|
Gậy Ông Đập Lưng Ông
Cuộc
chiến vượt biên giới,
vào sâu đất liền giết hại đồng bào ta đập phá nước ta năm 1979 của
những tên
xâm lược TQ được giải thích là một cuộc “đánh nhau”! Nghĩa là không có
kẻ đi
xâm lược và người bị xâm lược. “Địch” ở đây chính là Việt Nam, giết Việt Nam
tức là giết địch (!) Thứ lý
luận lưu manh truyền kiếp và tàn độc đó lại được “anh em ta” ở nhà xuất
bản Văn
Học dịch ra in thành sách để đồng bào mình đọc(!) Thật không còn gì bỉ
ổi hơn,
khi những tư tưởng đó được giới thiệu ở bìa sách là : “Một cách ca tụng
riêng
về chủ nghĩa anh hùng”!
*
Cái đoạn trên đây, Gấu không
dám xuyên tạc, nhưng giả sử me-xừ Đào Hiếu đổi đi một tí, là nó biến
thành cuộc
chiến giữa ta, Miền Bắc, và địch, Miền Nam liền tù tì!
“Một cách ca tụng
riêng
về chủ nghĩa anh hùng”!
Tuyệt!
Nào đâu là Nguỵ bị giết, nào đâu là liệt sĩ được nhân dân đời đời nhớ
ơn!
Trò chuyện với
dòng sông
Quê hương
tưởng tượng
Nhưng con người, thứ nhân sinh hèn mọn không
làm sao nhìn trọn sự vật: chúng ta đâu phải là thần thánh, mà chỉ là
những sinh vật bị thương, những gương kiếng bể vỡ, chỉ có những cái
nhìn thủng lỗ, hay, chỉ có thể nhìn qua lỗ thủng! Những sinh vật mảnh,
miểng, manh mún, vụn vặt… với tất cả những ý nghĩa của những từ này.
Nghĩa, ý nghĩa.. là một thứ khung, giàn, công trình… mà chúng ta xây
dựng lên, từ những mảnh vụn, những định kiến, những giáo điều, những
vết thương dậy thì, [childhood injuries], những mảnh tin tức báo chí,
những nhận xét may mắn đọc được ở đâu đó, những phim ảnh coi từ hồi
nào, những thành công nho nhỏ, những con người yêu thương, hoặc hận
thù; có thể chính là vì chúng bất toàn, manh mún, tủn mủn như thế, cái
công trình mà chúng ta gọi là "‘đời của mi' đâu rồi hôm nay không đi
đón mi" (1), mà chúng ta đã chiến đấu bảo vệ nó một cách kiên cường,
dũng mãnh, và nếu cần, đem cả cái chết ra để mà bảo vệ! Cái vị trí toàn
cảnh như me-xừ Fowles đòi hỏi như thế đó, theo tôi, là một cách chịu
thua, đầu hàng một ảo tưởng mà chúng ta gọi là guru-illusion,
qua đó, tác giả ông nhà văn, nghĩ mình là một thứ Thượng Đế.
(1) "Đời của tôi", Bích Nga thường gọi chàng bằng
những tiếng kỳ cục, "Đời của mày hôm nay đâu rồi, sao không đi đón
mày?"...
Lan Hương
Nhà văn không còn là
những vị
hiền giả ban phát sự khôn ngoan từ bao thế kỷ. Và những kẻ trong số
chúng ta buộc
phải dời đổi văn hóa đành chấp nhận vẻ tạm thời của mọi sự thực, mọi
chính xác,
đành chấp nhận chủ nghĩa hiện đại giáng lên đầu lên cổ chúng ta. Chúng
ta đâu có
vỗ ngực xưng tên, chúng mình là những thi sơn thi bá, bởi vậy, mặc sức
mà miêu
tả thế giới của chúng ta, theo cách mà chúng ta, nhà văn hay không nhà
văn, cảm
nhận nó, ngày này qua ngày nọ.
Trong Những đứa trẻ của nửa đêm,
người kể chuyện, Saleem, tới một lúc, đã sử dụng ẩn dụ màn ảnh ciné để
lèm bèm
về vấn đề cảm nhận, perception: “Giả dụ như bạn đang ngồi, ở hàng ghế
chót trong một
rạp ciné rộng lớn, và cứ thế lừ đừ tiến tới… cho tới khi mũi của bạn
chạm vô màn
ảnh. Bộ mặt của những ngôi sao cũng từ từ biến thành những cục, những
hạt, những
điểm, cứ thế nhẩy múa, những chi tiết nhỏ bé biến thành to lớn, thô
kệch, chẳng
giống ai… tới một lúc, rõ ràng là, ảo tưởng, chính nó, là thực tại.” Sự
chuyển động
tới màn ảnh, là ẩn dụ về sự chuyển động kể, a metaphor for the
narrative’s movement,
xuyên qua thời gian, tới hiện tại, và cuốn sách, chính nó, trong cung
cách mà nó
gần gũi với những sự kiện đương thời, mất đi mọi viễn tượng chiều
sâu, và trở
thành manh mún [partial]. Tôi không muốn cố gắng [thí dụ] viết về một
tình trạng
Khẩn cấp, cùng một cách như là tôi viết về những sự kiện xẩy ra cả nửa
thế kỷ
trước. Viết về chuyện xẩy ra ngày hôm kia, tôi cảm thấy mình không
trung thực,
khi cho rằng, có thể nhìn toàn thể bức tranh. Tôi chỉ có thể chỉ
cho thấy,
một số mẩu đoạn của nó.
*
Một lần
tôi tham dự vào một
hội nghị về cách viết hiện đại tại New College,
Oxford.
