|
6
/ 8
đi đâu cái thuở trăng rằm
đi về đụng fải cái ầm chơ vơ
***
nhớ ầu ơ ơ ầu nhớ
mắt đom đón nổ ngày xơ quanh mình
***
tiếng hát bay mãi bâng khuâng
đễ lòng gập gễnh lâng lâng trên kè
***
mộng mơ chỉ tổ cực thân
bàn tay năm ngón nhìn nhau mỉm cười
***
tình tang cái thuở chuồn chuồn
vui quanh ngõ khác buồn đi ngang về
***
bởi rằng chẳng fải thì là
ngón tay chỉ trỏ cái đầu đong đưa
***
giọng ai oán giọng ai cười
xàng xê diễn mãi tuồng đời cải lương
***
chàng ràng con nhện giăng tơ
cà tang cà rịch con thơ con mèo
***
nhớ em tự lúc trăng xiên
nhớ luôn ất giáp nhớ miền hăng hăng
***
qua cầu gió thổỉ xe lay
về nhà tự hỏi áo bay khi nào?
***
nhâm nhi cái bóng cuối hôm
làng xàng cái dáng càng tôm cuối ngày
***
nhớ ngày xưa, nhớ giật mình
hoá ra một kiếp chỉ chừng ấy sao?
Đài Sử
tôi xa người, xa một
mùi
hương
bãi
khuya, hồn ốc lạc thiên
đường (1)
nhớ
ai buồn ngất trên vai áo
mưa
ở đâu về ? - như vết
thương. DTL
To
U, M. Tks. NQT
(1)
Câu thơ thực sự như vầy:
Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường, cảnh Gấu hai, ba giờ sáng ngủ không
được,
bò lên net, đọc mail mới nhất của M.
Tks
again. NQT
Thư gửi bạn ta
Beckett
Sunday, March 15, 2009
Posted on March
6, 2009 by hoanghaithuy
Trịnh Công Sơn. Bùi Xuân Phái vẽ.
Đây
là bức tranh Trịnh Công Sơn nhờ họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ cho, Trịnh Công
Sơn hứa khi trở về Sài Gòn sẽ gửi ra tặng BX Phái một hộp sơn. BX Phái
,vẽ tặng nhạc sĩ họ Trịnh một bức chân dung sơn dầu. Sau đó, một thời
gian khá lâu, họa sĩ chờ đợi mãi vẫn chưa nhận được hộp sơn mà nhạc sĩ
đã hứa, thay vì hộp sơn họa sĩ lại nhận được một thư của Trịnh Công
Sơn, trong thư có đoạn viết: “Ngày nào Sơn cũng nhớ anh”. Họa sĩ Bùi
Xuân Phái, vốn có tiếng là một người hóm hỉnh, trong thư phúc đáp ông
nhắc khéo:
“Ngày nào tôi cũng nhớ Sơn (oil)”.
Rừng Phong, Ngày 5 Tháng Hai Năm Kỷ Sửu — Ngày 1 Tháng
Ba Tây 2009
Blog Hoàng Hải Thuỷ
Trân
trọng giới
thiệu tác phẩm mới nhất của Thảo Trường
Bià Nguyễn Đồng & Nguyễn Thị Hợp
Rừng Tràm
Nóng hổi, 2009: Steiner ở Người Nữu Ước
Nhân tưởng niệm 100
năm ngày
sinh của Simone Weil, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Steiner về bà, Thứ
Sáu Xấu, Bad
Friday [March 2, 1992].
*
OUR VEXED CENTURY would be
much thinner without the witness of Simone de Beauvoir, without the
power of
that prodigious woman to make her ardent life a critique of gender, of
society,
of literature and politics. And Hannah Arendt persists as a pivotal
figure in
political and social theory, and as one of the compelling voices out of
the
totalitarian dark. But neither woman was a philosopher in any strict
sense.
Here extreme precision is needed. Philosophic thought is that which
bears on
questions rather than answers; where answers arise, they turn out to be
new
questions. The honor of the craft is that of disinterestedness, of an
abstention from practical yield. The philosophic stance-notably in its
metaphysical reach and in where it touches (as it must, whether in
acquiescence
or denial) on the theological-is, in the rigorous sense of the word,
unworldly.
