldly.
Characteristically, there lodges in the philosophic sensibility a
certain
indifference to, or even distaste for, the human body. By these harsh
lights,
there has been in the Western tradition only one woman philosopher of
rank:
Simone Weil.
Thế
kỷ phiền nhiễu của chúng ta sẽ nhạt
nhẽo đi nếu thiếu cái nhìn chứng nhân của Simone de Beauvoir, thiếu đi
sự dũng
mãnh của người đàn bà phi thường này, người đã dùng chính cuộc đời nóng
bỏng
của mình để phê phán giống đực giống cái, xã hội, văn chương và chính
trị. Nó
cũng nhạt hẳn đi nếu thiếu Hannah Arendt, kiên trì như một nhân vật trụ
cột của
một lý thuyết về chính trị và xã hội, một trong những tiếng nói bất
khuất, bật
ra từ đêm đen toàn trị. Nhưng không một ai trong hai bà này là triết
gia theo
đúng nghĩa nghiêm ngặt nhất của từ này. Cực kỳ chính xác là điều cần
thiết ở
đây. Tư
tưởng triết học đặt nặng vào câu hỏi hơn là câu trả lời và khi câu trả
lời dấy
lên thì hóa ra lại là một câu hỏi mới. Vinh danh “nhất nghệ tinh” của
“nghề triết”,
là ở cái bất vị lợi, điều vô cầu, ở cái không để nhuốm mình vào một
trường thực
tiễn. Dáng đứng triết học – đáng kể nhất là ở trong cái thế vươn tới,
và đụng vào,
cõi thần học, như nó bắt buộc phải như vậy, dù muốn dù không - là, vô
thường,
theo nghĩa chính xác của từ vô thường.
Chi ly, đặc nét mà nói, cảm tính
triết học cưu mang ở trong nó một sự dửng
dưng, và hơn cả thế, một sự ghê tởm thân xác con người, [cái túi thịt
thối tha
như nhà Phật nói]. Dưới ánh sáng tàn nhẫn khắc nghiệt như thế, ở truyền
thống Tây
Phương, chỉ có một triết gia duy nhất xứng đáng với tầm cỡ của nó, và
đó là Simone
Weil.
*
The price that Simone Weil
paid for her eminence came near to being wholly unbearable. She
consumed her
own health to the point of willed early death. She inhabited her body
as if it
were a condemned hovel. She declared a detestation of her own
rudimentary
femininity, and stridently suggested that philosophical and
mathematical
achievements of lasting force were the prerogative of men - that some
disorder or
weakness in the very grain of womanhood militated against the examined
life as
demanded by Socrates, by Descartes, or by Kant. (Simone Weil's brother,
Andre,
is among the masters of twentieth-century algebraic geometry.) At every
possible point and beyond, Simone Weil chose thought against life,
logic
against the pragmatic, 'the laser of analysis and enforced deduction
against
the fitful half-light, the compromise, and the muddle that allow the
rest of us
to carry on our existence. Like Pascal, like Kierkegaard, and like
Nietzsche,
but lacking the vanities of eloquence which attach even to these
purists, Weil
experienced her short life (1909-43) as a trial whose meaning - whose
sole
dignity - lay in defeat.
Cái
giá mà Simone Weil trả
cho địa vị cao trọng này gần như hoàn toàn không thể chịu đựng được. Bà
đốt sức
khỏe của mình để làm sao có được một cái chết sớm. Bà xem cơ thể của bà
như cái
mái che bỏ đi. Bà từng tuyên bố chán ngấy thân phận phụ nữ thấp kém của
chính
mình và đã kêu lên đến đinh tai nhức óc, là các thành tựu triết lý và
toán học
toàn là lãnh vực độc quyền của đàn ông (anh của bà, André Weil, là nhà
toán học
bậc thầy của thế kỷ 20), rằng có một loại mất thăng bằng và yếu kém
ngay chính
trong thớ thịt của phụ nữ mà các triết gia Socrate, Descartes và Kant
đã yêu
cầu dò tìm trong chính cuộc sống để chứng minh ngược lại. Ở một thời
điểm nào
cần lựa chọn, đôi khi bà còn lựa chọn quá: Simone Weil chọn tư tưởng để
chống lại
sự sống, chọn lô-gíc để chống lại thực tiễn, chọn phân tích nhạy bén,
áp dụng điều
suy luận để chống lại cái nửa chừng, cái thỏa hiệp và cái lẫn lộn,
những cái
cho phép tất cả chúng ta tiếp tục cuộc sống. Giống Pascal,
Kierkegaard, và Nietzsche
nhưng không có những huênh hoang hùng biện mà ngay các triết gia thuần
túy này
cũng vướng phải, Weil kinh nghiệm cuộc đời ngắn ngủi của mình
(1909-1943) như
một thử nghiệm, mà ý nghĩa của nó – mà trọn sự cao cả duy nhất của nó –
nằm
trong sự thất bại.
