|
Độc đáo Tô
Hoài
-
Tôi chỉ đề tặng thế thôi.
Nhỡ hôm nay "thân", mai không "thân" nữa thì sao?
Tuyệt!
Letters from Beckett
Great as a playwright,
novelist and poet, Samuel Beckett also wrote letters of enduring worth
Thư gửi bạn ta của Beckett
Note: Chắc thua của nhà biếm
văn Mít số 1 hải ngoại, BBT.
”Phùng Lệ Lý Hayslip: Chưa có
bằng tiểu học, viết sách “best-seller” (SGGP 12-3-09)
Note:
Những bài viết
như thế này, là
chỉ cho biết một nửa sự thực. Báo trong nước, phải như vậy, nhưng khi
một
diễn đàn hải ngoại post lại thì cũng phải đi vài hàng tiểu chú, cho
biết những
thông tin trong nước vờ đi, rồi để độc giả tự nhận xét.
By
the time she was 15, she
had been imprisoned, starved, tortured, raped, and abandoned as a
traitor by
the VietCong,
for whom she had loyally fought. She fled to Saigon, where she
and her mother worked as housekeepers for a wealthy Vietnamese family,
but this
position ended after Hayslip's affair with her employer and subsequent
pregnancy. Hayslip and her mother fled to Da Nang, and by the age of
16,
Hayslip was supporting both her mother and an infant son by working the
black
market and as an occasional drug courier, and once even as a prostitute.
Wikipedia
Trong lần giao lưu sau buổi chiếu phim ở Hà Nội, một cô gái trẻ ngỏ lời
xin
được dịch ra tiếng Việt cuốn sách When Heaven and Earth changed places.
Bà Lý
lặng đi xúc động. Hơn 20 năm nay, bà vẫn thầm ước ao những người dân
quê bà sẽ
đọc cuốn sách này. Mong sao cuốn sách này sớm ra mắt để thêm nhiều độc
giả VN
có thể sẻ chia với bà những nỗi niềm.
SGGP
Dịch ra tiếng Việt, thì có bị thiến những
khúc như sau đây diễn tả:
The story begins during Hayslip's childhood
in a small village in central Vietnam, named Le La. Her village
was along the fault line between the north and south of Vietnam,
with
shifting allegiances in the village leading to constant tension. She
and her
friends begin working as lookout for the northern Vietcong. The
South Vietnamese learn of her work, arrest her and torture her. After
she is
released from prison, however, the Vietcong no longer trust her and
sentence
her to death. At the age of fourteen, two soldiers claim they will kill
her in
the forest. Once they arrive, both men decide to rape her instead.[2]
Sở dĩ cho tới nay chưa được dịch
là vì lý do đó.
Bà Lý bị đám Chống Cộng hải
ngoại không ưa, vì bà đã từng làm giao liên, nhưng trong nước cũng đâu
có ưa bà?
VNCH
có thể tha bà, nhưng VC đâu
có chịu ? Gấu nhớ là bà từng bị đồng chí bắt đào huyệt tự chôn mình, và
trước
khi làm thịt bà, thì bề hội đồng, không lẽ giờ cho dịch những đoạn như
vậy?
Bà
sở dĩ tin vào Phật Giáo, vì bà tin vào sự tha thứ, nhưng cả hai
Quốc Cộng
đều đâu biết tha thứ là gì?
Life vs Death
Tình cảnh ‘sống sót’
của đám
nhà văn nhà thơ VC, nhất là đám nằm vùng, thật trớ trêu, theo Gấu. Họ
không
thể quên đi cái quá khứ đỉnh cao chói lọi ngày nào, và cũng không thể
nào vờ đi
cái chế độ khốn kiếp hiện tại. Khi khóc vợ, nhắc lại
những vần thơ
đầy hào quang ngày xưa [thơ tình & cách mạng], vậy mà cũng nơm nớp
sợ nhà nước
kiểm duyệt
thì thê lương quá, khốn nạn quá!
Trông mong gì ở đám này, ở trong nước?
Ở một Sến Cô Nuơng ở hải ngoại?