Rất
nhiều nhà văn, trong có tôi, hăm hở nói về sự cần thiết
những cách thức, đường hướng mới để miêu tả
thế giới. Thế rồi nhà viết kịch Howard Brenton đưa ra đề nghị, sự cần
thiết ghê
gớm như chúng ta đang hăm hở lèm bèm đó, thì cũng có giới hạn, ấy là
bởi vì,
chẳng lẽ văn chương chỉ có thế, miêu tả, ngoài ra là chấm hết, là chẳng
có gì
nữa ư?
Hãy cho tôi áp dụng câu của
Brenton vào trường hợp những nhà văn đặc biệt Ấn độ, ở Anh, viết về Ấn
độ. Liệu
họ có thể làm hơn cái chuyện, miêu tả, từ một khoảng cách cái thế giới
mà họ bỏ
lại đó ? Liệu khoảng cách như thế mở ra những cánh cửa khác?'
Đây là những câu hỏi có tính
chính trị, lẽ dĩ nhiên. Và như thế, chúng phải được trả lời, ít ra, một
phần,
bằng thuật ngữ chính trị.
Trước hết, tôi phải nói ra
điều này: miêu tả, tự thân nó, là một hành động chính trị. Nhà văn da
đen Mẽo
Richard Wright có lần phán, nhà văn Mẽo, đen và trắng oánh nhau, trên
một trận
tuyến về bản chất của thực tại. Những miêu tả của họ không xứng hợp với
nhau,
chúng chỏi nhau, chảnh nhau. Thành thử, cái việc tái miêu tả,
redescribing, thế
giới, là bước đầu tiên để thay đổi nó. Đặc biệt là vào những thời kỳ mà
Nhà
nước [ta, đảng VC của ta] nắm mẹ nó mất thực tại vào trong tay của
chính họ, và
dã tâm, manh tâm vặn vẹo nó, gọt rũa, đánh bóng, tẩy xóa, sửa đổi...
quá khứ
sao cho hợp với yêu cầu hiện tại, và tạo ra những thực tại dởm, thực
tại thay
thế, ở trong nghệ thuật, trong đó có tiểu thuyết của hồi ức, hồi nhớ,
hồi ký…
tất cả đều được chính trị hoá, [viết dưới ánh sáng của Đảng như mấy anh
chị nhà
văn VC thường tự hào]. Cuộc chiến đấu của con người chống lại quyền
lực, như
Milan Kundera viết, ‘là cuộc chiến đấu của hồi ức chống lại sự lãng
quên’. Nhà
văn và nhà chính trị là hai địch thủ tự nhiên, thường ra là như vậy. Cả
hai bên
đều cố gắng làm thế giới, make the world, theo
như hình ảnh của chính họ. Họ đánh lộn cùng
trên một địa bàn. Và
tiểu thuyết là một cách để từ chối ấn bản chính thức của nhà nước, của
những
nhà chính trị, về sự thực.
“Sự thực Nhà nước” về cuộc
chiến ở Pakistan, thí dụ, quân đội Pakistan không phạm hành động dã man
nào ở vùng
mà hồi đó có tên là Đông Pakistan, và bây giờ là Bangladesh. Ấn bản này
thì được
đảm bảo bởi rất nhiều người tự miêu tả họ, là những nhà trí thức. Và ấn
bản chính
thức về tình trạng khẩn cấp tại Ấn độ, thì được Bà Gandhi, trong một
chương trình
mới đây, trên đài BBC, diễn tả, trơng một cuộc phỏng vấn. Bà nói, có
một dúm người
cho rằng, trong khi tình trạng khẩn cấp được ban hành, đã xẩy ra những
điều tệ
hại, thí dụ như bắt buộc triệt sản, cắt ống tinh trùng, đại khái như
vậy, nhưng
bà can đoan, chẳng hề có những chuyện đó. Người phỏng vấn, Mr. Robert
Kee, đã vờ
đi, không cật vấn gì thêm về một lời tuyên bố như vậy. Thay vì vậy thì
ông nịnh
bà, và nói với thính giả chương trình Panorama, rất nhiều lần, bà là
một người
dân chủ, và thật xứng đáng được coi như vậy.
Vì vậy, văn chương, khi gặp
trường hợp như trên thì bèn nói thẳng vào mặt nhà nước, nói như vậy là
nói dối.
Là bẻ cong sự thực. Nhưng, liệu chỉ những người bên ngoài Ấn độ mới dám
nói bảnh
như thế? Hay, bởi vì chúng ta chỉ là những thứ dân chơi tài tử, không
phải dân
chuyên nghiệp, trong những vấn đền như vậy, bởi vì chúng ta không liên
quan tới
những chuyện thường ngày ở huyện [do ở xa, biết gì mà nói?], và khi nói
như thế,
chúng ta chẳng bị hiểm nguy gì hết. Hơn nữa, ai cho phép chúng ta nói
ra như thế?
Câu trả lời của tôi thì thật
là giản dị. Văn chương tự nó đánh giá nó, tự kiếm ra giá trị của nó ở
trong chính
nó. Nói rõ hơn, điều chứng nghiệm một cuốn sách, thì không phải là khả
năng, giá
trị của tác giả viết nó, mà là phẩm chất của cái được viết ra. Có những
cuốn sách
khủng khiếp được thẳng ra từ kinh nghiệm, và có những chiến công lạ
thường do tưởng
tượng mà có được, một khi tác giả của chúng bắt buộc phải tiếp cận
những đề tài,
từ phía bên ngoài.
