|
Author claims political pressure behind
cancellation of Stalin book
Historian Orlando
Figes: claims publisher of
book about life in Russia
under Stalin has bowed to 'political pressure'
Russian
revelations
Sách viết về Nga dưới thời Stalin, bản dịch qua tiếng Nga bị nhà xb huỷ
giao kèo
*
Stalin no better than Hitler?
Well, at least Stalin wasn't as bad as Hitler." How many times have we
all heard that said – or said it ourselves? For a variety of
complicated reasons I still half-believe it. "At least he didn't
butcher the Jews." Hey, no, Joe butchered or enslaved everyone, Jews
included. Read The Whisperers, now that Russians can't.
Remember, it's nationalism, not nationalization, that we have to worry
about in the economic crisis.
*
Hell
Sự hiểu biết về văn học Nga ở
trong nước
thật quá tồi tệ, hay dùng chữ của chủ soái Mít về hậu hiện đại, đúng là
một
“quái trạng". [Còn một ông chủ soái Mít nữa về thơ tân hình thức, và
Gấu đương
băn khoăn, “hoàn cảnh tân hình thức” có được coi là thuộc hậu hiện
đại?]. Họ
chỉ đọc thứ nhà nước Xô Viết cho phép, và gần mù tịt về văn hóa dưới
hầm, truyền
tay, rỉ tai, và nếu bất đắc dĩ phải nhắc tới, thì nhắc theo kiểu huề
vốn, thí
dụ như khi nhắc tới những Mandelstam, Akhmatova, Brodsky. Những chuyên
viên về
văn học Nga, ngôn ngữ Nga như bạn Nguyên Đầu Bạc chẳng hạn, đâu có nhận
xét nào
ghê gớm về Solzhenitsyn, thí dụ. Mấy ông ra được bên ngoài, thí dụ đám
Mít làm
cho Bi Bì Xèo cũng chẳng chịu bỏ chút thì giờ đọc Solz, hay tìm hiểu về
thế giới
tù đầy của Gấu Mẹ Vĩ Đại. Cái sự dửng dưng của trong nước đối với văn
hóa "Gulag",
thì cứ gọi đại như vậy, cũng giống như của Tây phương, trước, và ngay
sau khi
cuốn Quần Đảo Gulag được xb tại Tây Phương. Trên số NYRB, 12
June, 2003,
điểm cuốn Gulag, một lịch sử của Anne Applebaum, được Pulitzer,
Orlando
Figes viết: Đã ba chục năm kể từ khi Tập I, bộ sách khổng lồ Quần
đảo Gulag được
xb tại Pháp. Sự xuất hiện của nó vào Tháng Chạp 1973 đã gây nên một
chiến dịch
bôi nhọ Solz của báo chí Liên xô dẫn tới vụ tống xuất ông.
Đọc "văn hóa
Gulag", Gấu có một thắc mắc, nhân một ý tưởng của Solz
mà ra: Tại sao tù cải tạo Miền Nam
được đưa lên mạn Cực Bắc, và chỉ sau khi xẩy ra cuộc chiến biên giới
với TQ,
mới được sơ tán xuống miền dưới?
Ý tưởng, sự
hiện hữu của Gulag thực ra là có từ hồi còn Nga Hoàng, như Anne
Applebaum cho thấy. Liệu cái vụ đưa tù cải tạo lên mạn cực bắc, cũng có
từ thời
tiền CS Mít, và cũng đã ăn sâu vào tận xương tận tuỷ Yankee mũi tẹt?
Solz nhìn ra,
có một sự triển khai nhịp nhàng giữa Khủng Bố và bùng nổ Trại Tù:
những vụ bắt bớ tập thể là cách nhanh chóng nhất để cung cấp nguồn nhân
lực vô
hạn và rẻ như bèo cho nền kỹ nghệ hóa khổng-khổng-khổng lồ của Stalin
[super-super-super-industrialization]
Nói một cách
khác, thật giản dị, đã có nghị quyết từ trước, càng nhiều trại
được sửa soạn theo cùng một nhịp với những vụ bắt bớ tập thể vô tư được
lên kế
hoạch [In other words, putting it simply, it was proposed that more
camps be
prepared in anticipation of the abundant arrests planned].
Như vậy, cái
vụ đưa tù cải tạo ra Bắc, là cũng đã được lên kế hoạch, từ trước
khi cướp được Miền Nam, và những 10 ngày cải tạo là cũng đã được
proposed từ
khuya?
Top
Ten về nước Nga, 10 books of Russia
1. Dead Souls, by Nikolai
Gogol, 1842. Những linh hồn chết.
A novel of comedy and shame.
[Một cuốn tiểu thuyết về khôi hài và nhục nhã]
2. Fathers And Sons, by Ivan
Turgenev, 1862. Cha và Con
A novel of ease versus
rebellion. [Một tiểu thuyết về sự thoải mái vs sự nổi loạn]
3. The Brothers Karamazov, by
Fyodr Dostoyevsky, 1879. Anh em nhà Karamazov
A pious brother, a
wild-living brother, a political brother and their wretched father.