*
Cái
sự so sánh với
một viên kim cương của ông làm nhớ ra là ông còn là một thi sĩ. Vậy mà
ông chẳng
thèm nói tới thơ…
Tạp chí văn học
Le Magazine Littéraire
Ismail Kadaré:
Về chuyện này, có
ý do của nó. Thơ, ngược hẳn với đám nhà văn VC lúc nào cũng ra rả, coi
đó là ngọn
cờ đầu, của văn học, nó là sự tủi hổ của văn chương. Cái phần nhục nhã
nhất, tủi
hổ nhất, hay được phô ra nhất, khoe nhặng xị nhất, hồ hởi nhất, xã hội
chủ nghĩa
nhất, cộng sản nhất, ngu si nhất, đần độn nhất. Tất cả những nước CS
khoe nhặng
lên, chúng là những cây cột chống Trời của Thơ, khi nào thấy rêm mình
là vịn thơ
đứng dậy, in thơ loạn cào cào châu chấu… nhưng thôi, nói vậy đủ tởm, và
tôi thật
sự là quá tởm cái chuyện này. Đúng như thế, thơ là cái mang tội nhất
trong các
thể loại văn học của vùng cựu CS. Cái thứ hung hăng con bọ xít nhất,
cái thứ thực
chứng nhất của cái chế độ khốn kiếp nhất, nhất, nhất!
The Lost
Domain
"L'Imagination est un
acte créateur de la mémoire"
Tưởng tượng là hành động sáng tạo của hồi ức
Linda Lê đọc Borges
Borges
à l'infini: Borges, thiên thu, vô cùng.
Borges
en dialogue,
entretiens
avec Osvaldo
Ferrari
Traduit
de l'espagnol
(Argentine) par René Pons Éd.1O/18, coll. Bibliothèques 10-18, 224 p.,
7 €.
Dans un
texte écrit peu après
la disparition de Jorge Luis Borges, en 1986, « La littérature ne sauve
pas la
vie» (in Utopie et désenchantement),
Claudio Magris se demandait: « Qui est
mort voici quelques heures, l'anonyme et mélancolique homme à la canne,
qui
peut-être n'a jamais connu l'amour et qui se perdait dans les méandres
des rues
et du soir, en disparaissant dans l'ombre comme un jour qui s'achève,
ou bien
l'auteur qui, en jouant, rapide comme l'éclair, avec les nostalgies de
cet
inconnu, nous a donné l'illusion que quelques volumes, avec leurs dos
bien
reliés luisant sur une étagère, suffisent à justifier une vie dont nul
ne peut
pénétrer le mystère? »
Quel
est le Borges qui, de
1984 à 1986, devisa avec Osvaldo Ferrari lors d'émissions diffusées par
la
radio argentine? Celui qui prétendait léguer « le rien à personne »;
celui qui,
dans sa préface à La Monnaie de fer,
affirmait avoir été un causeur hésitant mais
un bon auditeur, retenant chaque propos de son père ou de l'écrivain
argentin
Macedonio Fernandez; celui qui, adolescent, voulait être Hamlet,
Raskolnikov et
Byron; celui qu'on surnommait El Memorioso,
l'homme-mémoire, sans lui souhaiter le funeste destin de Funes, son
personnage
à jamais égaré dans le labyrinthe des souvenirs; ou bien celui qui se
présentait
devant le tribunal du « quasijugement dernier» comme le confesseur de
l'étrangeté du monde. Tous ces Borges d'hier, que l'oubli disperse et
que la
mémoire transforme, parlent à l'unisson au cours de ces entretiens.
L'oracle de Buenos Aires
y
adopte le ton serein caractéristique de Discussion,
écrit en1932, une fois balayés les emportements de sa jeunesse qui lui
faisaient dire dans Lune d'en face:
«Face à la chanson des tièdes, j'ai allumé ma voix aux couchants. »
Lecteur
hédoniste, il
souligne avec malice qu'il se rapppelle mieux les livres lus que les
incidents
biographiques. Cinéphile, il rend grâce aux metteurs en scène
d'Hollywood
d'avoir sauvé le sens épique en réalisant des westerns. « Anarchiste
inoffensif
», il se déclare l'ennemi du nationalisme. Écrivain idolâtré aux quatre
coins
de la planète, il donne quelques leçons de littérature (l'imagination
est un
acte créateur de la mémoire, un artiste ne doit pas chercher un thème,
mais
attendre que le thème le cherche), puis résume sa situation en une
boutade: il
est devenu une sorte de superstition internationale ... L'étonnement
étant à
ses yeux la vertu cardinale, Borges semblait se soumettre à cette forme
d'inquisition (Autres inquisitions
est le titre d'un essai où il interroge certains livres, ces miroirs
aux
énigmes) afin d'assouvir sa curiosité pour l'autre, que l'inconnu soit
son
alter ego ou lui-même, multiplié à l'infini. Au bout du compte, ce
Borges-là
reste un sphinx. Ses paradoxes, ses dérobades, son humour à la Bernard
Shaw,
tout autant que sa dialectique, n'aident pas à débrouiller le mystère.