Characteristically, there lodges in the philosophic sensibility a
certain
indifference to, or even distaste for, the human body. By these harsh
lights, there
has been in the Western tradition only one woman philosopher of rank:
Simone
Weil.
Tuyệt!
Thế
kỷ bực bội của
chúng ta sẽ mỏng hơn nhiều, nếu thiếu sự chứng kiến của S. de Beauvoir,
thiếu
quyền uy của người đàn bà phi thường lấy cuộc đời nóng bỏng của mình
làm một cuộc
phê phán cái đực cái cái, cái xã hội, cái văn chương và cái chính trị.
Và
Hannah Arendt, nhân vật trụ cột của một lý thuyết về chính trị và xã
hội, một trong
những tiếng nói bất khuất bật ra bóng đen của chủ nghĩa toàn trị. Nhưng
không ai
trong cả hai phụ nữ này là triết gia, theo một cái nghĩa rất ư là
nghiêm ngặt của
từ này. Ở đây, cái sự chính xác được đẩy đến cực điểm, thì cần tới. Tư
tưởng triết
học đặt nặng vào hỏi, hơn là trả lời, và khi có được câu trả lời, thì
hóa ra là
câu hỏi mới....
*
Bài
viết về Graham Greene có cái
tít thật tuyệt, và thật đúng cho Greene: God’s Spies. Điệp viên của Chúa!
Câu mở ra bài viết mà chẳng thú
sao: Ngay từ khởi đầu, thì đã dơ dáy
rồi, cái thứ dịch vụ này! It has been from the start a dirty business.
Một
hồ sơ bí mật kể cuộc sống ở ghetto Warsaw.
Chế
độ Nazi đã thành công
trong việc huỷ diệt hàng triệu người Do Thái, nhưng không thành công
trong việc
huỷ diệt lịch sử của họ, và đây là câu chuyện do nhà sử học người Mỹ,
Samuel
Kassow, kể, từ một hồ sơ bí ẩn về ghetto Warsaw.
Người Kinh Tế 14-20 Tháng Ba, 2009
Một
con thỏ ở Patagonie
Hồi
ký của Claude
Lanzmann
Amos
Oz cho biết,
khi coi phim Shoah, une histoire orale de l’Holocauste, của đạo
diễn
Claude Lanzmann, một trong những xen rất ư là bình thường, chẳng có
tính điện
ảnh, nhưng bám chặt vào ký ức ông. Đó là xen, kéo dài chừng 15 phút,
chiếu cảnh
Hilberg - ngồi trong căn phòng xinh xắn, tại nhà của ông, ở Vermont,
[người ta
nhìn thấy, qua cửa sổ, bên ngoài cây cối, tuyết, bên trong, những cuốn
sách,
ngọn đèn bàn] - giải thích cho nhà đạo diễn Claude Lanzmann, nội dung
một tài
liệu đánh máy, tiếng Đức, chừng 15 dòng, gồm những dẫy số.
Một “ordre de route”, (lệnh chuyển vận) của chuyến xe lửa số 587, do
Gestapo Berlin,
chuyển cho Sở Hoả Xa Reich, “lưu hành nội bộ”.
Một bí mật nằm ở nấc thang chót, của bộ máy giết người.
Hilberg giải thích: “Chìa khóa tâm lý của toàn thể chiến dịch, là:
không bao
giờ được sử dụng những từ có ý nghĩa hoàn toàn rõ rệt. Tối giản tối đa,
chừng
nào còn có thể tối giản, ý nghĩa của chiến dịch sát nhân, đưa người tới
Lò
Thiêu. Ngay cả dưới mắt của chính những tên sát nhân.”
Thú thực, trước đây, nói gì thì nói, Gấu vẫn không hiểu tới tận nguồn
cơn, tại
làm sao mà lại gọi "đi tù" là "đi học tập cải tạo", tại sao
lại dùng một mỹ từ như thế, cho một từ bình thường như thế, như thế,
như thế...
cho đến khi đọc Oz.