Một thằng con hiếu thảo, một
thằng con hoang tàn, một thằng con mê làm chính trị, và ông bố khốn
kiếp của
chúng.
4. Petersburg,
by Andrei Bely, 1916-1922
A symbolist novel of
terrorism. Một cuốn tiểu thuyết biểu tượng về khủng bố.
5. The Master And Margarita,
by Mikhail Bulgakov, 1940
A novel of magic, hubris and
retribution.
6. To The Finland
Station, by Edmund Wilson, 1940
How Lenin's mind got to where
it was in 1917.
7. Russian Thinkers, by
Isaiah Berlin,
1948
A wise, beautiful guide to
19th-century minds.
8. Kolyma
Tales, by Varlam Shalamov, 1929
9. A People's Tragedy, by Orlando
Figes, 1997
Revolution and civil war as
seen from the ground.
10. Chapayev And Pustota, by
Viktor Pelevin, 1998
(published in English both as
Buddha's Little Finger and The Clay Machine Gun)
A novel of Yeltsin's Russia,
with
Buddhist-Bolshevik episodes.
Note: Mấy cái tiểu tít, như
trên, của Guardian, [làm sao viết ngắn gọn nhất, về một đại tác phẩm],
thật
tuyệt.
*
1. Dead
Souls, by Nikolai
Gogol, 1842
A novel
of comedy and shame.
"Chichikov
saw that the
old woman was far from grasping the issue, and that he needed to make
it clear.
In a few words he explained that the transfer, or purchase, would take
place
only on paper and that the souls would be registered as if they were
living.
'And
what good are they to
you?' asked the old woman, her eyes bulging.
'That's
my business.'
'But,
really, all the same,
they're dead.'
'Who
said they were alive?
You're losing money because they're dead: you're still paying for them,
and I'm
offering to rid you of all these bills and bother. Do you understand?
Not just
rid you, but give you 15 roubles into the bargain. Is that clear?'
'Really,
I'm not sure,"
said the proprietress hesitantly. "I've never sold dead people before,
you
know.'"
"I've never sold dead people
before, you
know.'"
"Tôi chưa hề bán
những người
chết, trước đây".
Gừng
càng già càng cay. Những
linh hồn chết của Gogol lại sống lại với bản tiếng Anh, mới,
của nhà
Penguin.
Tuồng
ảo hoá đã bầy ra đấy:
đầy người và vật, trong cõi thực mấp mé bờ siêu thực. Nabokov, trong
một bài
tiểu luận lớn, và độc đoán, coi Những Linh Hồn Chết, một thứ "Văn Đẻ Ra
Đời", trong đó, những câu kệ của Gogol, giống như những câu thần chú,
kêu
gọi ra một thế giới, và thế giới này thì có thể, hoặc phát triển hoặc
huỷ diệt,
đều theo cùng một cách, là khùng điên ba trợn. Gogol gọi, đây là một
"bài
thơ", (1) và theo một số đường hướng, tác phẩm tiếng Anh gần gũi nhất
với
nó,
là The Canterbury Tales, trong đó, nhịp điệu văn không những làm tăng
thêm, mà
còn tạo ra cái bất ngờ khoái tỉ về chi tiết, của người và vật.
(1)
Trong lời tựa, bản tiếng Việt, dịch giả Hoàng Thiếu Sơn viết rõ hơn:
Puskin đã từng khuyên Gôgôn sáng tác Những
linh hồn chết thành một thiên 'trường ca' - poema - Chữ "poema"
đây không phải có nghĩa là một tập thơ mà là một tiểu thuyết trường
thiên có tính sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn cho in
lên bìa chữ "poema" to hơn tên sách.
A poll tax of souls
Nikolai
Gogol was a wildly
inventive writer. Robert A Maguire's translation of Dead Souls is a
revelation
for AS Byatt. Saturday October 30, 2004. The Guardian
Gậy Ông Đập Lưng Ông
Cuộc
chiến vượt biên giới,
vào sâu đất liền giết hại đồng bào ta đập phá nước ta năm 1979 của
những tên
xâm lược TQ được giải thích là một cuộc “đánh nhau”! Nghĩa là không có
kẻ đi
xâm lược và người bị xâm lược. “Địch” ở đây chính là Việt Nam, giết Việt Nam
tức là giết địch (!) Thứ lý
luận lưu manh truyền kiếp và tàn độc đó lại được “anh em ta” ở nhà xuất
bản Văn
Học dịch ra in thành sách để đồng bào mình đọc(!) Thật không còn gì bỉ
ổi hơn,
khi những tư tưởng đó được giới thiệu ở bìa sách là : “Một cách ca tụng
riêng
về chủ nghĩa anh hùng”!
*
Cái đoạn trên đây, Gấu không
dám xuyên tạc, nhưng giả sử me-xừ Đào Hiếu đổi đi một tí, là nó biến
thành cuộc
chiến giữa ta, Miền Bắc, và địch, Miền Nam liền tù tì!