Văn chương không phải là thứ
công chuyện sao chép một số đề tài nào đó, cho một vài nhóm nào đó. Về
phẩn rủi
ro: những rủi ro thực sự mà bất cứ một nghệ sĩ gặp phải trong tác phẩm
mình, là
khi người đó đẩy tác phẩm của mình tới những giới hạn của sự khả thể,
trong toan
tính có được tối đa, điều gợi suy nghĩ. Những cuốn sách trở nên tốt,
khi chúng cheo
leo ở mỏm, đỉnh, mép, bờ, và chỉ cần xém một tí, là tiêu táng thòng, và
kẻ đẻ
ra nó, tẩu hoả nhập ma, do cái điều anh ta dám, hay không dám, trên
bình diện ‘nghệ
thuật’.
Kỷ
niệm đẹp nhất trong đời viết văn
Gấu có một kỷ niệm, cũng
thuộc
loại để đời, về một đấng bạn quí, nhưng cứ ngần ngại không viết ra, ấy
là vì, có
thể đấng bạn quí lại nghĩ thằng khốn nạn Gấu già rồi, sắp chết rồi,
không lo
tu, mà cứ lo vạch lưng ra cho người ta coi, cứ nhè mấy thằng bạn quen
từ thời còn
mài đũng quần trên ghế nhà trường mà phạng, nhưng không viết thì cứ tức
anh ách,
khốn nạn thế chứ. Và cũng không làm sao xếp nó vào vui hay là buồn?
*
One final legend, and my
chronicle
Is finished: the task
ordained by God...
Pushkin,
Boris Godunov
Một giai thoại chót, và ký
sự của tôi,
[về những ngày tháng đó],
hoàn tất.
Đây là do Ông Trời hành tôi.
D.M.
Thomas viết "Solzhenitsyn,
thế kỷ ở trong tao", "mê" nhất đoạn, trong lời tựa
Solz. mở ra "ẩn dụ" Lò Cải Tạo, hay Gulag:
Vào năm 1949 tôi và vài người bạn vớ được một ghi chú thật đáng tiền,
trong tạp
chí Nature, của Viện Hàn Lâm Khoa Học, về một vụ khai quật một vùng
băng nằm
dưới những tầng đáy ngầm của sông Kolyma River. Trong tầng băng ngầm
đó, có một
con suối, và trong con suối, họ khám phá ra một thứ sinh vật tiền sử [a
prehistoric fauna] cách chúng ta chừng hàng chục ngàn năm. Chúng được
bảo quản
tuyệt vời đến nỗi, còn tươi rói. Thế là cả đám người bèn đập bể mảng
băng ra,
và cứ thế nhai sống nuốt tươi sinh vật tiền sử đó!
Solz tiếp tục tưởng tượng ra sự kinh ngạc của độc giả tờ tạp chí, về
một thứ
sinh vật từ bao nhiêu ngàn năm trước còn tươi rói, nhưng đồng thời, dúm
bạn bè
của ông cùng hiểu ngầm với nhau, về cái ý nghĩa đích thực và hùng tráng
của một
'mẩu tin vô ý vô tứ như thế', ['thiếu cẩn trọng', chữ của Solz.], ấy là
nói, về
phiá 'nhà nước ta'.
Solz. viết, chúng tôi hiểu, liền lập tức, sự thực của câu chuyện, bởi
vì chính
chúng tôi, đã từng là đám người đó. "Chúng tôi, cũng như thế, cũng
thuộc
về cái bộ lạc zeks, độc nhất trên mặt đất này, những con người
có thể ăn
sống nuốt tươi, sinh vật tiền sử, với hứng thú, with relish".
Hai Lúa cũng đã từng trải qua kinh nghiệm trên đây rồi. Những ngày cải
tạo. Và
cái sinh vật tiền sử kia, thực sự chỉ là một con tép, tình cờ quơ được
trong
khi trầm mình dưới lòng kinh.
Đó là lần đầu, Hai Lúa biết cái ngon, cái ngọt, cái tươi, cái mát, của
một con
tép rẫy lách nhách ở kẽ răng.
Di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn, học hành, tốt nghiệp, làm việc ngay tại
Sài Gòn,
chỉ tới một ngày trầm mình trong một con kinh ta đào đã có nước chảy
qua đó,
Hai Lúa mới được thưởng thức một con tép tươi rói, quẫy ở giữa những
cơn đói
triền miên...
Bao nhiêu năm trời, Hai Lúa vẫn còn nhớ y nguyên những ánh mắt thèm
thuồng của
chúng bạn, và một thằng trong đó, hét lên:
-Đợp liền nó đi, thằng ngu!
*
Trao
đổi giữa người viết và bạn đọc
Qua trao đổi email với BBT, tôi được biết một số ý kiến của vài bạn đọc
trong
diễn đàn Ô Thước. Tôi xin ghi lại nguyên văn một email của bạn đọc:
Gởi
BBT VHNT,
Ý
kiến của vài bạn đọc trong diễn đàn OT cho thấy tác
giả NQT thỉnh thoảng gây ngộ nhận với phương pháp trích dẫn trong các
bài viết
của ông: tỉ dụ như có bạn phải hỏi lại xem câu văn là trích hay của tác
giả NQT
v.v.
Ngay
trong bài viết về Chân Dung và Đối Thoại của Trần
Đăng Khoa, ông cũng làm tôi hoang mang không biết lúc nào là văn TDK,
lúc nào
chuyển sang NQT. Xin lỗi về sự kém cỏi về tầm hiểu biết của người đọc
nhưng nếu
trích dẫn mạch lạc thì kém mấy cũng hiểu được vấn đề hơn.
Về
dịch thuật, khi chuyển ngữ câu La littérature est
"invention" = Văn chương là "bịa đặt". Dù đúng theo lối dịch
từng chữ nhưng sai lạc trong cả câu văn. Đọc nguyên câu bằng Pháp ngữ,
tôi thấy
Nabokov muốn nâng văn chương lên cao hơn ý tác giả trình bầy.
Xin
góp ý với ông NQT và BBT".
