|
@
Royal Ontario Museum
by
Jennifer Tran
Súng và cà táp: Gun and
briefcase
Timothy Snyder [TLS, 6 Tháng
Ba, 2009] đọc The Kindly Ones, Những Kẻ Thiện Tâm của Littell.
“Một tên SS, một tay cầm súng,
một tay cầm cà tạp, nhìn thấy cả hai, giấy và máu.”
Ui chao, y chang nhà văn Tô
Hoài, khi viết Ba Người Khác, một tay kéo quần, một tay viết!
Như là một cuốn tiểu thuyết,
thì không đáng tin cậy, Littell mắc vài lỗi… For a novel, The
Kindly Ones in uncannily reliable as history. Littell makes
some mistakes…
Một trong những lỗi lầm khi
viết của Littell, là, nhìn sự vật gần quá, chúng hết còn mượt mà, “seen
close
up, things were proceeding less smoothly”
TLS đã từng có bài về Les
Bienveillantes, khi bản tiếng Pháp ra lò và ẵm Goncourt. [Look on these
horrors: The blood-soaked nightmares of an SS officer. Justin Beplace
đọc Jonathan Littell, Les Bienveillantes, TLS Nov 17, 2006]
*
Tiểu thuyết hiện hữu? Nhưng rồi
chúng sẽ ra sao? Đây là câu hỏi của triết gia Mạc xịt G.
Lukacs, trẻ, ở đầu thế kỷ 20. Và bây giờ chúng ta có câu trả lời: Cái
chết của
nó. Con người hiện đại chấp nhận mình là sinh vật sẽ chết, và chúng dậy
chúng
nhìn cuộc đời của chúng từ điểm cuối lần ngược trở lại. Kể từ khi ý
thức cái chết,
awareness of death, đem hình thức chót, final form, đến cho đời sống
hiện đại, nó còn đem sự quen thuộc, the familiarity, đến cho sự viên
mãn của câu chuyện, the
finitude of story. Tuy nhiên,
nếu cái chết chia sẻ ‘hình thức’, liệu nó còn cung cấp luôn cả ‘nội
dung’, cho tiểu thuyết?
Đúng là một câu hỏi quá căng!
Bởi vì, mặc dù hơn 10 triệu con người Âu Châu bị chết về chủ thuyết
Nazi và Xô
viết, cái sự giết tập thể hàng loạt đó chẳng sản xuất ra nhiều tác
phẩm văn chương cho Âu Châu như là được mong đợi, và điều này mới đau
hơn hoạn: Đếch có một tác phẩm nào cho phép chúng ta nhìn hiện tượng,
“được nhìn như là nó
đã là, to be seen for what it was”.
Kệ sách của Hitler
Chúng ta đã biết Xì
rất ưa đọc sách.
Thế còn Hit?
Cũng
chẳng thua Xì. Tuy là Trùm Quốc Xã, nhưng chỉ khoái sách loại có người
xài rồi, second-hand. Không khoái sách văn học. Cách đọc sách của
Hitler rất hay, có thể sử dụng để trồng người được: In Mein
Kampf, Hitler recommends a
highly focused method of reading, in which you
first decide what you want to know, then collect building blocks which
will
confirm or correct your opinions. In keeping with this "Boy's
Bumper Book
of Facts" approach to reading, he was always consulting
encyclopedias. Trong cuốn Mein Kampf, Hitler đề ra một cách đọc sách
xoáy vào điều mà bạn muốn đọc, rồi sau đó xây dựng một công trình đọc,
gồm những khối, những khối này sẽ xác nhận và sửa sang, chỉnh đốn cái
đọc của bạn. Ông luôn dùng bách khoa từ điển.