*
Her
attendant tastes in
literature and in theological tonality were concordant. It was in T. E.
Lawrence of Arabia
that she envisioned the truest type of modern heroism. And it was in
ascetic
and mendicant Catholicism, which indicted most brutally the alleged
materialism
and obdurateness of the Jew, that she felt at home. From Paul of Tarsus
to
today, the history of Jewish self-hatred is a long and perplexing one.
It is
quite possible to read both Christianity and Marxism as great Judaic
heresies
sprung from the opaque pathologies of a suicidal self-rejection. The
most
ingenious, though in some measure deranged, advocate of Jewish
inferiority and
racial leprosy in modern polemics, Otto Weininger, was a Jew. Whether
Simone
Weil's contribution to this garbage was a symptom of some even deeper
negation
of sexuality and of her own gender, whether it enacted elements of
deliberate
self-humiliation in the face of what she judged to be a botched life,
whether
it traced the road to a slow suicide, no psychopathology can adequately
explain. Such explanation would, moreover, and by Weil's own
imperatives of
philosophic integrity, be immaterial.
Sở thích văn chương và thần
học của bà thì phù hợp với nhau. Chính ở nơi T.E. Lawrence of Arabia
mà bà nhìn ra kiểu mẫu thực nhất của chủ nghĩa anh hùng hiện đại. Và
chính ở một
Ky Tô giáo khổ hạnh, khất thực – nó lên án một cách tàn bạo nhất chủ
nghĩa duy vật
và tính bướng bỉnh của người Do Thái – là lối sống bà
cảm nhận
khi còn ở trong gia đình. Từ
Thánh Phao Lồ cho đến ngày hôm nay, lịch sử hận
thù chính mình của người Do Thái là một
lịch sử dài và phức tạp. Hoàn toàn là chuyện có thể, nếu đọc cả hai Ky
tô và
Mác xít như là những dị giáo Do Thái lớn, thoát thai từ những bệnh lý
học mù mờ
của sự tự huỷ. Người mưu trí nhất, và, ở một chừng mức nào đó, loạn
trí, Otto
Weininger, vị luật sư chuyên về sự thấp kém của người Do Thái, và về sự
cùi hủi
truyền kiếp của sắc dân này, qua những cuộc bút chiến hiện đại, là
người Do
Thái. Hoặc là, sự đóng góp của Simone Weil vào đống rác rưởi này là triệu chứng cho
thấy ở tầng
sâu hơn của nó, là sự từ chối dục tính, hay sự phủ nhận giới tính của
riêng bà,
hoặc là, nó chỉ ra những yếu tố về sự tự làm nhục mình một cách ý thức,
có sự
cân nhắc ở trong đó, khi đứng trước điều mà bà đánh giá là một cuộc
sống chấp
vá, tạm bợ, hoặc là, nó vẽ ra con đường đi tới một cuộc tự tử chậm:
Không có
một phân tâm bệnh nào có thể giải thích rõ ràng, đầy đủ. Một giải thích
như thế, hơn
nữa, qua những mệnh lệnh của riêng Simone Weil về sự toàn vẹn triết
học, sẽ
chẳng là gì cả.
*
Why bother then? Simply
because Simone Weil has left us a fragmented but substantial corpus of
theological, philosophical, end political insights of rare pressure and
illumination. Response is so perplexing because an unsparing honesty
meshes the
inspired with the pathological. Who else save Kierkegaard would at the
moment
of France's
surrender to Hitler have found the sentence "This is a great day for
Indo-China," in which a hideous insensibility is perfectly balanced by
a
political and humane clairvoyance of genius? The fall of metropolitan France
was indeed glorious news for le subject peoples it had long lorded over
in its
far-flung colonies. For Weil, the
"crimes" of colonialism related immediately, in both
religious and political symmetry, to the degradation of the homeland.