Trước hết, tôi (NQT) rất cảm ơn bạn đọc đã theo dõi những bài viết của
tôi trên
VHNT. Những thắc mắc hoàn toàn liên quan tới văn chương, cho thấy nhu
cầu trao
đổi giữa người viết và người đọc là cần thiết, và có tác dụng tốt cho
cả người
viết lẫn độc giả. Tôi đã trả lời riêng cho độc giả trên, nhưng suy đi
nghĩ lại,
thấy đây là một vấn đề cần bàn thêm, với sự tham gia của nhiều độc giả
khác
nữa. Như vậy, chúng ta (bạn đọc, BBT, người viết) sẽ càng gần gũi nhau
hơn.
Xin trả lời v/v trích dẫn.
Trong quá khứ, tôi đã hơn một lần được bạn đọc, và một số bạn văn, góp
ý về v/v
trích dẫn. Đây không phải là vấn đề "nhập nhằng" giữa viết và dịch,
mà là do lười biếng, không chịu phân đoạn rõ rệt. Một phần ỷ y, người
đọc nếu
chú tâm một chút, sẽ nhận ra. Tôi lấy thí dụ, trong bài viết "Văn
chương
sám hối?", một độc giả hỏi đoạn: "Trần Đăng Khoa sinh ngày... y chẳng
đam mê gì, và nói chung, y là một gã vô tích sự", là trích dịch, hay là
của NQT. Ngay trước đó, tôi đã viết: "Xin ghi lại Chân Dung Tự Họa để
độc
giả tiện bề theo dõi." Nhưng tôi đã sơ ý không dùng ngoặc kép để phân
biệt, và chấm dứt phần trích dẫn. Thứ nữa, nếu là một văn bản in, tôi
có thể
dùng chữ in nghiêng (italic), để phân biệt, nhưng trên VHNT, không thể
sử dụng
hai kiểu chữ (font) khác nhau.
Tôi
nhắc lại, ở đây, không có "sự kém cỏi về tầm
hiểu biết của người đọc", mà chỉ có "sự ẩu tả của người viết".
Xin nhận lỗi, và cố gắng khắc phục.
"Về dịch thuật, khi chuyển ngữ câu La littérarure est
"invention" = Văn chương là "bịa đặt". Dù đúng theo lối
dịch từng chữ, nhưng sai lạc trong cả câu văn. Đọc nguyên câu bằng Pháp
ngữ,
tôi thấy Nabokov muốn nâng văn chương lên cao hơn ý tác giả đã trình
bày".
Ở đây, tôi hoàn toàn không đồng ý với tác giả email.
Trước hết, lại nói về trích dẫn. Tôn trọng Nabokov, khi trả lời, tôi
không hề
để chữ invention vào trong ngoặc, như là bạn đã "tự ý" đặt vào. Và
đây là một lầm lẫn, đưa đến lầm lẫn thứ nhì, khi bạn viết: "Đọc nguyên
câu
bằng Pháp ngữ, tôi thấy Nabokov muốn nâng văn chương lên cao hơn ý tác
giả
(NQT) đã trình bày."
Như trong bài trích dẫn, "Người đọc tốt và người viết tốt" (trong Văn
Chương tập I, bản tiếng Pháp, nhà xb Fayard, loại sách bỏ túi), Nabokov
phân
biệt giữa văn chương (giả tưởng, bịa đặt), và sự thực. Ông đã viết một
cách
thật là "nặng nề": Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là giả tưởng. Gọi
câu chuyện là "chuyện thực", là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự thực.
(La littérature est invention. La fiction est fiction. Appeler une
histoire
"histoire vraie", c'est faire injure à la fois à l'art et à la
vérité.) Vì sự thực liên quan tới hiện thực cho nên ông giải thích
thêm: Thiên
Nhiên không ngừng đánh lừa. (La Nature trompe sans cesse). Ông viết:
"Mọi
nghệ sĩ lớn đều là ảo thuật gia lớn, và cũng thế, Thiên Nhiên là tổ sư
đại
bịp.... Nhà văn của giả tưởng chỉ việc đi theo con đường Thiên Nhiên đã
vạch
ra" (Tout grand écrivain est un grand illusionniste, mais telle
également est l'architrompeuse Nature.... L'écrivain de fiction ne fait
que
suivre la voie tracée par la Nature.)
Người
viết hy vọng trong một số tới, sẽ cống hiến bạn
đọc VHNT bản chuyển ngữ bài viết của Nabokov, và chúng ta sẽ bàn luận
thêm về
giả và thực, trong văn chương.
Một
lần nữa, xin cảm ơn tất cả.
NQT
Bài
này mới tìm được trong đống hầm bà làng documents,
vni_font
Nhân
tiện, xin độc giả Tin Văn tha lỗi, vì bài vở loạn
xà ngầu không làm sao theo dõi được, như một độc giả than phiền.
Sẽ nhờ người sửa sang nhà cửa.
Sorry abt that.
NQT
Note: Bài này, chắc cũng xưa lắm rồi Diễm ơi, từ cái thuởi Tin Văn còn
ăn nhờ ở đậu VHNT của PCL.
Tổ Quỉ
Đỉnh
cao chói lọi
Lời Cuối Cho Nam
Sau 25 năm, tờ Điểm Sách New
York 25 May, 2000, qua bài Việt Nam: Lời Cuối, tác giả Jonathan Mirsky
đã điểm
một số sách mới ra lò viết về vết thương cũ như Argument without End,
Reporting
Vietnam, American Tragedy (Bi kịch Mẽo), Guerrilla Diplomacy (Ngoại
giao Du
Kích)…
Bởi là
vì bàn cho lắm, tắm
cởi truồng (argument without end) cho nên Jennifer tôi xin được bỏ qua
những
nhận định của tác giả bài viết về những tác phẩm trên, mà chỉ ghi lại
những gì
ông viết về Bảo Ninh, và Dương Thu Hương, hai nhà văn Miền Bắc trực
tiếp tham
dự cuộc chiến và sau cùng đã thất vọng.