“Một cách ca tụng
riêng
về chủ nghĩa anh hùng”!
Tuyệt!
Nào đâu là Nguỵ bị giết, nào đâu là liệt sĩ được nhân dân đời đời nhớ
ơn!
Hiện nay có đến 40
nghĩa
trang
ghi
ơn người Trung Quốc như thế này trên đất nước Việt Nam.
Sortie des «Bienveillantes»
en Angleterre et aux Etats-Unis
Le «NY Times» n'aime pas
Littell
Mẽo [tờ NY Thời Báo, đúng hơn], không khoái Littell.
Nhưng Littell, tuy là Mẽo, đâu khoái Mẽo?
«Le nazisme est une
possibilité de l'humain, pas une histoire allemande»
Chủ nghĩa Nazi là một khả thể
của con người, đâu phải lịch sử Đức?
« Que reste-t-il de la
culture française ? - Le souci de la grandeur »
Văn hóa Tây còn lại gì? Nỗi âu
lo về đỉnh cao.
Chẳng phải chờ dịch qua tiếng Anh, tờ
Người Kinh Tế đã chê rồi: Một trường hợp tồi về chuyện hơi bị
nứng quá!
Nhưng tờ Guardian, Observer đúng hơn, khen: The evil that ordinary men can do:
Cái ác người thường có thể làm
*
Nguồn tác phẩm: Một thiếu nữ
Nga bị Nazi tra tấn và sau đó treo cổ.
Les Bienveillantes
The Lost
Domain
Le
Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là
“bản gốc”,
cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác
giả cuốn
Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn
nổi tiếng
Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn
nào biết,
làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn
làm phiền
tôi lắm lắm…”.
Nhưng
đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là 'bản
gốc' của
nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như như John Fowles.
Nhà văn Hồng Mao
này có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông.
Với ông này, Anh Môn có
tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra
bằng một
câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
"Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi
nó bị thực tại ôm chặt không
sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực
mình, hoặc
tính chơi cha nó”. [I like the marvelous only when it is strictly
enveloped in reality, not
when it usepts or exceeds it].
*
Fowles viết, Miền đã mất,
The Lost
Domain [Le Grand Maulnes], là, về nỗi nhức nhối sâu thẳm, và niềm
bí ẩn của
tuổi mới lớn [the deepest agony and mystery of adolescence].
Tuổi mới lớn, tuổi vào đời, thời thanh niên… không được giới nghệ sĩ
hâm mộ,
nhất là nữ nghệ sĩ. Bà nào thì cũng đau đáu đến tận già, tới khi xuống
lỗ, về
một 'vết thương dậy thì', như Tuý Hồng đã từng miêu tả, chẳc hẳn thế?
Chàng quay ra đóng cửa phòng, và quay vô đóng đinh tôi lên giường!
Tuyệt,
tuyệt!
Còn Trần Thị NGH, thì, ôi má ơi, má ơi, nó làm thịt con rồi!
[Dzui thôi mà,
đừng giận nhé! NQT]
Sự khôn ngoan, wisdom, trưởng thành, maturity, và vai vế trong cộng
đồng, là
những điều mà chúng ta tìm kiếm, cả ở trong giới nghệ sĩ lẫn phê bình,
như
Thomas Hardy chỉ ra trong cuốn tiểu thuyết sau cùng của ông, The
Well-Beloved. Tuổi thơ thích đáng, childhood proper, bất hạnh hay
không bất
hạnh, thì cũng đành chịu. Nhưng tuổi vào đời thì có thể là một tuổi
người lớn
rất không ư hoàn hảo, a very imperfect adulthood. Nó, tuổi mới lớn, thì
lý
tưởng, nổi loạn, dữ dằn, mơ hồ, một mầu xanh trải dài, không chín, chưa
chín,
còn non, unripe – tuổi ‘lãng mạn’ theo đủ nghĩa xấu xa của từ này.
Và, giờ đây, với cuốn này, Miền Đã Mất, Anh Môn: cuốn tiểu
thuyết vĩ đại
nhất về thời mới lớn của văn chương Âu Châu.
*
Fowler viết:
“Tôi ngờ rằng,
Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm
thấy
hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu, analyze,
nó. Tôi
nhớ ra là, chính mình đã cảm nhận ra điều trên, khi đọc nó, lúc còn là
học trò,
nhiều năm trước đây. Đó là một kinh nghiệm về một sức mạnh kỳ lạ, đụng
tới rất nhiều vùng bí ẩn ở trong cái cõi thiên nhiên của chính tôi, mà
tôi thực tình chẳng muốn bất cứ kẻ nào nói cho tôi biết, như thế nghĩa
là gì. [It
had been an experience of such strange force, touching so many secret
places in
my own nature, that I really did not want anyone to tell me what it
meant]…. Nếu
phải so sánh cuốn sách với bất cứ một cuốn sách nào khác, thì đó là một
điều
báng bổ."