*
Shoah, chuyện lời, une histoire orale, của Lò Thiêu, là
cuốn phim mãnh
liệt nhất, mà tôi [Oz] đã từng coi. Đây đúng là một sáng tạo chuyển hóa
[transformer] khán giả. Một khi coi nó, là bạn, khác đi.
Sau khi té xỉu ở vị trí nhân chứng trong vụ án Eichmann, tác giả
Ka-Tzenik nói, Auschwitz là một "hành
tinh tro"
["une planète de cendres"].
[Vào dịp tưởng niệm 50 năm Lò Thiêu, những người tới đây nhận xét, nước
hồ ao
quanh Lò Thiêu vẫn còn mầu xám, do tro người đổ xuống, thiên nhiên, sau
50 năm,
vẫn chưa thể nào quên, huống chi con người].
Theo ông, sự huỷ diệt dân Do Thái đã xẩy ra tại một hành tinh khác,
"hành
tinh tro", vì thế, những người không hiện diện, không chứng kiến, muôn
đời,
đời đời, không thể nào hiểu được.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, những nhà giáo sư, những nhân vật quan trọng
trong công
chúng cố nhét vào đầu chúng ta ý tưởng, rằng, một biến cố phi nhân, ma
quỉ,
siêu hình, đã xẩy ra, "không thể nói được", "không thể hiểu được".
Cứ như thể Lịch sử bỗng gẫy ra làm đôi, và được đem trồng lại,
transplanter,
tại một thế giới khác.
Chỉ nội cái từ Lò Thiêu không thôi, là đã nói lên cái tính "bên
ngoài-con
người", extra-humaine, của sự hủy diệt. Lò Thiêu là một vụ nổ bùng,
explosion, của những sức mạnh thiên nhiên, vượt ra ngoài trách nhiệm
của con
người, một thiên tai như động đất, lũ lụt.
Phim của Lamzmann khởi đi từ một quan điểm hoàn toàn ngược hẳn. Mặc dù
sự lựa
chọn từ hebreu, Shoah, ông đề nghị, có thể hiểu được sự
huỷ diệt
có tên là Lò Thiêu, ở bên trong lòng của lịch sử.
*
Simone de Beauvoir viết về phim Shoah
của Lanzmann.
Thật khó mà nói về phim này. Có điều gọi là huyền thuật ở trong đó, mà,
huyền thuật làm sao diễn tả?
LE
LIVRE DU MALHEUR ABSOLU
CHAQUE
CAMP a son style, sa
spécialité, ses mœurs. L'ignominie a beaucoup de couleurs. Les Jours de notre
mort, le roman de David Rousset (paru en 1947, réédité) peut se
lire comme une
typologie des néants: Buchenwald, certes, est atroce et pourtant, avec sa
forte
densité d'intellectuels, il dessine un gigantesque dédale au fond
duquel
clignotent encore quelques lueurs. Rien de tel à Auschwitz, la grande
manufacture où brûlent les juifs, ou bien à Birkenau, le camp de
l'opulence
parce que les cendres font des engrais et que ses magasins contiennent
6 300
kilos de cheveux de femmes mortes. Porta, lui, est installé près d'une
petite
ville tranquille, dans un paysage doux et frais. Le jour où David
Rousset y est
transféré, il aperçoit, sur la place de la ville, des tramways, des
petits
garçons et des petites filles qui vont à l'école avec leurs cartables.
On se demande comment des
hommes ont pu survivre à l'infamie. David Rousset suggère des réponses.
Les SS furent contraints de déléguer une part de leurs tâches aux
détenus. Les SS font
garder le bétail par le bétail lui-même. Le système a deux vertus: il
décharge
les SS de leurs besognes les plus viles et il accélère la décomposition
de la
société concentrationnaire en fabriquant, au sein même de celle-ci,
des
privilégiés et des esclaves. La horde concentrationnaire était par
vocation
une horde de la haine. Dans la fosse de Babel, tout conspire à la
guerre: les
Polonais détestent les juifs presque autant que les SS. Les Polonais et
les
Russes se méprisent. Les Français sont tenus pour des égoïstes, des
dégénérés
et, d'ailleurs, ils sont frileux comme tout.