Seuls
les vers de Walt Whitman, qu'il célèbre dans Essai
d'autobiographie, donnneraient une idée juste de ce volume
d'entretiens:
«Camarade!
Ceci n'est pas un
livre;
Celui
qui me touche touche un
homme. » LINDA LÊ
Le
Magazine Littéraire,
Janvier, 2009
Nguyên Mẫu
Nguyên
mẫu là một mục của tờ
văn học Pháp, Le Magazine Littéraire. Số Tháng Giêng 2009, có một bài
viết về cặp
Don Quichotte & Pancho Panca, thật tuyệt, của Benoit Duteurtre. Tin
Văn
scan để hy vọng lèm bèm về nó, khi nào hưỡn hưỡn, rảnh rảnh.
Thú nhất, là tác giả tìm ra sự
liên hệ giữa cặp Don & Pancho với những cặp, thí dụ, hai nhân vật
trong Của
Chuột và Người, và, từ Của Chuột và Người, móc vào cơn suy thoái kinh
tế hiện đại,
rồi móc vào cơn suy thoái tâm linh qua hai nhân vật trong Trong khi
chờ Godot của Beckett. Tuyệt!
Nói gần nói xa, chẳng qua nói
thẳng: Đây cũng chính là cách viết Tạp Ghi của Gấu!
Cái nọ xọ cái kia, chẳng biết
đường nào mà lần! [Gấu Cái ghét thậm tệ, chửi, chẳng khi nào đọc được
trọn bài
viết của mi!]. Một ông phê bình gia hải ngoại cho rằng, cách viết của
Gấu
là
từ tuyệt
chiêu Lăng Ba Vi Bộ mà ra!
Nhưng, Lăng Ba Vi Bộ là một “diệu
pháp” để tránh đòn. Đoàn Dự chẳng muốn đánh nhau với ai, học được phép
này, thú
quá, vậy là khỏi lo thằng nào đánh mình!
Còn mi?
Thì cũng nói thẳng: Để đánh người! NQT
Cuộc vạn lý trường chinh của Kadaré
...
Votre
comparaison avec un
diamant rappelle que vous êtes aussi poète. Vous ne parlez pourtant
jamais de
poésie ...
Il
y a une raison à cela. La
poésie, contrairement à ce qu'affirmaient les écrivains de l'ex-bloc de
l'Est
qui la présentaient comme l'avant-garde de la littérature, était la
honte de la
littérature. La partie la plus honteuse, la plus déclarative, la plus
enthousiaste, la plus socialiste, la plus communiste, la plus idiote.
Tous les
pays communistes se vantaient de défendre la poésie, de tirer les
recueils de
poèmes à des centaines de milliers d'exemplaires et... mais je ne veux
pas en
parler, cela me dégoûte de tout ça. En fait, je pense que la poésie est
le plus
coupable des genres littéraires de l'ancien bloc communiste. C'était le
plus
agressif, le plus positif pour le système.
Ông quá gắn bó với
xứ sở của
ông đến nỗi bị coi là một tay quốc gia.
Không tôi không quốc gia,
không sô vanh. Nhưng, làm thế nào, tôi, một nhà văn Albanie, lại bịt
miệng mình
khi xẩy ra những cuộc tàn sát tại Kosovo, trong khi một nửa con số
những
nhà văn
Âu Châu lên tiếng? Tôi nhớ một lần, trong một hội họp các nhà văn, một
người la
lên, khối Nato hãy ngưng những cuộc dội bom lên Serbe. Tôi nói:
“OK, nhưng với điều kiện, ngưng những cuộc tàn sát tại Kovovo, bởi vì
chúng còn ghê rợn
hơn dội bom”. Một người nào đó trả lời tôi: “Chết làm gì có đẳng cấp”».