The Lost
Domain
“Tôi ngờ rằng,
Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm
thấy
hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc mà chẳng bao giờ tìm hiểu, analyze,
nó. Tôi
nhớ ra là chính mình khám phá ra cảm nhận này khi đọc nó lúc còn là học
trò,
nhiều năm trước đây. Đó là một kinh nghiệm về một sức mạnh kỳ lạ, đụng
tới rất
nhiều vùng bí ẩn của bản chất của riêng tôi, mà tôi thực tình chẳng
muốn bất cứ
kẻ nào nói cho tôi biết, như thế nghĩa là gì. Nếu phải so sánh cuốn
sách với
bất cứ một cuốn sách nào khác, thì đó là một điều báng bổ, chẳng khác
gì một cô
thiếu nữ vô tư thoải mái phô bầy nơi chốn đặc biệt cho kẻ phàm phu tục
tử nhòm
vào.
Mãi sau này trong
đời, tôi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của riêng tôi, The Magus, dưới
ảnh hưởng
đậm đà của Miền Đã Mất. Kể từ đó, tôi hầu như đọc tất cả những gì
Alain-Fournier viết, và vài cuốn sách viết về ông, và tôi thực hiện
những
chuyến hành
hương về đất thánh, là hầu hết những nơi chốn chủ yếu của cuốn sách và
của cuộc
đời tác giả của nó. Nói ngắn gọn, tôi là một fan hạng nặng đến trở
thành mụ mị,
của ông, và vưỡn cảm thấy gần gụi với ông hơn là với bất cứ một tiểu
thuyết gia
nào khác, còn sống hay là đã chết.
Bài
'đại phỏng vấn' tay nhà
văn Albania
thật tuyệt. Có thể làm bài văn mẫu cho đám nhà văn Yankee mũi tẹt được!
Thí dụ những câu sau đây mà
chẳng bảnh sao:
Theo chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa, phải viết thứ văn chương "mùa xuân vĩnh viễn của nhân
loại", chữ của Nguyễn Khải trong Gặp Gỡ Cuối
Năm [nguyên văn, une littérature
'printanière']. Kết quả, trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi, mưa
rơi ngay từ
trang đầu tới trang chót.
Được
hỏi, khi được Tây in sách,
như DTH Mít "nhà mình" thí dụ, ‘phó phướng phông’?, Kadaré trả lời:
Với một nhà văn từ một xứ sở
chư hầu của ông Xì, Stalinien, được in sách ở Tây là sống kiếp sống thứ
nhì
[réincarnation: tái nhập
thế].
Trả lời câu hỏi, người ta nhắc
hoài đến tên ông ở hành lang Nobel, ‘ông đã làm hồ sơ, và nạp đơn
chưa’? [cái này
thuổng
trang Ngộ độc văn chương của
thi sĩ NTT], ông trả lời:
Người ta nhắc nhiều đến tôi,
và người ta tiếp tục. Ngày này qua tháng nọ, tôi cũng phải quen thôi.
Có vài
tay hay được nhắc như vậy, thành thử cũng có bạn.
*
Ismail Kadaré:
« Il n'y a pas trois vérités,
il y en a treize, il y ena trente »
Il fut longtemps
l'incomparable conteur d'une autre planète aux portes de l'Europe:
l'Albanie
d'Enver Hodja.
Toujours aussi prolifique,
Kadaré revient avec nous sur le grand hiver passé et sur ses
préoccupations
actuelles.
Propos recueillis par ALEXIS
LIEBAERT, photos DEREK HUDSON
Plus de
soixante livres,
romans, recueils poétiques, essais, pièces de théâtre: en presque
cinquante ans
de vie littéraire, Ismaïl Kadaré a expérimenté tous les genres. Mais ce
sont
d'abord les romans, dès 1963 avec Le Général de l'armée morte, qui ont
fait sa
renommée internationale, miraculeuse pour un écrivain ayant oeuvré dans
l'un
des régimes les plus autarciques et ubuesques qui aient été, l'Albanie
d'Enver
Hodja. Kadaré est resté coincé dans l'étau de Tirana jusqu'en 1990,
année où il
décida de demander l'asile politique à la France. Rencontre avec
l'une des
plus grandes figures de la littérature mondiale, dont le dernier roman,
L’Accident,
est sorti cet été.