Tại
sao phải khổ công như
vậy? Đơn giản chỉ vì Simone Weil đã để lại cho chúng ta một khối luợng,
tuy chỉ
là những mẩu đoạn, nhưng thật đáng kể, những phát giác về thần học,
triết học, và chính
trị; chúng thuộc loại hiếm quí, nếu nói về sức ép, và về sự đốn ngộ. Sự
đáp ứng [của
chúng ta trước di sản này] thì cũng thật là bối rối, ngỡ ngàng, bởi vì
đáp ứng
trung thực đến cỡ nào, thì cũng bị mắc bẫy ở giữa đốn ngộ và bệnh lý.
Bất cứ ai muốn cứu vớt Kierkegaard, đúng vào
lúc mà nước Pháp qui hàng Hitler, đều tìm thấy ngay câu sau đây của
Weil,
‘đây là một ngày hội lớn đối với xứ Đông Dương’; trong câu nói đó, có
một sự lạnh
lùng tàn nhẫn, đến sởn tóc gáy lên được, và phải như thế mới xứng đáng,
mới ngang tầm với
cái nhìn tiên tri về chính trị, và về tình người, của một thiên tài. Sự
gục ngã
của nước Đại Pháp quả là một cái tin chiến thắng đối với bao nhiêu con
người, tại
những xứ sở thuộc địa bao la bấy lâu sống dưới sự cai trị của nó.
Đối
với Simone Weil, những “tội
ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu, ảnh hưởng tới sự
băng hoại, mất chất, cả về mặt tôn giáo lẫn
chính trị
ở nơi quê nhà.
*
[TTT, nhà thơ chẳng
đã tiên đoán ra được, trước khi khăn gói quả mướp lên đường đi tù cải
tạo, miền Bắc sẽ bị chấn thương
nặng nề vì chiến thắng này. Câu nói của ông đúng vào những ngày 30
Tháng
Tư 1975, khi nhìn VC tiến vào Sài Gòn, thì cũng đâu có khác gì Weil,
khi nhìn những đoàn quân Nazi
tiến vào Paris: Her observation,
at the very moment of the
occupation of Paris
by German troops, that this was a great day for Indo-China (for all
people
under French colonial rule). G. Steiner: Sainte Simone - Simone
Weil]
Một
con thỏ ở Patagonie
Hồi
ký của Claude
Lanzmann
Sao
bac ghet talawas...?
Gấu thực sự quá tởm
mấy đấng
Yankee mũi tẹt thì đúng hơn. Khi diễn đàn này mới xuất hiện, Gấu là
người đầu
tiên viết, trong khi những người khác còn nghi ngại, ấy là vì Gấu nghĩ,
đây là
thời điểm để nối lại mối nối bị đứt với Đất Bắc của Gấu.
Liền
sau đó, là thất
vọng, nhưng
vẫn hy vọng, rồi hoàn toàn tuyệt vọng.
Một
khi đám Yankee mũi tẹt, khoan nói ở trong nước, nói được một lời ân hận
về cái chuyện ăn cướp Miền Nam,
thì may ra mới có sự thay đổi.
Chính
cái sự ăn cướp Miền Nam đã gây nên
tai họa khủng khiếp, và đẩy đất nước chìm đắm vào cơn băng hoại, không
biết đến
bao giờ mới thoát ra được.
Có
vẻ như sự kiện chúng chẳng
thể nói được điều này, còn là do mặc cảm dốt nát. Cả một diễn đàn như
thế,
trong mấy năm trời như thế, đâu có để lại một cái gì cho ra hồn, ngoài
mớ văn học
Miền Nam
được họ sưu tầm?
Cả
một đám làm cho Bi Bi Xèo
như thế, mà dịch “Bán Đảo” Ngục Tù? Khi có người chỉ cho thấy sự dốt
nát, thì cũng
không biết lên tiếng cám ơn? Chúng 'vô học' đến mức như thế thì làm sao
khá cho được?
Cái
sự băng hoại đạo đức, ở
đám chóp bu như đám này, mới đáng sợ, và vô phương cứu chữa.
Kính.