Mirsky, tác giả bài viết đã
khuyên một trong những ông tác giả những cuốn sách "bàn cho lắm tắm cởi
truồng" kể trên, là nên đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, ‘một
cuốn
tiểu thuyết mãnh liệt, trong đó đưa ra đề nghị, chiến thắng sau cùng
của Việt
Nam không thể giải thích một cách giản dị bằng những yếu tố như là sự
yếu ớt
của người Mỹ, hay là hỗ trợ của thế giới dành cho miền bắc.’ ‘Chiến
thắng tiếp
theo chiến thắng, tháo chạy tiếp theo tháo chạy’, Bảo Ninh viết. "Đường
ra
trận như không tận cùng, não nề, và chẳng đưa tới đâu… binh sĩ đợi chờ
trong sợ
hãi, hy vọng họ lọt sổ, trong số những lực lượng tăng viện, lao mình
vào một
vùng mà chỉ thoát ra bằng cái chết". Sau chiến tranh, Bảo Ninh vẫn
viết,
rằng "bộ đội miền Bắc đã được lệnh phải cảnh tỉnh trước những ý nghĩ
như
là: Miền Nam
đã chiến đấu anh dũng, xứng đáng, dù thế nào đi chăng nữa."
Mirsky
viết về cuốn mới nhất
của Dương Thu Hương, Memories of a Pure Spring, do Nina McPherson và
Phan Huy
Đường dịch từ tiếng Việt. Không giống những cuốn trước, Memories… không
phải là
tiểu thuyết viết về chiến tranh, mặc dù bối cảnh là một nước Việt Nam
đang cố
hồi phục sau một cuộc chiến đã chấm dứt từ 25 năm về trước, và nhiều
nhân vật
trong cuốn sách đã chiến đấu trong đó. Cuộc chiến được tưởng nhớ như là
một
thời kỳ của chủ nghĩa anh hùng, quyết tâm, não nề, và có vẻ như là một
chiến
thắng hổng, rỗng (… and does not seem to have much of a victory). Ai
cũng đói
khổ, ngoại trừ đám viên chức ăn hối lộ ngập hầu ngập cổ. Sợ công an là
thường
trực, ở bất cứ mọi nơi. Những tù nhân chính trị bị đối xử một cách tàn
nhẫn.
Nhân vật chính, Hung, là giám đốc một đoàn hát, vợ là một nữ ca sĩ 16
tuổi xinh
đẹp có giọng ca vàng, tên Sương. Vợ trở thành ngôi sao. Đôi lứa được
ngưỡng mộ.
Nhưng anh chồng mắc vào một vụ chính trị và mất việc, trong lúc ngôi
sao Sương
ngày một sáng chói. Anh chồng đâm say sưa, nghiện ngập, và vào tù vì
toan tính
vượt biển. Cuốn tiểu thuyết đưa ra một cái nhìn mới đây (a recent view)
về cuộc
sống Việt – hoặc là trong những quán cá phê, những ba, nhà hát, hay
trong những
căn nhà của người dân – khách du lịch, hay những thương gia Tây phương
không
nhìn thấy nó (invisible to tourists and Western businessmen.) Hầu như
chẳng có
ai hạnh phúc. Hung nhớ lại, trong chiến tranh đoàn hát được lệnh phục
vụ một
đơn vị tình nguyện, gần 300 phụ nữ sống ở bên kia rặng núi. Họ sống ở
trong
rừng, xa gia đình, làng mạc, không một bóng đàn ông… Họ gần như phát
khùng, một
cơn khùng điên tập thể (mass hysteria). Đoàn của anh đã tới đây hai
lần, và lần
nào cũng vậy: những cô gái - như một đàn ong – vây lấy anh. Một lần
chạy trối
chết, anh núp vào một bụi rậm, và nhìn lại, anh thấy những cô gái ngồi,
ôm gối,
khóc nức nở; cả bọn cứ thế khóc trên vai nhau, chụm thành một đống. Đây
là một
cảnh tượng làm bạn nổi da gà…
Jennifer Tran
Dọn
Tục ngữ
Việt Nam
có câu
"Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo". Hóa ra sự tha hóa tiếng nói ở
ta đã bắt đầu từ lâu lắm. Điều cần nói thêm là đến nay trong xã hội
hiện đại,
khuynh hướng này ngày càng phổ biến.
Vương Trì Nhàn
Nhà
viên ngoại họ Vương, dựa
vào câu “Lưỡi không xương…”, mà đưa ra phán quyết về sự tha hóa của
ngôn ngữ, là
một sự lầm lẫn lớn, theo Gấu.
Cái sự
tha hoá của ngôn ngữ
chẳng liên quan mắc mớ gì đến cái lưỡi không xương, và Gấu
còn sợ rằng, họ Vương lầm lẫn cái đẹp, sự đa dạng của ngôn ngữ, thành
cái xấu, là sự băng hoại của nó. Giả như, thay vì cái lưỡi không xương,
mà là cái lưỡi gỗ, thì sự tình còn khốn nạn tới cỡ nào!
Để chỉ trích một con người
nói xuôi cũng được, nói ngược cũng được,
người Việt mình mượn ngay cái lưỡi làm hình ảnh minh họa, và lấy ngay
cái đẹp của ngôn ngữ, mà vận cái xấu của con người sử dụng nó. Nói rõ
hơn, câu châm ngôn không nói về sự tha hóa của ngôn ngữ, mà tâm địa
khốn nạn của người dùng. Vương viên ngoại lầm quá lầm rồi!