Vous vivez maintenant à Paris.
Peut-on parler
d'un exil ?
ISMAÏL KADARÉ. Non, on ne
peut pas parler d'exil. Je partage aujourd'hui ma vie
entre Paris
et
Tirana, moitié-moitié. Pendant une période, en effet, on a pu parler
d'exil,
mais j'avais annoncé en quittant mon pays que je reviendrais dès que la
démocratie serait installée. Quand j'ai quitté l'Allbanie, c'était
parce que je
pensais que cela contribuerait à accélérer le processus démocratique.
C'était
pour moi la seule manière d'essayer de faire quelque chose. À cette
époque, le
pouvoir communiste, effrayé par ce qui se passait en Roumanie, avait
promis de
changer les choses. Mais ce n'était qu'un leurre. Il me fallait donc
trouver
d'urgence une caisse de résonance, un espace où m'exprimer pour
dénoncer
l'hypocrisie du pouvoir, parce qu'on ne pouvait rien dire là-bas: trois
lignes,
rien que trois lignes critiques, et c'était la prison. Mais je savais
en
partant que je reviendrais
Ismail Kadaré:
"Không chỉ có ba sự thực, mà
có
mười ba sự thực, có ba mươi sự thực."
Đã từ
lâu, ông là người kể chuyện 'đả
biến thiên hạ vô địch thủ' [không một ai so sánh nổi], từ một hành tinh
ở ngay cửa
ngõ của Âu Châu: Xứ Albanie của Cha Già
Dân
Tộc, Đỉnh Cao Chói Lọi Enver Hodja.
Mắn đẻ như luôn luôn mắn đẻ, Kadaré trở
lại với chúng ta và cùng với sự trở lại, là một mùa hè lớn lao và những
bận rộn
hiện thời của ông.
Hơn sáu chục cuốn sách, tiểu
thuyết, thi tập, tiểu luận, kịch phẩm, và gần năm chục năm sống và
viết. Nhưng
chính những tiểu thuyết, từ 1963 và Tướng Âm Binh, một trong số đó, đã
đưa
ông lên đài danh vọng quốc tế, đúng là một phép lạ, đối với một nhà văn
viết ở
bên trong một chế độ độc tài, khắc nghiệt, lố lịch, và độc ác nhất, xứ
sở
Albanie của Enver Hodja. Kadaré bị kẹt cứng tại Tirana mãi đến
năm 1990, năm ông quyết định xin tị nạn chính trị tại Pháp.
Sau đây là cuộc gặp gỡ với một
trong những khuôn mặt lớn lao nhất của văn chương thế giới. Cuốn tiểu
thuyết
mới nhất của ông, Tai Nạn, ra mắt vào mùa hè năm nay.
Bi giờ ông sống tại Paris. Liệu chúng ta có
thể nói một tí về... lưu vong?
*
Ismail Kadare doesn't need to
be dissident to be good
Tớ đếch cần phải làm nhà văn
ly khai mà vưỡn viết bảnh như thường.
I'd like to thank my
oppressor...
The "no
Solzhenitsyn" dispute surfaced in hard print with articles in the
Spectator and letters to the TLS. John Carey, chair of the IMB
committee,
retorted - quite reasonably - that the judges were not commissars: "Our
unanimous decision to award the prize to Ismail Kadare was made solely
on
grounds of literary merit." Saddam Hussein (who has another novel out
this
year) would have got the same Olympian treatment.
Tớ đếch giống Solz. Tớ còn cám ơn mấy thằng cha bắt bạt tớ nữa!
Và ban giám khảo Booker cũng đâu phải là những chính uỷ!