NQT
*
Cái sự băng hoại đạo đức rõ ràng
là do sự dối trá ngày nào mà ra, tìm nguồn cơn ở đâu nữa? Arendt đã
vạch rõ ra điều
này, trong “Từ dối trá đến bạo lực”. (1) Chỉ một khi dám nhìn thẳng vào
sự
thực, thì
mới có được bước khởi đầu, trong cái sự khôi phục lại niềm tin của dân
chúng, và
từ đó, mới bước tiếp được. Phải đem đến cho chủ nghĩa xã hội Mít một
cái bộ mặt
con người, thì lúc đó mới bắt đầu được.
[Chủ
nghĩa xã hội với bộ mặt
nguời, le ‘socialisme à visage humain’ là một thuật ngữ dùng để chỉ
những toan
tính huỷ diệt tính phi nhân mà chủ nghĩa xã hội mang tới cho nhân loại].
Que
justice soit faite, même si
le monde doit périr.
Phải
có công lý đã, cho dù thế
giới phải tiêu táng thòng!
Không
lẽ cứ để cái thế giới băng
hoại đó còn mãi?
(1) Du mensonge à la
violence [nguyên tác tiếng Anh: Crises of the republic, Guy Durand
dịch,
nhà xb Calmann-Lévy, 1972, tủ sách Agora]
*
It will not, I
believe, be
possible for European culture to regain its inward energies, its
self-respect,
so long as Christendom is not made
answerable to its own seminal role in the
preparation of the Shoah [the Holocaust]; so long as it does not hold
itself to
account for its cant and impotence when European history stood at
midnight.
G.
Steiner. The Passion
Spent. Introduction.
The Lost
Domain
Cuộc vạn lý trường chinh của Kadaré
Quê hương
tưởng tượng
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Cái câu
chuyện Simenon nhờ nữ
sư phụ Colette phán cho một câu, mà trở thành nhà văn, Gấu đọc, như một
giai thoại,
vào thời mới lớn, mới tập tành viết, và cứ gật gù mãi, ấy là vì,
Simenon học chỉ
một chiêu mà thành đạt ghê gớm như vậy, trong khi Gấu được ông anh,
thay mặt Trình
Giảo Kim trong Thuyết Đường truyền cho tới ba chiêu búa thần, chẳng lẽ
không nên
cơm cháo gì sao! Bây giờ, vớ được bài phỏng vấn, thì mới thủng chuyện.
Georges
Simenon.
Chỉ một
mẩu khuyên, a piece
of advice, từ một nhà văn mà thật quá có ích cho tôi. Đó là từ Colette.
Tôi đang
viết truyện ngắn cho tờ Matin, Buổi sáng, và Colette thì là nhà biên
tập văn học
vào lúc đó. Tôi nhớ là tôi đưa cho bà hai truyện ngắn, và bà quẳng lại,
và tôi
lại thử nữa, nữa, và cứ thế, cứ thế. Sau cùng, bà nói, Coi nè, nó quá
văn chương,
luôn luôn quá văn chương. [Look, it is too literary, always too
literary]. Vậy
là tôi theo lời khuyên của bà. Và đó là điều tôi làm khi viết, và là
công việc chính
của tôi, khi tôi viết lại, the main job when I rewrite.
Ông muốn nói gì với từ
‘too
literary’? Những gì ông cắt bỏ, một số từ này, từ nọ?
Tính
từ, trạng từ, bất cứ một từ có đó để tạo hiệu ứng, effect. Mọi câu có
đó chỉ như là câu.
Every sentence
which is there just for the sentence. Bạn biết không, bạn có một câu
đẹp, cắt!
Mỗi khi tôi thấy một câu như thế ở trong một trong những cuốn tiểu
thuyết của tôi,
là cắt.
Ông đọc lại theo kiểu đó?
Hầu hết
là như vậy.
Chứ không phải chuyện
coi
lại, chỉnh lại tình tiết [revising the plot pattern]?
Ô,
chẳng bao giờ tôi làm chuyện
đó. Đôi khi tôi thay đổi tên nhân vật…
Ông
phóng viên cho biết,
trong phòng ông, có đủ thứ niên giám điện thoại, chỉ để ông tìm tên cho
nhân vật
của ông!
*
Colette ban cho Simenon một lời
khuyên, nhưng thầy của Simenon là Gogol, như trong bài phỏng vấn cho
biết.
Ông có điều gì truyền cho
đám
nhóc tập tành viết?