Trò chuyện với
dòng sông
Quê hương
tưởng tượng
Văn chương không
phải là thứ công chuyện sao chép một số đề tài nào đó, cho một vài nhóm
nào đó.
Về phẩn rủi ro: những rủi ro thực sự mà bất cứ một nghệ sĩ gặp phải
trong tác
phẩm mình, là khi người đó đẩy tác phẩm của mình tới những giới hạn của
sự khả
thể, trong toan tính có được tối đa, điều gợi suy nghĩ. Những cuốn sách
trở nên
tốt, khi chúng cheo leo ở mỏm, đỉnh, mép, bờ, và chỉ cần xém một tí, là
tiêu
táng thòng, và kẻ đẻ ra nó, tẩu hoả nhập ma, do cái điều anh ta dám,
hay không
dám, trên bình diện ‘nghệ thuật’.
Bởi vậy, nếu tôi
phải nói thay cho những nhà văn Ấn độ, tại Anh, thí dụ, tôi sẽ nói điều
này, lấy
ra từ H.Harter, của G.V. Desani: Những
cuộc di dân thập niên 1950 và 1960 đã xẩy ra. ‘Chúng tôi hiện hữu.
Chúng tôi hiện
hữu, tại đây’. Và chúng tôi không muốn bị tống ra khỏi bất cứ một phần
nào gia tài của chúng tôi; thứ gia tài bao gồm cả hai thứ quyền lợi,
thứ nhất, quyền
lợi của một đứa bé Ấn độ sinh ra tại Bradfort, được đối xử như là một
thành viên
đầy đủ, hoàn toàn, của xã hội Anh, và quyền lợi, như của bất cứ một
thành viên
nào trong cộng đồng hậu lưu vong, post-diaspora community, khư khư ôm
chặt
lấy những cội nguồn nghệ thuật của nó, y hệt như mọi cộng đồng trên
toàn thế giới,
của những nhà văn mất mẹ nó quê hương, những nhà văn dời đổi, bán xới.
(Tôi đang nghĩ tới, thí dụ, về một Danzig-trở thành-Gdansk của Grass,
về một Dublin bỏ chạy của Joyce, Isaac Bashevis Singer, Maxime Hong
Kingston, và
Milan Kundera và nhiều người khác nữa. Một danh sách dài).
Kỷ
niệm đẹp trong đời viết văn
Cái mẩu
sáng tác
đầu tiên, khi tới xứ lạnh, Ký Ức Còn Mãi, Gấu viết theo
‘order’, của một
đệ tử của NTV, tay này lúc đó phụ trách một đặc san sinh viên học sinh
Mít, Gấu
nhớ đại khái.
Cô bạn là
người đầu tiên đọc bản thảo, than, anh đâu phải là tôi, anh
đâu phải
là đàn bà, mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của tôi, như thế?
Còn Gấu Cái,
thì bực lắm, và, lẽ dĩ nhiên, chê, đúng là thứ văn cải
lương, vãi
lệ!
Mẩu văn sau
mất tiêu luôn cùng tờ báo, và Gấu viết lại, nhưng, mất mát,
phiêu
lạc, quên lãng, tất cả, chỉ còn một câu độc nhất:
Tôi cứ
tưởng tượng ra một người đàn bà, sau khi làm hết bổn phận với
chồng với
con, với cuộc đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân yên
giấc,
lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng sâu là hồn mình, rồi hồi
hộp, âu lo,
đợi chờ tiếng vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ…(1)
Câu
độc nhất còn nhớ lại được đó, sau này Gấu lại sử
dụng, để viết về một… cô gái khác, khiến "cô
khác" này hiểu lầm, ‘chú viết như vậy không được kín đáo’, cô viết mail
than
phiền.
Ấy là vì, cô,
dung nhan, phong thái y hệt cô bạn ở trong Cõi Khác,
và
trong Ký Ức Còn Mãi. Cái cô than thở, anh đâu phải là tôi, mà
sao đọc ra
lòng dạ của tôi, tại sao bao nhiêu năm rồi, mà những tình cảm của anh
dành tôi
ngày nào vẫn y như vậy?
Cái cô bạn, mà
Gấu những ngày còn trẻ, khi, vừa nghe nói tên một cái,
là đã
đinh ninh, đây là một nửa linh hồn của mình, vậy mà vẫn muộn màng,
không kịp
với số mệnh, số mệnh theo nghĩa, đến thần thánh, Thượng Đế, ma quỉ… bất
cứ cái
gì gì cũng phải cúi đầu khuất phục!
Ngay cả Gấu
Cái, lần đầu tiên nhìn thấy cô sau, cũng giật mình, sao mà
giống
’cô phù dâu’ ngày nào thế!
(1) Câu văn,
mãi sau này, Gấu tìm ra nguồn của nó, là của một nhà văn
nước
ngoài, nói về chuyện in thơ ở Mẽo, cứ như thả một cánh hoa xuống Grand
Canyon,
rồi đợi tiếng vọng của nó, đại khái như vậy.