Les SS disposent
d'un autre
instrument, plus redoutable: dans la foule concentrationnaire figurent,
d'une
part, les "droit commun" et, d'autre part les politiques. Une
complicité
gluante unit les SS aux "droit commmun ", qui partagent le même goût
du
meurtre. Aussi les camps dans lesquels les criminels, avec le soutien
des SS,
ont pris le pouvoir sont-ils des camps tragiques - Dora, Birkenau ou à
Mauthausen. Au contraire à Dachau, à
Sachsenhausen, à Neuengamme ou Buchenwald,
les
politiques ont le pouvoir. Et on admire que ces hommes, ces
révolutionnaires
(communistes ou marxistes) n'aient pas été abandonnés de l'espérance.
Au plus
noir du gouffre, ils n'avaient d'autre passion que de préparer la terre
à
venir.
Gilles
Lapouge (6 Janvier
1989)
Le
Monde. Dossiers &
Documents. Mai, 2005
“Shoah”, la mémoire de
l’horreur
PENDANT dix ans, l'écrivain
cinéaste a
recherché les
protagonistes - acteurs, victimes, témoins - du . génocide du peuple
juif. Une
longue quête que commente ici son amie Simone de Beauvoir.
Il
n'est pas facile de
parler
de Shoah. Il y a de la magie dans ce
film, et la magie ne peut pas s'expliquer. Nous avons lu, après la
guerre, des
quantités de témoignages sur les ghettos, sur les camps
d'extermination; nous
étions bouleversés. Mais, en voyant aujourd'hui l'extraordinaire film
de Claude
Lanzmann, nous nous apercevons que nous n'avons rien su. Malgré toutes
nos
connaissances, l'affreuse expérience restait à distance de nous. Pour
la
première fois, nous la vivons dans notre tête, notre cœur, notre chair.
Elle
devient la nôtre.
Ni
fiction ni documentaire,
Shoah réussit cette re-création du passé avec une étonnante ai économie
de
moyens: des lieux, des voix, des visages. Le grand art de Claude
Lanzmann est
de faire parler les lieux, de les ressusciter à travers les voix, et,
par-delà
les mots, d'exprimer l'indicible par des visages.
Les lieux. Un des
grands
soucis des nazis a été d'effacer toutes
les traces; mais ils n'ont pas pu abolir toutes les mémoires et, sous
les
camouflages - de jeunes forêts, l'herbe neuve -, Claude Lanzmann a su
retrouver
les horribles réalités. Dans cette prairie verdoyante, il y avait des
fosses en
forme d'entonnoir où des camions déchargeaient les juifs asphyxiés
pendant le
trajet. Dans cette rivière si jolie, on jetait les cendres des cadavres
calcinés. Voici les fermes paisibles d'où les paysans polonais
pouvaient
entendre et même voir ce qui se passait
dans les camps. Voici les villages aux belles maisons anciennes d'où
toute la
population juive a été déportée.
Claude
Lanzmann nous montre
les gares de Treblinka, d'Auschwitz, de Sobibor. Il foule de ses pieds
les «
rampes », aujourd'hui couvertes d'herbe, d'où des centaines de milliers
de
victimes étaient chassées vers la chambre à gaz. Pour moi, une des plus
déchirantes de ces images, c'est celle qui représente un entassement
de
valises, les unes modestes, d'autres plus luxueuses, toutes portant des
noms et
des adresses. Des mères y avaient soigneuseement rangé du lait en
poudre, du
talc, de la Blédine. D'autres, des vêtements, des vivres, des
médicaments. Et
nul n'a eu besoin de rien.
Les voix. Elles
racontent; et
pendant la plus grande partie du film, elles disent toutes la même
chose:
l'arrivée des trains, l'ouverture des wagons d'où s'écroulent des
cadavres, la
soif, l'ignorance trouée de peur, le déshabillage, la « désinfection »,
l'ouverture des chammbres à gaz. Mais pas un instant nous n'avons
l'impression
de redite.
D'abord
à cause de la
différence des voix. Il y a celle,
froide, objective - avec à peine au début quelques frémissements
d'émotionn de Franz Suchomel, le SS Unterscharfführer de Treblinka;
c'est lui
qui fait l'exposé le plus détaillé de l'extermination de chaque convoi.