Simenon: Viết được coi như là
một nghề, a profession, và tôi không nghĩ, nó là một nghề. Tôi nghĩ,
đừng cần là nhà văn; khi có thể làm một điều gì
đó, thì nên làm [I think that everyone who does not need to
be a writer, who thinks he can do something else, ought to
do something else]. Viết không phải là một nghề nhưng là một thiên
hướng của sự
bất hạnh, writing is not a profession but a vocation of unhappiness.
Tôi không hề
tin có một thằng cha nghệ sĩ nào mà lại hạnh phúc.
Tuyệt! Đúng giọng Gogol. Mà còn
hơn thế nữa: Giọng Kafka!
*
Tại sao?
Bởi vì, thứ nhất, tôi nghĩ, nếu
một người đàn ông có cái sự cần thiết, bức xức, để là một nghệ sĩ, if a
man has
the urge to be an artist, ấy là bởi vì hắn ta cần tìm chính hắn ta, it
is because
he needs to find himself. Mọi nhà văn cố tìm hắn ta qua những nhân vật
của hắn,
qua tất cả những gì hắn viết ra.
Hắn ta viết cho hắn ta?
Đúng. Chắc chắn là như thế.
Nói như thế thì ông có ý
thức
được chuyện, có những độc giả của tiểu thuyết?
Tôi biết, có rất nhiều người đàn
ông, có cùng vấn đề như là tôi có, nhiều hoặc ít, cũng căng thẳng như
tôi có,
nhiều hoặc ít, và những người này sẽ hạnh phúc đọc
sách để tìm ra câu trả lời - nếu câu trả lời
có thể, biết đâu, tìm thấy được, ở trong sách.
Ngay cả khi tác giả không
thể
tìm thấy câu trả lời, thì liệu độc giả có hưởng được tí xái, trong khi
đọc, và
cảm thấy, chính tác giả cũng đang sờ soạng, mò mẫm, tìm tí xái?
Đúng y chang! Hẳn nhiên là như
thế! Tôi không nhớ đã từng nói cho ông hay...
Dọn
"Tôi
sinh ra đời dưới
một ngôi sao xấu", như lời Xuân Tóc Đỏ, nhân vật chính trong tiểu
thuyết
Số đỏ, Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20/10/1912 tại Hà nội, trong một gia
đình
nghèo. Cha là Vũ Văn Lân, làm thợ điện, mất khi Phụng mới được 7 tháng.
Mẹ là
Phạm Thị Khách, goá chồng mới 24 tuổi, ở vậy nuôi con và mẹ chồng.
Thuỵ Khuê RFI
Câu
này, hình như trong Giông
Tố, không phải Số Đỏ, nếu như trí nhớ về những năm còn đi học của Gấu
không sai
lầm. Câu nói của một đứa con trai bị bố mẹ bỏ, sống nhờ viện mồ côi?
Của Long, đứa
con trai của Nghị Hách, nhưng ông ta không hề biết, sau lấy lầm đúng
đứa em gái
của mình? Trong khi người yêu của Long, là Thị Mịch bị Nghị Hách hãm
hiếp?
Số Đỏ là câu chuyện Xuân Tóc Đỏ,
một đời hạnh phúc, làm sao sinh dưới một ngôi sao xấu được? Chắc có gì
lầm lẫn ở đây.
Sách nhiễu
thị giác
Đọc bài của “bạn” (1), tôi bỗng
nhớ tới một
nhân vật trong Mặt Tròi Vẫn Mọc, của Hemingway, anh chàng nhà văn-võ sĩ
tôi quên
không còn nhớ tên, hơi một chút là lôi quả đấm ra nện người khác. Anh
này mê
người đẹp Lady Ashley, người đẹp lại mê anh chàng đấu bò. Anh nhà văn
võ sĩ bèn
đi thọi anh chàng đấu bò. Anh chàng matador mỗi lần bị đấm, té xuống,
lại đứng
dậy, giơ mặt ra cho anh võ sĩ quại tiếp, cứ thế hàng chục lần. Sau cùng
anh võ
sĩ năn nỉ, thôi tôi xin thua, không dám thọi nữa. Tới lúc đó, anh đấu
bò mới
phều phào ra lệnh: Tối nay, lập tức rời bỏ thành phố. Nếu sáng mai còn
thấy, là
thịt!