Tôi trả
lời, có chứ. Chết vì dội bom tồi tệ hơn vì tai nạn xe hơi mười lần. Tồi
tệ hơn
bị ám sát bằng dao đâm mã tấu chém một trăm lần. Tôi may mắn được
Jean-Pierre
Vernant, sử gia người Pháp, cũng có mặt bữa đó, bênh tôi.
Ông
không nhận
là nhà văn chính trị, nhưng chỗ nào ông cũng xía mũi vô. Rõ nhất là
cuộc xung
đột tại Kosovo, ông đã đứng vào vị thế chống lại Serb…
-Không phải như vậy. Tôi là một công dân như bạn,
như hàng triệu người khác. Và
đó là cái phần nhân loại của tôi. [Cela fait partie de mon humanité]…
Bởi vì
tôi quá được biết đến tại vùng Balkans, tôi phải xiá vô, tôi không có
chọn lựa
nào khác. Tôi không thể nói: "Không, không, tôi không tuyên bố gì hết,
tôi
là nhà văn, chuyện đó không có tôi. Nhưng tôi chưa hề nghĩ đến một vai
trò
chính trị. Bao nhiêu người đề nghị, đòi hỏi tôi làm điều đó, đóng một
vai nhà
chính trị. Họ rất nghiêm túc, bởi vì cái đó thuộc truyền thống vùng
Balkans,
nhà văn, nhà tiên tri, nhà chính trị... nhưng tôi từ chối."
Ông thực sự viết vào tuổi nào?
Tôi có thể trả lời như nhiều
người khác, tôi bắt đầu viết khi 11 tuổi, có thể trước đó. Như những
đứa trẻ,
tôi viết những bài ngắn vào lúc 9 tuổi, nhưng chẳng ghê gớm gì ba thứ
đó. Lần đầu
tiên in bài, là trong một tập san nhà trường, khi học trung học. Những
bài thơ.
Nhưng với tôi, văn chương bắt đầu với cuốn tiểu thuyết đầu tay, viết
năm 23 tuổi,
khi tôi là sinh viên tại Học Viện Gorki, ở Moscow, trái tim của văn
chương Xô
Viết, bộ máy sản xuất ra những nhà văn Cộng Sản.
Ông chưa bao giờ là đệ
tử, tín
đồ đúng hơn, của dòng văn chương ‘hiện thực xã hội chủ nghĩa’ mà
người ta
giảng dậy tại thủ đô Liên Xô…
Tôi
cũng không biết tại sao,
ngay từ khi vừa mới đặt chân lên thiên đường là tôi đã cảm thấy mình
bảnh hơn nó… Hiện thực xã hội chủ nghĩa, mọi
người đều nói, nhưng chẳng ai biết nó ra làm sao. Thực sự, nó dựa vào
một số
qui luật mơ hồ nhưng tất cả mọi người đều vơ vào. Qui luật thứ nhất,
hãy tràn đầy hy vọng và
viết thứ văn chương ‘mai mãi mùa xuân'. Cái trực giác của tôi, khi còn
là một
thanh niên, xúi tôi làm ngược lại, nghĩa là, phải thay đổi khí hậu,
phải chống lại
thứ chủ nghĩa giáo điều về khí tượng học của họ [météo-dogmatisme] bằng
một thứ
chủ nghĩa phá ngang phá bĩnh về thời tiết [déviationisme climatique].
Kết quả
là, trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, mưa dài dài từ ngay trang
đầu tới
trang chót. Liền lập tức, câu hỏi khó chịu đầu tiên đối với tôi, khi
lần đầu tiên
tôi tới Tây phương, là: “Tại sao mưa rơi không ngừng trong cuốn tiểu
thuyết của ông?
Trong khi đó, Albanie là một xứ sở Địa Trung Hải…”.
Qui
luật thứ nhì của hiện thực xã
hội chủ nghĩa, là nâng bi, hoặc đội dĩa [nếu là nữ], "nhân vật hướng
thượng"; nhưng mà, như bạn biết đấy “nhân
vật hướng thượng, xả thân vì đại nghĩa”, là cái chết của văn chương!