Thú thực,
không hiểu, Gấu viết câu của Gấu, rồi mới đọc câu của người,
hay
ngược lại.
Tuy nhiên, đọc
kỹ, ngửi ra mùi hiện sinh, Camus, trong Người đàn bà
ngoại
tình. Truyện ngắn này, hay đúng hơn, toàn cõi văn của Camus là đều
chỉ để
nói về Lưu đầy và Quê nhà: Quê nhà là cõi đã mất kia.
Tôi xa
người xa môi rất tham
Em như
gió núi, như chim ngàn
Em xa
xôi quá làm sao biết
Tôi âm
thầm như cơn mê hoang
Tôi xa
người xa không hờn oán
Vườn tôi trăng lạnh đến hoang
tàn
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về như vết
thương...
Ui
chao, già rồi mới thèm ơi là thèm, giá có tí kỷ niệm như trên với
Thánh Nữ:
Tôi xa người xa môi rất
tham!
Quê Nhà chắc là cõi Môi Người đã mất kia?
*
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về như
vết
thương...
DTL
Tuyệt cú! Thần cú!
Nhưng, tuyệt ở đâu, thần ở đâu?
Gấu tưởng tượng ngày nào em gục đầu trên vai anh mà
khóc, mà mếu, mà nũng nịu, mà, mà, mà..
Thành ra mới ra
cái cảnh buồn ngất trên vai áo.
Và những giọt mưa ở đâu về vào lúc này, làm tấy lên những giọt nước mắt
trên vai ngày nào!
Thì cứ tàm tạm
như vậy!
*
Khi tới được trại tị
nạn Thái
Lan, vào năm 1989, nhìn tờ báo của nhóm kháng chiến thấy tên nữ văn sĩ
TD trên
măng sét, Gấu vội vàng viết ngay lá thư cầu cứu. Khi đó, bà đang được
một cái
học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa, và trong thư trả lời, bà cho
biết cái
thư của Gấu đã phải đi hơn một nửa vòng trái đất mới tới bà. Bà than
giùm Gấu,
sao đi muộn thế? Hết mùa vượt biển từ đời nảo đời nào rồi.
May mà bà không rủa, sao
không ở lại với VC luôn cho được việc?
Nhưng rủa thì rủa, bà cũng
viết thư cho ông chủ PEN Mít hải ngoại, và sau đó, Gấu nhận được cái
thư của
ông Trùm PEN Mít hải ngoại, thư gửi cho bà TD, đại ý, bà yêu cầu tôi
can thiệp
cho một nhà văn nào đó [chữ này của ông Trùm PEN, Gấu còn nhớ rõ],
nhưng lại
không cho biết địa chỉ, làm sao tôi can thiệp. Thế là Gấu theo địa chỉ,
gửi thư
cho ông Trùm. Ông trả lời sau đó ít lâu, kèm cuốn sách của ông, viết
bằng tiếng
Anh, và kèm lá thư can thiệp của ông, với Cao Uỷ và nhà nước Thái Lan.
Chẳng ai gửi cho một đồng
nào.
Giá có tí tiền còm kèm tin
vui thì thật là tuyệt, Gấu nghĩ thầm!
Người gửi tiền đầu tiên cho
Gấu, là Nguyễn Đông Ngạc. Gấu đoán là, nhờ NDN mà ông Trùm đã sốt sắng
giúp
Gấu. NDN gọi phôn đi tứ lung tung, nào DN, nào VL, nào…. Tất cả những
bè bạn
được gọi đó bèn phôn tiếp cho ông Trùm PEN, nhờ can thiệp cho Gấu.
Cái sự Gấu có được địa chỉ
của NDN thì thật là tuyệt vời. Nếu không, chắc thua nặng.
NQT & VHNT
Tổ Quỉ
Đỉnh
cao chói lọi
V/v Lời dối trá đỉnh
cao thời
đại
Phim The Holcroft
Covenant,
phỏng theo tiểu thuyết của Robert Ludium, cha đẻ điệp viên Bourne, là
cũng về một
lời dối trá tàn khốc. Phim bắt đầu bằng cảnh Bá Linh sắp
sửa lọt vào
tay Đồng Minh, và đám sĩ quan Nazi đánh canh bạc chót, nhắm vào đám con
nít đã được tung đi khắp thế giới, nằm vùng, chờ khi lớn lên, sẽ tụ
tập lại, dưới
cờ Nazi, dưới sự lãnh đạo của một Tân Hitler, có trong tay một số tiền
bạc khổng
lồ, từ một account chờ sẵn ở Thụy Sĩ.
Đâu có khác gì đám con nít Miền Nam vượt Trường Sơn ra Bắc, chờ lớn lên
trở về chiến đấu tiếp, đời này qua đời khác, 20 năm, 100 năm cũng đánh,
bất kể tổn thất [lời Võ tướng quân].