Lá thư của bạn theo tôi, tương
tự nhận xét
của một nhân vật trong Mặt Trời Vẫn Mọc [Đây là câu chuyện cuộc tình
giữa một anh
mất chim và một người đàn bà tràn trề nhựa sống, ở vào một thời đại mà
Hemingway
gọi là “lost generation”, thời đại bỏ đi], về anh chàng nhà văn-võ sĩ:
“Từ bây
giờ trở đi, hắn ta hết còn dám đem quả đấm ra dọa ai nữa rồi!”
Bài viết còn làm tôi nhớ tới
bài viết của
nhà văn Peru,
Mario Vargas Llosa, “Của quí hay là Cuộc đời: Vụ Bobbitt” [The Penis or
Life:
The Bobbitt affair] (2)
Ông nhà văn đã từng tranh cử
tổng thống nhưng
thất bại này nhắc tới luận điểm của Uva de Aragón Clavijo, tác giả cuốn
“Cá sấu
trước gương” [bản tiếng Anh, The Alligator in Front of the Mirror, nhà
xb
Ediciones Universal, Miami, Florida, 1993], theo đó, bạo động gây đổ
máu tràn
lan trong lịch sử Nam Mỹ, trong đó có Cuba, là một biểu hiện và sản
phẩm của
văn hóa “bạ đâu, bất cứ chỗ nào cũng trưng của quí” [machismo: niềm
kiêu hãnh
quá đáng, hoặc hung hăng vì mình là đàn ông] vốn ăn sâu, ăn suốt vào
lục địa
này từ đời thuở nào.
“Chủ nghĩa trọng binh, những tà
ma ác quỉ gây
họa dịch ở Mỹ Châu chúng ta”, nữ tác giả Uva de Aragón Clavijo khẳng
định, “có
những nguồn gốc của chúng ở trong sự thờ phụng của quí” [chữ của bà,
the cult
of virility].
Trong một buổi ra mắt cuốn sách
trên, có Llosa
tham dự, tay MC bữa đó đã đưa ra một đề nghị “hóm hỉnh” là, nếu theo
như quan
điểm của nữ tác giả, thì có lẽ, văn hóa tương lai của Mỹ Châu La Tinh
nên “thiến”
đi, như vậy tốt cho nó.
Người viết không hiểu đây có
phải là ẩn dụ
trong những tác phẩm, thí dụ như cuốn Marie Sến của
Phạm Thị Hoài theo nghĩa, những cô Marie Sến của chúng ta thèm khát một
của quí
đã mất trong cuộc chiến, missing in action, và thanh niên Việt Nam sau
đó đều là
đồ bỏ đi. Cụm từ mà Hemingway dùng làm đề từ, của Gertrude Stein, như
ông cho
biết, "Lũ chúng ta là một thời đại bỏ đi", thực sự muốn nói tới
những anh chàng không còn của quí nữa?
Thú vị hơn nữa là, tay MC sau
đó kể lại cho
Llosa nghe, sau khi ông đưa đề nghị “thiến”, lập tức một cơn rùng mình
chạy suốt
lớp thính giả phái nam, và người nào người nấy theo phản xạ, lập tức
khép hai
đầu gối lại!
Nói đến việc hay khoe của quí,
mấy ông cụ bà
cụ ta ngày xưa sành điệu hơn nhiều: khoe thì có khoe nhưng khoe thật
khéo. Thí
dụ như ở miền bắc, mấy ông bà có con gái quí, thương con, sợ con sau
này lấy
phải thằng chồng “chẳng ra gì”, nhân những ngày đông lạnh giá, đề nghị
anh chàng
rể tương lai đóng khố, xuống ao nơm cá. Quí hay không quí, cương hay
không
cương, là biết liền!
Cũng trong bài viết, Llosa đề
nghị một từ,
cho cái việc văng của quí tùm lum tà la trên khắp trang giấy, hay trên
không gian
ảo, thí dụ như trên talawas, là “sách nhiễu thị giác” [visual
harassment].
Ông
dùng từ này, để chỉ tình trạng của ông, trong giờ giảng bài, mắt cứ
phải nhìn
lên trần nhà, không dám đậu lại trên ngực nữ sinh viên!