Il y a
la voix un peu troublée de certains Poloonais: le conducteur de
locomotive que
les Allemands soutenaient à la vodka, mais qui suppportait mal les cris
des
enfants assoiffés; le chef de gare de Sobibor, inquiet du silence tombé
soudain
sur le camp
proche.
Mais, souvent, les voix des
paysans sont indifférentes ou même un peu goguenardes. Et puis il y a
des voix très
rares survivants juifs. Beaucoup supportent à peine de parler; leurs
voix se
brisent, ils fondent en larmes. La concordance de leurs récits ne lasse
jamais,
au contraire. On pense à la répétition voulue d'un thème musical ou
d'un leitmotiv.
Car c'est une composition musicale qu'évoque la subtile construction de
Shoah
avec ses moments où culmine l'horreur, ses lamentos, ses plages
neutres. Et
l'ensemble est rythmé par le fracas presque insoutenable des trains qui
roulent
vers les camps.
Les visages. Ils en
disent
souvent bien plus que des mots. Les paysans polonais affichent de la
compassion. Mais la plupart semblent indifférents, ironiques ou même
satisfaits. Les visages des juifs s'accordent avec leurs paroles. Les
plus
curieux sont les visages allemands. Celui de Franz Suchomel reste
impasssible,
sauf lorsqu'il chante une chanson à la gloire de Treblinka et que ses
yeux
s'allument. Mais chez les autres, l'expression gênée, chafouine, dément
leurs
protestations d'ignorannce, d'innocence.
Une
des grandes habiletés de
Claude Lanzmann a été en effet de nous raconter l'Holocauste du point
de vue
des victimes, mais ausssi de celui des « techniciens» qui l'ont rendu
possible
et qui refusent toute responsabilité. Un des plus caractéristiques,
c'est le
bureaucrate qui organisait les transports. Les trains spéciaux,
explique-t-il,
étaient mis à la disposition des groupes qui partaient en excursion ou
en
vacances et qui payaient demi-tarif. Un peu plus tard, l'historien
Hilberg nous
apprend que les juifs «transférés» étaient assimilés à des vacanciers
par
l'agence de voyages et que les juifs, sans le savoir, autofinançaient
leur
déportation, puisque la Gestapo la payait avec les biens qu'elle leur
avait
confisqués.
“Le dernier des juifs”. Un
autre exemple saisissant
du démenti opposé aux mots par un visage, c'est celui d'un des «
administrateurs » du ghetto de Varrsovie : il voulait aider le ghetto à
survivre, le préserver du typhus, affirme-t-il. Mais aux questions de
Claude
Lanzmann il répond en balbutiant, ses traits se décomposent, son regard
fuit.
Ainsi s'explique que le ghetto de Varsovie ne soit décrit qu'à la fin
du film,
quand nous connaissons déjà l'implacable destin des emmurés. La fin du
film
est, à mes yeux, admirable. Un des rares rescapés de la révolte se
retrouve
seul au milieu des ruines. Il dit qu'il connut alors une sorte de
sérénité : «Je suis le dernier des juifs et j'attends
les Allemands. » Et aussitôt nous voyons rouler un train qui
emporte une
nouvelle cargaison vers les camps.
Comme
tous les spectateurs,
je mêle le passé et le présent. J'ai dit que c'est dans cette
confusion que
réside le côté miraculeux de Shoah.
J'ajouterai que jamais je n'aurais imaginé une pareille alliance de
l'horreur
et de la beauté. Certes, l'une ne sert pas à masquer l'autre: au
contraire,
elle la met en lumière avec tant d'invention et de rigueur que nous
avons
conscience de contempler une grande œuvre. Un pur chef-d'œuvre.
SIMONE
DE BEAUVOIR (28 avril
1985)
Đọc
bài viết của Simone de Beauvoir, Gấu mới hiểu ra được, câu của
Adorno, sai!
Vẫn
có thơ, sau Lò Thiêu: J'ajouterai
que
jamais je n'aurais imaginé une pareille alliance de l'horreur
et de la beauté.
Un pur chef-d'œuvre.