Tay Trùm Nazi
mastermind của
chiến dịch này, có bà vợ do không chịu nổi anh chồng Nazi khùng, đã bỏ
đi Mẽo
cùng đứa con trai, và lấy một anh chồng Mẽo. Đứa con trai trở thành Mẽo
chính cống,
không hề biết bố ruột, cho tới khi được tay chủ ngân hàng
Thụy Sĩ
cho biết, về số tiền khổng lồ, và cái thư tuyệt mệnh của ông bố Nazi.
Ông bố viết thư cho
con trai, trước khi bắn hai bộ hạ thân tín, và bắn vô đầu mình, tỏ ra
rất đau lòng, vì đã lầm đường lạc lối, và hy vọng ông con trai sẽ
thay bố
tạ tội với nhân loại, dùng số tiền khổng lồ giúp đỡ những nạn nhân Do
Thái,
vv và
vv. Ông con nói với mẹ. Bà mẹ ngạc nhiên quá, thằng
bố mày khùng điên, cứt Nazi lên tới tận óc, sao lại
có chuyện
quái đản này. Ông con nói, tỉ tỉ bạc đâu phải chuyện đùa. Chỉ cần con
đi Thụy Sĩ, ký tên cái rẹt, là xong.
Ui chao, quả lừa này,
chẳng
khác gì lời
dối trá vĩ đại của Bác, thắng trận này, ta sẽ đưa đám Ngụy đi cải
tạo mút mùa
lệ thuỷ, ấy chết xin lỗi, Bác nói, sẽ xây cái nhà Mít to lớn đàng hoàng
hơn
trước!
US Ranger Capt. Jeff Tuten
advisor to Vietnamese battalion on mission
against Viet Cong unit
in
Kien
Giang Province.
Location: Vietnam
Date taken:
1963
Photographer: Larry Burrows
Hình ảnh chiến tranh Việt Nam của tờ Life
Note:
Cái máy đeo sau lưng
tay cố vấn Mẽo, là máy truyền tin MK2 hay MK3, do Tây
để lại. Sau phế thải, được Bưu Điện sử dụng. Gấu đã từng sửa những cái
máy như
thế, hồi mới ra trường Bưu Điện, đi công tác mấy đài VTD địa phương.
Bây giờ,
nó là cái Cell phone.
1963. Chỉ có mấy anh
Mẽo Cố
Vấn quèn. Vào năm 1967, khi thằng em Gấu tử trận, nhờ một tay cố vấn
như vậy giúp đỡ, mà Gấu đưa được xác thằng em
lên chiếc
C.130, tại phi trường Sóc Trăng, mang về nghĩa trang Gò Vấp mai táng.
Vào lúc đó,
xác thằng em, dù được bọc quan tài kép [trong kẽm, ngoài gỗ],
nhưng khi Gấu
xuống tới Sóc Trang thì đã cả tuần lễ, xác bắt đầu bốc mùi, nếu không
có tay cố
vấn, có khi phải chôn tại Sóc Trăng cũng nên.
Thằng em chết, khi
chưa kịp
thông báo địa chỉ cấp báo thân nhân!
Sau cú ngụy tạo, Diệm
đầu độc
tù VC ở trại tù Phú Lợi, đám VC miệt vườn nằm vùng, theo lệnh Bắc Bộ
Phủ, phịa ra MTGPMN, làm mồi
nhử Mẽo nhẩy vô Miền Nam, phát động cuộc chiến ăn cướp.
Đây là một quả lừa vĩ đại. Một "đại gia Quả Lừa", thuổng chữ của đại
gia Trịnh Lữ.
Đúng ra, từ "đại gia" là của Gấu. Gấu là người đầu tiên sử dụng nó,
trong bài viết về tiểu thuyết lịch sử. Tuy nhiên, khi Gấu dùng, là để
chỉ những trưởng môn nhân của một trường phái văn học. Sau này, trong
nước chôm của Gấu, và dùng để chỉ mấy đấng có tiền, ăn chơi phè phỡn,
làm băng hoại, tha hóa [chữ của Vương viên ngoại, VTN] từ 'đại gia'
này. Chán thế đấy.
Giả như Mẽo không đem quân vô Miền Nam, và
có trưng cầu dân ý hai miền thống nhất đất nước, theo hiệp định Genève,
thì Miền Nam vẫn là Miền Nam, không lâm cảnh đầu hàng. Chính vì thế mà
khi DVM đuổi Mẽo, ra lệnh VNCH hạ khí giới, ông ta mới nói, chờ bàn
giao, xong là ông về vườn đuổi gà cho vợ, còn anh VC Miền Bắc thì nói,
mày còn cái gì nữa mà bàn giao?
*
Đại úy [VC] Phạm
Xuân Thệ tay vẫn lăm lăm súng ngắn, áp giải Dương Văn Minh, Vũ
Văn Mẫu ra xe đi
đến đài phát thanh.