[Nhà thơ TTT, qua QD, một học trò cũ của ông, trong bài tưởng
niệm thầy, có nick là Ông Ngưỡng Thiên. Nhân vật Kiệt trong Một
Chủ Nhật Khác, cũng được cô học trò Oanh ban cho nick này.]
NQT
Ghi
chú:
(1) Bạn, ở đây, là NT, một tác
giả hay đăng
bài trên talawas. Bài này viết đã lâu, không biết sao, bị lạc, mới tìm
lại được.
“Bài của bạn”, bây giờ không biết là bài nào, nhưng hình như là một
trong những
bài nói về của quí của đàn ông, và cái thói, hơi một chút là mang ra
khoe!
(2) Bài viết của LLosa in
trong Making
Waves, do John King biên tập và dịch thuật [nhà xb Penguin Books].
Note: Nhân đọc Lê Thị Thấm Vân, và những ý kiến dấy lên từ tác
phẩm của
bà, trên Da Mầu, cùng lúc, vớ được bài này, trên Tin Văn!
Đỉnh
cao chói lọi
V/v Lời dối trá
đỉnh cao thời đại
Phim The Holcroft Covenant, phỏng theo tiểu thuyết của Robert Ludium,
cha đẻ
điệp viên Bourne, là cũng về một lời dối trá tàn khốc. Phim bắt đầu
bằng cảnh
Bá Linh sắp sửa lọt vào tay Đồng Minh, và đám sĩ quan Nazi đánh canh
bạc chót,
nhắm vào đám con nít đã được tung đi khắp thế giới, nằm vùng, chờ khi
lớn lên,
sẽ tụ tập lại, dưới cờ Nazi, dưới sự lãnh đạo của một Tân Hitler, có
trong tay
một số tiền bạc khổng lồ, từ một account chờ sẵn ở Thụy Sĩ.
Đâu có khác gì đám con nít Miền Nam vượt Trường Sơn ra Bắc, chờ lớn lên
trở về
chiến đấu tiếp, đời này qua đời khác, 20 năm, 100 năm cũng đánh, bất kể
tổn thất
[lời Võ tướng quân].
Tay Trùm Nazi mastermind của chiến dịch này, có bà vợ do không chịu nổi
anh
chồng Nazi khùng, đã bỏ đi Mẽo cùng đứa con trai, và lấy một anh chồng
Mẽo. Đứa
con trai trở thành Mẽo chính cống, không hề biết bố ruột, cho tới khi
được tay
chủ ngân hàng Thụy Sĩ cho biết, về số tiền khổng lồ, và cái thư tuyệt
mệnh của
ông bố Nazi.
Ông bố viết thư cho con trai, trước khi bắn hai bộ hạ thân tín, và bắn
vô đầu
mình, tỏ ra rất đau lòng, vì đã lầm đường lạc lối, và hy vọng ông con
trai sẽ
thay bố tạ tội với nhân loại, dùng số tiền khổng lồ giúp đỡ những nạn
nhân Do
Thái, vv và vv. Ông con nói với mẹ. Bà mẹ ngạc nhiên quá, thằng bố mày
khùng
điên, cứt Nazi lên tới tận óc, sao lại có chuyện quái đản này. Ông con
nói, tỉ
tỉ bạc đâu phải chuyện đùa. Chỉ cần con đi Thụy Sĩ, ký tên cái rẹt, là
xong.
Ui chao, quả lừa này, chẳng khác gì lời dối trá vĩ đại của Bác, thắng
trận này,
ta sẽ đưa đám Ngụy đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ, ấy chết xin lỗi, Bác
nói, sẽ xây
cái nhà Mít to lớn đàng hoàng hơn trước!
Applebaum trong Gulag một lịch sử, cho rằng, cái vụ
đưa
tù cải tạo Liên Xô đi Siberie, không phải là ý tưởng do Stalin sáng tạo
ra, mà đã
có từ đởi nào đời nào, qua những triều đại Nga Hoàng. Gấu này thực sự
không hiểu,
và không dám đoán ẩu, ông VC nào trong Bắc Bộ Phủ nghĩ ra cú lừa 10
ngày cải tạo,
và quyết định đưa đám tù VNCH lên mạn Cực Bắc. Liệu cái giấc mơ ăn cướp
xong, là
tống tụi mày đi Siberie Bắc Việt Bắc, là cũng nằm trong tim trong hồn
bất cứ một
Yankee mũi tẹt?
|
|