*
Sự tha hóa khủng khiếp nhất
của ngôn từ, nếu hiểu theo Vương viên ngoại, chính là, bụng thì bụng ăn
cướp, mà
miệng lưỡi thì thốt ra lời giải phóng, bắt Nguỵ đi tù lao động khổ sai,
thì nói
đi học tập cải tạo. Ba cái tha hóa ngôn ngữ tầm phào, lẻ tẻ, như Vương
viên
ngoại chỉ ra trong bài viết, chỉ là hậu quả tất yếu, hỗ tương, dây
chuyền… của lời nói dối vĩ đại, hào
nhoáng, thắng
xong trận giặc này, ta sẽ xây cái nhà Mít [cái nhà ở đây, xin hiểu theo
nghĩa của Heidegger, tiếng Mít] đàng hoàng hơn!
Tuy
nhiên, quả có một sự tha
hóa trong tiếng Mít, tương tự như trong tiếng Đức, như Steiner chỉ ra,
nhưng
vấn đề này vượt ngoài không chỉ ‘tâm và tầm’ của họ Vương, mà còn tất
cả giới
nhà văn, trí thức Bắc Kít, theo tôi, cả ở trong lẫn ngoài nước, vẫn
theo tôi.
Chỉ
một khi họ dám nhìn thẳng vào "tội ác", thì mới có cơ may cứu rỗi,
người Mít, tiếng Mít:
For let
us keep one fact
clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors of
Nazism.
(Hãy
minh bạch một điều: ngôn
ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ
nghĩa
Nazi.)
George
Steiner, Phép
Lạ Hổng
Cái sự
tha hóa của ngôn ngữ
tiếng Việt, còn là ở cái sự bắt ngôn ngữ phục vụ những mục đích chính
trị, chỉ
có tính nhất thời, giai đoạn. Đây là điều Kundera chỉ ra, và Gấu áp
dụng nó,
khi đọc Chuyển Kể
Năm 2000 của Bùi Ngọc Tuấn.
*
Đây là
một tác phẩm văn
chương trác tuyệt, như nhận xét của một tác giả. Lạ nhất, khó hiểu
nhất, chính
là từ "trác tuyệt". Với Đêm Giữa Ban Ngày, người đọc hải ngoại tá hoả
vì những phát giác ghê tởm, về một ông Hồ và bà vợ của ông, về một Trần
Quốc
Hoàn… nên quên đi vẻ đẹp của một bông hồng khư khư cầm trong tay… Người
đọc
khóc cho những thân phận tù đầy, ra khỏi tù chỉ mong được trở lại, nên
quên đi
những dòng thơ cách mạng trác tuyệt ở trong CKN 2000. Nghịch lý là ở
chỗ đó:
đâu là cái đẹp, đâu là con vật? Người đọc có thể chịu đựng được những
chi tiết
độc, ác, những sự kiện tàn nhẫn trong văn Nguyễn Huy Thiệp; người đọc
có thể
thông cảm với giọng đanh đá, thái độ "dù có rũ bụi tôi cũng không dám
làm
quen", và khẳng định, "thế hệ tôi quả không uống giọt sữa nào, bút
không chấm giọt mực nào của tiền chiến" của Phạm Thị Hoài. Người đọc
trân
trọng một giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một vầng
trăng
goá, như trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà; nhưng giọng văn đầy ắp
yêu
thương, quá khỏe mạnh, đầy niềm tin vào con người, ở CKN 2000, làm
người đọc
khựng lại: liệu vẫn có thơ, sau (trại tù) Tân Trào? Liệu vẫn có thơ sau
những
vần thơ, mà "cũng như hắn, Phương thích mấy câu thơ của Maia:
Tôi sẽ giơ cao tờ chứng
minh
thư Đảng
Là toàn tập thơ bônsêvích
tôi
làm"?
(CKN
2000, trang 106)
Mayakovsky
, nhà thơ, nhà
tiên phong, người cổ võ lớn lao nhất cho chế độ mới tại Nga, đã tự sát
bằng
súng vào năm 1930. Lẽ dĩ nhiên, những ông thần Đỏ đã làm ông thất vọng,
nhưng
"có thể", ông nhận ra, cái phần trách nhiệm của ông, từ những vần thơ
"hắn và Phương thích" ở trên. Như
Kundera chỉ ra, cách mạng Nga cần
cả hai: nhà thơ Maia và trùm mật vụ Dzherzhinsky (xin xem bài "Mùa Thu,
những di dân", đã đăng trên VHNT). Theo ông, đây là thời đại mà nhà thơ
ngự trị cùng với đao phủ. Kundera nhớ lại những năm tháng sống dưới ánh
sáng
cách mạng tại xứ sở quê hương (Tiệp khắc, 1948), ông đã nhận ra sự mù
lòa trữ
tình và vai trò cao cả của nó (the eminent role played by lyrical
blindness).
Những "giơ cao thẻ Đảng-bài thơ," "mặt trời chân lý chiếu qua
tim"… là không thể thiếu trong thế giới toàn trị. "Tự thân, thế giới
đó không là ngục tù, gulag. Nó là nhà tù khi trên tường nhà giam dán
đầy thơ,
và mọi người nhẩy múa trước những bài thơ đó" (Kundera, Những Di Chúc
Bị
Phản Bội). Cây đa Tân Trào
(biểu tượng cách mạng Mùa Thu) biến thành trại tù
là vậy.
*
Một trang Tin Văn Cũ
Ẩn dụ
Lò Cải Tạo, cái sườn...
Ẩn dụ
Quần Đảo, cái sườn tác
phẩm, trở đi trở lại, và là tít của nhiều chương: Những Con Tầu của
Quần Đảo,
Những Bến Tầu của Quần Đảo,Từ Đảo tới Đảo, Quần Đảo Mọc Lên Từ Biển.