100 năm
ngày sinh Simone Wei
Life vs Death
Cái sự so sánh
với một viên kim cương của ông làm nhớ ra là ông còn là một thi sĩ. Vậy
mà ông
chẳng thèm nói tới thơ…
Tạp
chí văn học
Le Magazine Littéraire
Ismail
Kadaré:
Về
chuyện này, có ý do của nó. Thơ, ngược hẳn với đám nhà văn VC lúc nào
cũng
ra rả, coi đó là ngọn cờ đầu của văn học, nó là sự tủi hổ của văn
chương. Cái
phần nhục nhã nhất, tủi hổ nhất, hay được phô ra nhất, khoe nhặng xị
nhất, hồ
hởi nhất, xã hội chủ nghĩa nhất, cộng sản nhất, ngu si nhất, đần độn
nhất. Tất
cả những nước CS khoe nhặng lên, chúng là những cây cột chống Trời của
Thơ, khi
nào thấy rêm mình là vịn thơ đứng dậy, in thơ loạn cào cào châu chấu…
nhưng
thôi, nói vậy đủ tởm, và tôi thật sự là quá tởm cái chuyện này. Đúng
như thế,
thơ là cái mang tội nhất trong các thể loại văn học của vùng cựu CS.
Cái thứ
hung hăng con bọ xít nhất, cái thứ thực chứng nhất của cái chế độ khốn
kiếp
nhất, nhất, nhất!
Kundera cũng phán
xêm xêm, cách mạng Nga cần cả hai: nhà thơ Maia và trùm mật vụ
Dzherzhinsky [xin xem bài "Mùa Thu, những di dân"]
Nhà tù VC không phải
nhà tù
VC, nó chỉ là nhà tù VC, khi trên tường dán đầy thơ, thơ Bác Hồ, thơ Tố
Hữu, thơ Phạm Tiến Duật, thơ Bùi Minh Quốc… và mọi tù nhân
nhẩy múa chung quanh những bài thơ đó!
Maia
sau tự tử. VC nghe nói,
cũng có một ông thi sĩ toan tự tử, nhưng không phải BMQ!
Gấu tự hỏi, có bao giờ đám thi sĩ VC này nhìn ra cái tội tầy trời của
chúng hay không?
[Ngu sao 'nhìn ra'?]
*
Ui chao, lại nhớ thời gian tại
nông trường Đỗ Hoà: Gấu đã từng nhẩy múa trước những bài thơ trên tường
nhà tù,
trong có cả của Gấu, và đã từng sướng mê tơi, khi thấy Chú Muời, Chú
Chín, Chú Sáu Dân, Chú Bẩy Dũng... trình độ cũng lớp Một, lớp Hai gì gì
đó, Trùm
nông trường, ngốn từng câu văn của thằng tù là Gấu, ca ngợi ngày thành
lập Đảng,
Cách Mạng Tháng Tám, Đại Thắng Mùa Xuân… trên những tờ Báo Tường của
Đội Ba Kiên
Trì. Đội Ba Vững Tiến. Đội Ba Ngọn Cờ Đầu Nông Trường...
Hai năm trời ở
Thiên Đường, về đời, là không làm sao quên được, nói gì mấy ông nhà văn
nhà thơ
VC có cả một đời, nhiều đời được hân hạnh làm thơ phục vụ Cách Mạng,
chết rồi mà
vẫn còn chưa thoát, như nữ liệt sĩ thi sĩ Xuân Quí!
Thảo nào nhà thơ "Đại Hàn",
Chung Đô Koan, sợ quá, thều thào xin được
rút bài thơ Quê Hương ra khỏi tường nhà tù, trước khi nhắm mắt lìa đời!
D.M thằng nào con nào, tao chết rồi, mà còn lôi thơ tao ra treo lên nhé!
The Lost
Domain
Cuộc vạn lý trường chinh của Kadaré
Ông
nói tới sự bảo vệ của
Enver Hodja, nhưng cũng còn ảnh hưởng quốc tế bảo vệ ông nữa chứ?
Đúng như thế, nhưng danh tiếng quốc tế, ở Albanie, vào thời điểm đó, là
con dao
hai lưỡi, như tôi đã từng giải thích với ông: Là nhà văn nổi tiếng
trong một xứ
sở stalinien [độc tài CS], có nghĩa là có tội tới hai lần, có tội kép.