[Hình trên net, diễn đàn X-Cafe]
DVM chắc không bao giờ nghĩ VC đối xử với ông như thế này?
*
Lịch sử càng ngày càng rõ,
nhưng mấy anh VC nằm vùng đâu có chịu như
vậy? VC Miền Bắc khỏi nói, vì họ quá rành cái dã tâm của họ, không lẽ
đám
Miền Nam không bao giờ dám nhìn thẳng vào sự thực?
Không có MTGP Mẽo chẳng có cớ gì để nhẩy vô Miền Nam.
Trong chiến tranh VN có mấy quả lừa. Cú Phú Lợi, cú Maddox. Cú Phú Lợi,
là để nhử Mẽo vô. Cú Maddox, do Mẽo ngụy tạo, lấy cớ ném bom Miền Bắc,
không phải để leo thang chiến tranh, mà là để chuồn.
Không hiểu có giống
bức hình của nhà nước ta hay không?
Chiếc tăng này mang
số 843? (1)
(1)
Nayan
Chanda, làm cho Reuters
và Far Eastern Economic Review, nhớ lại cảnh, nhìn Ẩn đứng ngay trước
Dinh Độc
Lập vào ngày cuối của cuộc chiến, khi chiếc xe tăng Cộng Sản số 843 xô
tung
cổng sắt tiến vô.
"Có
một nụ cười là lạ,
diêu diễu nở ra trên khuôn mặt anh ta. Có vẻ như anh ta hài lòng và cảm
thấy
hòa bường với chính anh ta. Tôi thấy kỳ kỳ," Chan nói.
Sau
đó, Chan hiểu ra rằng,
anh ta đang ăn mừng chiến thắng của Cộng Sản, mà trong chiến thắng đó,
có công
lao nằm gai nếm mật ròng rã ba mươi năm của chàng.
Bass: Ẩn hả,
nhớ chứ? The Spy who loves US
Người
viết nghe nói bức hình
lịch sử chụp cảnh xe tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải
chụp tới
hai lần. Ủi sập rồi, lại phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn tin rất
đáng
tin, nhưng vì không tận mắt chứng kiến (lịch sử), cho nên đành ngưng
tại đây (1)
(1) Người viết
sau đó được biết, Bùi Tín đã xác nhận chuyện này. Ông cho biết thêm, cả
tấm
hình lịch sử cờ CS phấp phới trên đỉnh Điện Biên Phủ, cũng được "làm
lại".
*
Không có sự hỗ
trợ của dân Đức,
không thể xẩy ra vụ Lò Thiêu
Cũng
thế, nếu không có sự hỗ
trợ của dân Miền Bắc, không thể nào có chiến thắng Miền Nam,
và sau đó
xẩy ra Lò Cải Tạo.
Không
lẽ, dân Bắc thù dân Nam,
như dân Đức
thù Do Thái?
Đây là một thai đố thật là
thú vị. Từ từ Gấu sẽ giải ra sự bí mật!
*
Đọc "văn hóa
Gulag", Gấu có một thắc mắc, nhân một ý tưởng của Solz mà ra: Tại sao
tù cải tạo Miền Nam
được đưa lên mạn Cực Bắc, và chỉ sau khi xẩy ra cuộc chiến biên giới
với TQ, mới được sơ tán xuống miền dưới?
Ý tưởng, sự
hiện hũu của Gulag thực ra là có từ hồi còn Nga Hoàng, như Anne
Applebaum cho thấy. Liệu cái vụ đưa tù cải tạo lên mạn cực bắc, cũng có
từ thời tiền CS Mít, và cũng đã ăn sâu vào tận xương tận tuỷ Yankee mũi
tẹt?
Solz nhìn ra,
có một sự triển khai nhịp nhàng giữa Khủng Bố và bùng nổ Trại Tù: những
vụ bắt bớ tập thể là cách nhanh chóng nhất để cung cấp nguồn nhân lực
vô hạn và rẻ như bèo cho nền kỹ nghệ hóa khổng-khổng-khổng lồ của
Stalin [super-super-super-industrialization]
Nói một cách
khác, thật giản dị, đã có nghị quyết từ trước, càng nhiều trại được sửa
soạn theo cùng một nhịp với những vụ bắt bớ tập thể vô tư được lên kế
hoạch [In other words, putting it simply, it was proposed that more
camps be prepared in anticipation of the abundant arrests planned].
Như vậy, cái
vụ đưa tù cải tạo ra Bắc, là cũng đã được lên kế hoạch, từ trước khi
cướp được Miền Nam, và những 10 ngày cải tạo là cũng đã được proposed
từ khuya?
Hell
*
Validimir
Fédorovski là nhà
văn, cựu nhân viên ngoại giao, tác giả cuốn Bóng Ma Staline, nhà xb du
Rocher.
Ông đưa ra một cái nhìn mới về nhà độc tài. Và những người kế thừa.
-Tại sao Staline
trong cuốn
mới nhất này?