"Hãy
cẩn thận, về điều này:
Anh chiến đấu vì cái gì - và có thể nhờ vậy, anh sẽ có được nó."
Châm
ngôn Nga.
D.M
Thomas: Solzhenitsyn, Thế
Kỷ Trong Ta.
Nói tóm
lại, một gã vui nhộn,
quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản. Đối với bất cứ một ấn bản nào
của
Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản.
Sau thành công của vở kịch "Elizabeth Bam", một hài kịch về một người
đàn bà chờ… "được bắt và được giết", báo chí nhà nước kết án nhóm
kịch của ông là… "trò múa may phản động, thơ ca vô nghĩa… chống lại nền
chuyên
chính vô sản". Ông bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi vợ
ông
đi thăm nuôi, vào năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai ngày trước
đó. Mười
bốn năm sau khi mất, tên tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên
viết tiểu
sử xếp ông vào danh sách: viết chuyện cho nhi đồng.
Tháng
Tư
Mộ Khúc
Bài ca nhịp phách đưa người chết
Lời
Cuối Cho Nam
Hãy cho
anh khóc bằng mắt em
Chúng nó làm phát xít
Chúng nó làm cộng sản
Chúng ta làm tù nhân
Thanh Tâm Tuyền
Trước một
bé chết đói
Lưu
Vong và Ngôn Ngữ
Bích Khê
Thơ lạ như thần ưng
Đà Lạt
Đêm
Té Sấp
Gửi Diên Trường
Người tình
của Văn Cao
Giả sử
có một "em"
mê văn chương, nhưng không mê nhà văn, thì sao? Có một trường hợp, do
Lawrence
Durrell kể, trong Bộ Tứ Alexandria: Một em rất đoan trang, và rất diễm
lệ. Em
viết văn hoài mà không thành. Đi coi bói. Ông thầy nói, đó là do em
"còn
đoan trang" quá. Thế là em đến gặp một văn sĩ, năn nỉ: Anh ơi, hãy làm
cho
em trở thành đàn bà đi, để em làm văn sĩ!
Con
Bọ của Kafka và cuộc chiến Việt Nam
Gửi
Ông Tụ
Man
Booker Prize
Tướng Về Hưu VS
Tướng Âm Binh (1)
Mặc dù
Kadare vẫn được ngưỡng
mộ, như là một thi sĩ tại Albania,
danh tiếng quốc tế của ông, là do văn xuôi mà có, đặc biệt là những
tiểu thuyết
lịch sử. Cuốn nổi cộm đầu tiên của ông, Tướng Âm Binh, nguyên bản tiếng
Albania
xuất hiện vào năm 1963, bản tiếng Anh, The General of the Dead
Army,1971. Nhìn
thời gian cuốn sách được xb, tác giả khi đó chỉ mới hai mươi bẩy tuổi,
Tướng Âm
Binh có thể được coi như là một tác phẩm về tuổi trẻ, tuy nhiên, đây
luôn là
một trong những cuốn tiểu thuyết gây tác động, effective, nhất, của
Kadare. Và
được biết đến nhiều nhất.
"Như một con chim kiêu
ngạo và cô độc, bạn sẽ bay trên đỉnh những ngọn núi thầm lặng và bi
thiết kia,
kéo những con người trẻ tuổi đáng thương của chúng ta, ra khỏi chốn bấu
víu
hiểm nguy, lởm chởm đá nhọn kia." Đó là viễn tượnng của viên tướng Ý,
trên
đường đi cùng một vị tu sĩ buồn bã, cả hai có nhiệm vụ tới Albania
nhặt
nhạnh xương cốt của những binh sĩ của ông ta, đã ngã xuống hai mươi năm
trước.
Ông ta bắt đầu thực hiện những bổn phận, theo một nghĩa rất ư là lớn
lao, rất ư
là hiển hách, và cho rằng, chỉ những trách nhiệm cao cả như thế đó mới
xứng
đáng với cương vị một viên tướng. "Trách nhiệm mà ông đang thực hiện,
thì
có đâu thua gì sự cao cả của những người Hy Lạp, những cư dân thành
Troy, sự
trang nghiêm của những nghi lễ cúng tế, an táng thời Homer." Vị tướng
thấy
mình ở trong một xứ sở u ám, mưa liên miên, dân chúng thì u sầu ủ rột,
như lúc
nào cũng ăn năn, sám hối một điều gì, và trong một không khí như thế,
ông ta
bắt đầu thực hiện cái trách nhiệm cao cả của mình, là thu gom những tro
than,
những xương tàn của một đội quân đã nằm xuống trong tan hoang rã rời.
Dần dà,
và không thể tránh được, ông thấy mình đối đầu với những thực tại điêu
đứng của
quá khứ, và bị ám ảnh bởi tính phù phiếm, vô vị, chẳng ra cái thống chế
gì,
chính là nhiệm vụ cao cả của mình. Bao nhiêu dự tính,
bao nhiêu mộng đẹp, cao cả mà ông vẽ ra từ
những thuở nào, nay trở
thành cơn ác mộng cá nhân, của riêng ông, khi, mớ xương cốt của viên
đại tá ghê
tởm, Colonel Z, được một bà già điên khùng ném, ngay dưới chân ông
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ.
Mưa xối xả trên kính trước
chiếc xe díp nhà binh được dành riêng cho vị tướng là một ẩn dụ bình dị
trong
văn Kadare. Vào lúc Tướng Âm Binh được xuất bản, cơn mưa xối xả thường
hằng
[constant], và nhiều cảnh khác ở trong truyện cứ thế lừng lững đi thẳng
vào văn
học Albania.