Thứ
nhất, đi ngược lại với sự thờ phụng cá nhân, chống lại cá nhân độc
nhất, và đi
ngược lại chính sách đồng phục, cá mè một lứa, ai cũng như ai, và chính
sách
này ăn ý với “chủ nghĩa xã hội đích thực”. Nhưng trong trường hợp của
tôi, đã
quá trễ để cấm đoán, cấm vận, hay bỏ tù, vì sức ép quốc tế quá mạnh
rồi. Giải
pháp độc nhất là đạo diễn một tai nạn. Rất nhiều bạn bè người Pháp của
tôi hiểu
rõ điều này, và thường xuyên hỏi thăm tin tức của tôi, qua tòa đại sứ
Albanie.
Cũng là một cách dè chừng, nhắc khéo đến số phận của tôi. Và Bernard
Pivot,
đúng vào thời điểm ‘tính mạng ngàn cân treo sợi tóc’của tôi, trong một
show TV văn học, do ông chủ trì, đã la toáng lên: “Chúng
tôi đợi Ismail Kadaré từ mấy tháng nay. Chuyện gì xẩy ra? Chúng tôi
muốn
ông ta.
Ông ta, chứ không phải thủ cấp của ông ta đặt trên một cái khay!”
Quê hương
tưởng tượng
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Dọn
Nhà
văn Dương Thu Hương được văn học thế giới để ý và coi bà như một nhà
văn phản
kháng mạnh mẽ nhất đối với chế độ Cộng Sản đương thời. Tác phẩm mới
nhất của bà
“Au zenith” - Ðỉnh Cao Chói Lọi“ viết bằng Pháp ngữ ra mắt
ngày 8 tháng
12 năm
2008 tại Paris. Sách do nhà xuất bản Sabine Wespieser và Le Livre de
Poche phát
hành. Sau đó sẽ có bản bằng
Việt ngữ do Ðặng Trần Phương dịch. Bản Việt
ngữ này đã được đăng tải trên nhiều
web-site và có
lẽ có rất nhiều độc giả.
NMT
Bà
DTH viết văn bằng tiếng Pháp ư?
Thế thì bảnh quá rồi! Mới qua Tây chừng
một năm mà đã viết văn bằng tiếng Tây thì quả là nữ lưu kiệt xuất!
Nhưng, hình như bà viết bằng tiếng Mít, được tay DTP dịch ra tiếng Tây,
còn bản
tiếng Việt, chẳng cần DTP dịch, thì cho đọc free trên net.
Nhà
xuất bản Sabine Wespieser
tại Pháp sẽ phát hành tiểu thuyết « Au zénith » của Dương Thu
Hương kể
từ tháng giêng 2009. Tác phẩm dầy gần 800 trang, do Đặng Trần Phương
dịch, ra
cùng lúc với bản tiếng Việt « Đỉnh Cao Chói Lọi » được phổ
biến trên
mạng Web
Nguồn
*
BBC:
Nhưng câu hỏi đặt ra là
tại sao khi đó ông Hồ Chí Minh đương quyền nguyên thủ quốc gia, lãnh tụ
tối cao
của Đảng trong một thời gian dài, đã không sửa sai ngay mà cứ đợi 'đến
sau
này'? Và nhiều thế hệ lãnh đạo đảng, nhà nước về sau, tới nay vẫn không
ai
tuyên bố chính thức sửa sai cho Phạm Quỳnh, mà rõ ràng như ông nói đó
là một
người yêu nước, một học giả bác học chân chính?
Nhạc sỹ
Phạm Tuyên: Tôi có
gặp nhà văn Nguyễn Đình Thi trước khi ông mất. Ông Thi có nhắc tới lời
của một
nhà văn phương Tây nói, "Có những nỗi oan trong lịch sử nhiều khi phải
mất
hàng trăm năm mới giải toả, giải thoát được." Tôi nghĩ rằng trong khi
đất
nước còn nhiều vấn đề như thế này, có thể nhiều khi vấn đề chưa được
đặt ra để
giải toả cho rõ. Nhưng tôi vẫn tin rằng sẽ có một ngày có một sự giải
toả nhất
định.