Trò chuyện với
dòng sông
Thanh Thảo viết về
Tế Hanh
Quê hương
tưởng tượng
Đôi khi
chúng tôi có cảm tưởng
mình đang ngồi trên mình ngựa, lắc lư giữa hai nền văn hóa,, và đôi khi
khác thấy
mình té chỏng khu giữa hai cái ghế đẩu. Nhưng, mặc dù lạ lẫm, hàm hồ,
trơn trượt,
miếng đất này chẳng hề cằn cỗi đối với một nhà văn, và phải bám chặt
lấy nó. Nếu
văn chương là tìm mọi cách chọc thủng những khe hở, tạo những góc nhìn
mới
mẻ để mà
xấn vào thực tại, thì một lần nữa, khoảng cách của chúng tôi và cái
nhìn viễn vời
mà chúng tôi có được nhờ nó, có thể cung cấp cho chúng tôi những góc
nhìn như
thế. Dù gì chăng nữa, chỉ nội nghĩ như thế, là cũng OK rồi, để mà bắt
tay vào
việc.
Những đứa trẻ của nửa đêm
tấn
công mục tiêu của nó từ một cái nhìn của một kẻ thế tục. Tôi là một
thành viên
của một thế hệ những người Ấn tin chắc bẩm vào lý tưởng thế tục. Một
trong những
điều mà tôi đã từng thích, và vưỡn còn thích, về nước Ấn độ, là nó dựa
trên một
thứ triết học không bè phái. Tôi không bị nuôi dưỡng ở trong một môi
trường Hồi
giáo chật hẹp; tôi không coi văn hóa Ấn độ như là xa lạ, ngoại lai, hay
là quan
trọng hơn, so với di sản Hồi giáo. Tôi tin rằng, điều này là do Bombay mà ra,
một thủ phủ
trong đó có hầm bà làng những tín đồ, tín hữu, những niềm tin, những
văn hóa, và
lạ lùng thay, chúng tạo ra một bầu khí
không bè phái thật là đường được. Saleem Sinai có thể thoải mái sử dụng
bất cứ
một yếu tố nào, từ bất cứ nguồn nào mà anh ta chọn lựa. Điều này thật
dễ dàng đối
với một tác giả ở bên ngoài, thay vì bên trong xứ Ấn độ.
Tôi muốn trình bày điểm chót
mà Những đứa trẻ của nửa đêm toan tính,
liên quan tới chuyện miêu tả. Cuốn sách bị trong nước chỉ trích là miêu
tả nước Ấn bằng một cái
mầu không được
tươi mát, và điều này còn là do giọng văn thảm thương thất vọng chán
ngán của
nó. Và cái sự thất
vọng của một nhà văn ở bên ngoài nhìn về trong nước như thế, thì cũng
thật dễ
hiểu, dễ chọn lựa, hợp thời. Nhưng tôi không coi cuốn sách của mình có
giọng
điệu chán chường tuyệt vọng, hay có mùi hư vô chủ nghĩa. Cái nhìn của
người kể
chuyện không phải cái nhìn của tác giả. Điều mà tôi cố gắng thực hiện,
là tạo
ra một sự căng thẳng ở bên trong cuốn sách, một sự đối nghịch có tính
ngược ngạo
giữa hình thức và nội dung.
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Đỉnh
cao chói lọi
Cái sự bành trướng về
phía Nam
là số phần
của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai
hiểm
họa, giặc Bắc và lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông
Hồng nhỏ
quá, người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì càng ngày càng
co lại vì
bờ nhiều hơn ruộng, ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê sông Hồng
chặn hết
mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ
khi có Đàng
Trong, là
toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra
giải phóng
Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất của xứ Bắc
Kít.
Nhưng không ai có thể
ngờ
được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất, là Cái Độc, Cái Ác của một miền
đất.
Chỉ đến khi lấy được
Miền Nam
thì Cái Ác
mới lộ diện.
Phải đầu hàng, không
có bàn
giao bàn giếc mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày phải đầu hàng, vì
tao là kẻ chiến thắng, đất đai của mày, nhà của mày, vợ con của mày,
của
cải của mày,
căn cước của mày… tất tất của tao, của chúng ông, tất tất
đều chiến lợi phẩm.
Hiểu chưa, chú gà tồ Big Minh!