Staline là nhân vật
chính của
chính trị Nga, một trong những tên sát nhân lớn lao nhất của thế kỷ 20,
những
cũng còn là một nhà chính trị lớn lao nhất. Ngay cả Lénine cũng không
để dấu ấn
đậm như ông ta trong cái gọi là tâm tính của Nga, la mentalité russe,
cũng như
trong hồi ức của thế giới. Nhưng đã có một trò ma nớp lịch sử lớn lao,
nhằm
chống lại ông ta, phần lớn là do Trotski. Ông này đã định nghĩa
Staline, như
một sự tầm thường lớn lao của Đảng [la plus grande médiocrité du Party].
-Ông phục hồi danh dự
cho ông
ta? [Vous le réhabilitez?].
Không, làm gì có
chuyện đó.
Tôi nói, những sự kiện thật là phức tạp, không như bề ngoài chúng có
vẻ, chỉ có
vậy. Khi viếng thăm căn nhà của Staline, tôi thực sự kinh ngạc, về cái
sự đọc
của ông ta. Và nếu như thế, trình bầy ông ta như là một "inculte",
một tên vô văn hóa, vô học, thì đúng là làm sai lạc thông tin,
désinformation.
Staline ít dành thì giờ cho những tác phẩm Mác xít, nhưng ông ta rành
rẽ
Platon, huyền học, l'ésotérisme, thần học, và nhất là, Lịch Sử.
-Để đem ra ứng dụng
vào chính
trị?
Ông ta chú ý đến cái
gọi là
"mã tâm tư" của xứ sở, le code mental du pays. Tới một nước Nga muôn
đời, vĩnh
hằng, điều Poutine đang toan tính. Fernand Braudel đã nói tới "một lịch
sử
dài" của một xứ sở. Chính trong cung cách đó, trong niên biểu lịch sử
dài
đó, mà Staline được đưa vô đăng ký, qua hai danh hiệu: như là một kẻ kế
thừa
của Lénine, và như là một kế thừa của những Nga Hoàng. Nhưng chính trong cái
dòng đăng ký thứ nhì đó, mới thật là thiết yếu, đối với ông ta: Như một
trong
những vì vua của nước Nga ngàn đời, cách ông ta ứng xử, hành động,
những sự can
thiệp của ông ta, ngay từ năm 1924, và sau đó, trong thời kỳ chiến
tranh, khi
ông ta nói với dân Nga, khi gọi họ là những anh em, những chị em
[frères et
soeurs], khi nhắc tới những vị thánh, và Chúa Ky Tô. Chính là bằng cách
đó, mà
ông ta đã đã xây dựng một sự tiếp nối, liên tục mang tính lịch sử.
Không nhận
ra điều này, là không thể hiểu tại sao ông ta được lòng nhân dân đến
như vậy,
và sống dai đến như thế. Và cũng chính vì thế mà ông ta còn là một
trong những
tên giật dây, dàn dựng, lớn lao nhất, un très grand manipulateur, và
điều này
là được gợi hứng từ mật vụ Nga Hoàng.
Đọc, mới ngộ ra, tại
nàm sao
Bác Hồ vỗ vai Lịch Sử, bác bác tôi tôi với Đức Thánh Trần... Các Vua
Hùng dựng
nước, Bác Cháu ta giữ nước. Lịch sử VC kéo dài tới bốn ngàn năm văn
hiến, tới
thời Hùng Vương, Âu Lạc. Và nếu như thế dân Mít còn khốn khổ dài dài!
*
Nhưng, những điều
trên, về
"lịch sử dài", Tolstaya đã từng phán y chang: Tội nghiệp cái giống
dân Á Châu, chúng sống bằng Lịch Sử, trong khi dân Âu Châu, sống bằng
Văn Minh.
Thành thử, trong mỗi
một anh
Yankee mũi tẹt, đều còn nguyên những nỗi kinh hoàng, của trận đói năm
Ất Dậu,
thí dụ vậy, và khi chiếm được Miền Nam, chúng ních cho thật chặt, thật
đầy, túi
tham, hy vọng triệt tiêu nỗi sợ đói, sợ khổ, chẳng bao giờ giống Yankee
mũi tẹt
còn phải lo đói nữa.
Đây là một kinh nghiệm có
tính cá nhân. Suy bụng một thằng Yankee mũi tẹt, ra mọi thằng Yankee
mũi tẹt
khác.
Bà chị
họ Gấu, vợ ông Hiếu
Chân, kể, mỗi lần bà đi buôn bán xa nhà chừng năm bữa, nửa tháng, khi
nói với
đứa con gái lớn, [thực ra là con ông anh ruột của Hiếu Chân, cả hai vợ
chồng
ông anh này đều chết trẻ], chừng năm hoặc sáu tuổi [thời gian 1950], cô
bé bèn
chạy ngay tới cái lu đựng gạo, thấy còn đầy, là yên chí bé, quay ra
chơi nhẩy
dây tiếp.
Bóng Ma Stalin
Dọn
|