*
Câu trích dẫn, sử dụng
vào trường hợp Phạm Quỳnh hoàn toàn sai. Ông Phạm Quỳnh bị VC kết án
Việt Gian,
và làm thịt. Trường hợp Phạm Quỳnh, cũng giống của Tự Lực Văn Đoàn, Tạ
Thu Thâu,
Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường… nhiều lắm, và đây là luật của kẻ mạnh, giản
dị có vậy.
*
Trên tờ
Người Quan Sát Mới, có
hình ảnh và bài viết về sự hối hận của dân Thổ, về sự tàn sát mang tính
diệt chủng
đối với dân tộc Arméniens vào năm 1915. “Lương tâm của tôi không chấp
nhận người
ta dửng dưng với Thảm Họa Lớn mà người Armenien đã chịu đựng vào năm
1915, và
người ta còn chối. Tôi xin được chia sẻ những đau thương mất mát đối
với những anh
em bà con của tôi người Arménien, và xin họ tha thứ.” Bức thứ lúc đầu
là
của bốn nhà trí thức Thổ, bây giờ đã được gần 30 ngàn chữ ký.
Đâu
phải chỉ có một ông Phạm
Quỳnh bị VC làm thịt oan đâu?
Nhưng
giá mà có bốn ông trí
thức VC làm một cái thư cầu xin tha thứ, thì cũng thú vị ra phết đấy!
[Một chưa chắc, lấy đâu ra bốn ông Yankee mũi tẹt ở đây?]
Pamuk
nhờ tố cáo vụ diệt chủng
mà ăn Nobel.
Biết
đâu một nhà văn VC mô phỏng
ông, cũng ăn Nobel?
19.1.2009:
Tưởng niệm nhà báo
Hrant Dink bị sát hại. Người Quan sát Mới số 12-18 Mars, 2009
Trong
loạt bài trên tờ báo Pháp, Thế giới
ngoại giao,Tháng Năm 2005, nhan đề “Những mặt bị che giấu, bị ỉm
đi, của Đệ Nhị
Chiến",
sử gia người Đức, Gotz Aly, trong cuốn sách của ông được trích đoạn
đăng trên báo nói trên, "Nhà nước nhân dân của Hitler, Ăn
cướp, cuộc chiến về sắc tộc và chủ nghĩa xã hội", [nguyên tác tiếng
Đức], cho
rằng chủ trương của Hitler là vỗ béo dân Đức bằng những của cải ăn cướp
của Do Thái,
và Âu Châu. Và chính vì vậy, mà cả nước vờ đi, và tự nguyện biến thành
đao phủ thủ
trong vụ làm cỏ dân Do Thái.
Chúng
ta tự hỏi, liệu giống dân
Yankee mũi tẹt
cũng đã được nhà nước
vỗ béo, bằng một chủ trương như vậy?
Đúng
như thế, theo Gấu, nhưng
sự tình phức tạp hơn nhiều đối với giống dân từ
đời thuở nào, bị Phương Bắc đuổi chạy có cờ,
cuối cùng xô dạt về miền đồng bằng sông Hồng, quần tụ lại và lập nên
nền văn
minh Bắc Kít.
*
Pour essayer d'apporter une réponse
convaincante, je considère le régime nazi sous un angle qui le présente
comme
une dictature au service du peuple...
Để đem đến một câu trả lời
đáng
tin cậy, có sức thuyết phục, tôi sẽ nhìn chế độ Nazi dưới góc độ, qua
đó, nó được
coi như là một chế độ độc tài phục vụ nhân dân.
Đúng là quan điểm của Đảng
ta, tại Miền Bắc! Sở dĩ đám Mít Bắc cung cúc tận tụy một lòng một dạ
với Đảng, chính
là vì họ nghĩ, Đảng phục vụ nhân dân ta, thế mới bỏ mẹ!
Từ Euthanasie tới Solution Finale
Trước
khi thực hiện Giải Pháp
Chót, tức làm cỏ dân Do Thái, Nazi cũng chơi cú ‘tổng diễn tập’
“Euthanasie” [cho đi tầu suốt những người già
cả, bịnh hoạn, những bệnh nhân tâm thần
bằng phương pháp chết không đau]
|