*
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
«
Pourquoi pleut-il sans
cesse dans votre en roman? L'Albanie est pourtant un pays méditerranéen
... »
Tại sao mưa rơi hoài
trên những trang tiểu
thuyết của ông. Albanie, một xứ sở
của vùng Địa Trung Hải, chỉ có mặt trời và biển, làm gì có mưa?
Man Booker Prize
Trò chuyện với
dòng sông
Thanh Thảo viết về
Tế Hanh
Quê hương
tưởng tượng
Câu
chuyện của Saleem thực sự
chỉ đưa anh ta đến tuyệt vọng. Nhưng nó được kể theo kiểu tiếng vọng
đập đi đập
lại, tự nó đẻ ra nó, tự nó nhân nó lên bằng cách đập lên nó, nhiều
chừng nào tùy
theo tôi có thể chừng đó, bằng tài năng của một tên Ấn độ là tôi. Đó là
lý do tại
sao chuyện đẻ ra chuyện, chuyện cũ đẻ chuyện mới, chuyện ‘nhung nhúc’
chuyện. Hình
thức – đa dạng, rắc rối, phức tạp, làm bật ra cái sự đa đoan vô vàn của
xứ sở -
nó chính là đối trọng lạc quan, so với cái số phận thê luơng của cá
nhân Saleem.
Tôi tin, một cuốn sách được viết như thế, không thể là một tác phẩm
tuyệt vọng.
Những nhà văn Ấn độ không cùng
một chủng loại. Thí dụ, trong số chúng tôi, có những nhà văn gốc gác Pakistan.
Có những
người khác gốc Bangladesh.
Những người khác nữa gốc Tây phương, Đông phương, và có cả những người
gốc Nam
Phi. Và V.S Naipaul, vào lúc này, thì lại là một trường hợp hoàn toàn
khác hẳn.
Cái từ “Ấn độ” ngày một trở thành một ý niệm tản mạn, manh mún, nếu
không muốn
nói tan hoang, mỗi nơi một mẩu. Những nhà văn Ấn độ ở Anh bao gồm những
lưu
vong chính trị, những di dân thế hệ đầu tiên, những kẻ bỏ xứ giầu có và
thường
là những thường trú nhân tạm thời, những người Anh nhập tịch, và những
người
sinh đẻ tại Anh chẳng hề bao giờ để mắt đến tiểu-đại lục.
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Đỉnh
cao chói lọi
Dấu ấn
CS và của truyền thống
đè lên cuộc sống riêng tư của từng cá nhân là một trong những chủ đề
lớn xuyên
suốt những tác phẩm của DTH: Chuyện tình kể trước rạng đông cho
chúng ta
thấy bàn tay lông lá của Đảng thò ra ngăn cản một cặp không được sáp
lại với
nhau, trong khi trong Chốn Vắng, cô Miên bị Đảng bắt phải trở
về sống
với cái bóng ma của chủ nghĩa CS, nhập vào anh chồng cũ, tưởng là đã
chết mất
xác, bỗng một ngày xấu trời, từ địa ngục bò về. Những tình cảm cá nhân,
nỗi ước
ao xây dựng một cuộc sống gia đình riêng tư, thầm kín, chẳng là cái
thá gì, chẳng có ký lô nào trước bổn phận đối với tập thể, đám đông… Đỉnh
Cao Chói
Lọi đẩy những thảm kịch cá nhân như vậy lên đến tột đỉnh, qua hình
ảnh một
vì thánh của đất nước, bị kết án, bởi vì là thánh, nên không được quyền
làm
người bình thường: Hình ảnh vị Chủ Tịch ở trong cuốn tiểu thuyết thì
buồn bã, tang
thương, rách nát, muốn làm người mà không thể làm người, không ai cho
làm người nữa, thật khác xa hình ảnh vị
cha già dân tộc.
Dọn
A Pedagogy of Hatred
I don't
know if the world can
do without German civilization, but I do know that its corruption by
the
teachings of hatred is a crime.
Cái
việc dậy con nít hận thù
là một tội ác. Cái sự thắng trận và băng hoại sau đó, chính là cái tội
ác vì
dậy con nít thù hận.
|
|