*
"Le vent se faufilait
silencieusement entre les failles, dans les gouffres
de la montagne, avant de s'abattre sur les hameaux avec des
gémissements comme
venus de l'au-delà." Extrait
[Gió luồn qua những hẻm núí trước khi quất xuống làng mạc như những
tiếng ma rên quỉ hờn] (1)
Tran
Minh Huy, của tờ Le
Magazine Littéraire đọc Đỉnh Cao Chói Lọi: Những kẻ trầm luân của Việt Nam
Au zénith est le livre d’un
écrivain engagé, presque enragé, qui s’interroge avec douleur : Comment
les
héros de la guerre contre les Français en sont-ils venus à se plier à
la
culture du mensonge propre aux dictatures, et à se renier ?
Đỉnh cao chói lọi
là một
cuốn sách của một nhà văn dấn mình đến khùng điên, rồ dại, một nhà văn
đau đớn tự hỏi: Tại làm sao, như thế nào, mà những anh hùng thời chống
Tây sau cùng lại
quỵ luỵ
thứ văn hóa dối trá đặc sản của những chế độ độc tài, và từ chối chính
họ?
Note: Từ Trầm Luân, được
sử dụng ở đây, có thể là từ Debout, les
Damnés de la terre, của Marx?
Vùng lên, hỡi những kẻ bị
trầm luân, đọa đầy của thế gian này!
*
Những
kẻ đọa đầy của Việt Nam
Với
Đỉnh Cao Chói Lọi, một
trong cuốn sách đẹp nhất của bà, DTH trở lại, qua ngả giả tưởng, với một thời kỳ tàn khốc, và ít được biết, của cuộc đời
HCM. Để gìn giữ hình ảnh của Người, một vì thánh cống hiến hết mình cho
đất nước,
một nhà khổ hạnh chẳng hề bận tâm, chẳng để vướng mình vào bất cứ một
thú vui xác
thịt, Bộ Chính Trị đã không ngừng xóa sạch bất cứ một bóng hình người
phụ nữ nào
kế bên vị anh hùng quốc gia.
Chính
vì vậy mà Xuân, cô vợ trẻ, mà HCM có
với cô một trai [và một gái, như trong Đỉnh Cao], bị hãm hiếp và giết
chết, bởi
đích thân Ngài Bộ Trưởng Nội Vụ, khi cô muốn công khai hóa, chính thức
hóa, cái
chuyện, Bác Hồ là chồng của tôi, tôi là vợ của Bác Hồ. Cái vụ sát nhân
của Ngài
Bộ Trưởng Nội Vụ được dàn dựng như là một tai nạn xe hơi, và người ta
còn tìm
thấy ít lâu sau đó, xác của một cô gái bà con [cô em gái, như trong
Đỉnh Cao]. Và chính người chồng tương lai của cô
gái này đã la lên, sau khi được cô vợ sắp cưới kể cho nghe
tất cả câu
chuyện đã bao lâu bị chế độ ém nhẹm.
Vụ Bác Hồ có bồ nhí này, đã từng gây chấn động
hải ngoại khi cuốn Đêm Giữa Ban Ngày của VTH xuất hiện. Tuy nhiên, ở
VTH, nó chỉ là
thứ yếu, so với bận tâm chính của tác giả, về một ‘bông hồng khư khư
cầm trên
tay khi đi tù’. Nói rõ hơn, VTH bận tâm tả cuộc tù của ông, khí tiết
của ông, và
thái độ không hận thù những kẻ tống ông vô tù. Với DTH, và Đỉnh Cao,
qua bản tiếng
Pháp, và bản tiếng Anh sắp sửa ra mắt, cả thế giới mới được thưởng lãm.
Dọn
A Pedagogy of Hatred
I don't
know if the world can
do without German civilization, but I do know that its corruption by
the
teachings of hatred is a crime.
Cái
việc dậy con nít hận thù
là một tội ác. Cái sự thắng trận và băng hoại sau đó, chính là cái tội
ác vì
dậy con nít thù hận.
|