Những đám mây bão xám xịt, bùn, và thực tại ủ rột, đơn điệu của một
ngày như
mọi ngày,chúng đối chọi thật sắc bén với phương đông hồng sáng chói
không thể
nào khác được, cùng cả trăm ngàn những vinh quang, những chiến thắng
của Chủ
Nghĩa Hiện Thực Xã Hội. Cũng thế, là viên tướng Ý. Ở đây, chúng ta thấy
một thủ
thuật đắc ý nhất, của nhà văn, hơn bất cứ thủ thuật nào khác, nhằm đạt
được
tham vọng, kéo văn học của xứ sở của mình thoát ra khỏi sự dửng dưng,
cả về văn
phong lẫn đề tài của nó, thoát ra khỏi cái nhìn Albania xa vời và bị ám
ảnh bởi
quá khứ, dưới mắt ngây thơ và không thể nào hiểu nổi của người ngoại
quốc. Ao
ước của nhà văn, hay viễn tượng của ông, là làm sao tạo được hình dáng
cho một
xứ sở Âu Châu, đã trở nên tách biệt hẳn ra khỏi Tây Phương, còn hơn cả
Tây
Tạng, và còn giúp cho những người dân Albania, chính họ, nhìn rõ mảnh
đất quê
hương, như là những người khác sẽ nhìn nó như vậy.
Sau lần xuất bản đầu, 1963,
và lần sau, có sửa chữa lại, 1967, chính bản dịch tiếng Pháp của tác
phẩm,
Tướng Âm Binh, Le Genéral de l’armée morte, 1970, đã đạt cơ sở cho sự
nổi tiếng
quốc tế của Kadare. Bản tiếng Anh, xuất hiện liền sau đó, đã được tái
bản ít
nhất là sáu lần.
Cái gì
đã khiến cho Kadare,
sống trong một chế độ Stalinist tàn bạo nhất, không thể tưởng tượng
được,
có đủ
can đảm để viết rồi xuất bản một cuốn tiểu thuyết với những nhân vật
chính là
một viên tướng Phát xít và một tu sĩ người Ý? Bởi vì can đảm là cần
thiết, ở
đây.
(1) Nguyễn Huy Thiệp lọt vô chung
kết Man Booker!
TLS số
đề ngày 1 Tháng Bẩy, 2000,
mục Sổ Tay, bàn về giải Man Booker Quốc Tế, khác với Booker Prize, dành
cho nhà
văn Hồng Mao, cho biết một "tin động trời", đối với đám viết lách
người Mít: Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những tác giả thượng
hảo
hạng, first rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy người đoạt giải.
TLS
trích lời một ông giám
khảo [Alberto Manguel], trên tờ Spectator tháng
vừa qua [Tháng Sáu], "trong danh sách những
tác giả thượng
hạng... chúng tôi đã phải gạt bỏ Peter Handke, Antonio Lobo Antunes....
Nguyen
Huy Thiep, Pascal Quignard, và Christa Wolf, tất cả những người này
đều, hoặc
chưa được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã dịch nhưng nay tuyệt bản".
Về tác
giả Kadare, người đoạt
giải, [Tin Văn đã loan tin] ban giám khảo dựa trên những bản dịch tiếng
Anh,
được dịch từ tiếng Pháp, dịch từ nguyên bản tiếng Albania, và điều này
làm cho
giải thưởng hơi mất giá, [hơi rẻ tiền], theo người bình luận trên tờ
TLS.
Rẻ tiền, là 60 ngàn Anh Kim!
Nhưng, với tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách, quả đúng như Kadare
nhận xét,
“Danh sách chót không thôi, tự nó đã làm nên một gia đình văn học lạ
thường
rồi.”
Và, Nguyễn Huy Thiệp kể như đã nhận được giải thưởng, bởi vì Kadare có
thể coi
như một Nguyễn Huy Thiệp của Albania.
Tin Văn tính giới thiệu bài viết về Kadare trên Guardian, khi
ông được giải,
nhưng nay có bài viết trên TLS, rất thú vị, về ông, sẽ cống hiến các
bạn trong
những kỳ tới.
Nhật
ký Tin Văn
Hỏi
Nát Lương Tâm, Hề, Nhân Loại!
Gấu
và e-VHNT
The
Spy Who Loved Us: Tên Điệp Viên
Thươn[g] Chúng Ta.
"Bà xã
biểu tôi, đã tới
lúc nhường chỗ cho thế hệ trẻ hơn, nhưng tôi chưa thể chết".
Ẩn nói, "Chẳng có nơi
nào cho tôi, để mà đi tới. Địa ngục thì dành những tên lừa đảo. Thứ này
thì đầy
rẫy ở Việt Nam.
Thành thử, địa ngục bây giờ nghẹt cứng rồi."
["My wife tells me it's
time to make room for the younger generation, but I can't die yet," he
says. "Hell is reserved for crooks, but there are so many of them in Vietnam,
it's
full".]
Bass
Qua tin báo chí, viên tướng
tình báo cộng sản, Phạm Xuân Ẩn, trước nằm vùng tại miền nam, có gặp gỡ
phái
đoàn quay phim, khi đang được quay tại Sài Gòn và cho biết, ông có
chứng kiến
vụ nổ bom trên, và cho biết thêm, ông biết nhà văn Graham Greene là
gián điệp
Anh. Điều này thế giới đều biết, vì Greene cũng chẳng giấu. Nhưng chi
tiết trên
chứng tỏ, Ẩn đã hoạt động gián điệp từ lâu. Và cái việc, vào giờ chót,
ông ta
đưa Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời ông Diệm, lên máy bay ra nước
ngoài, chứng
tỏ một điều: hai người có thể đã hiểu rõ nhau từ khuya!
NQT: Tản
mạn về phim & Những
ngày ở
Sài Gòn
Greene
đi hành quân cùng lính
Tẩy tại Phát Diệm
Ẩn được thưởng mề đay chiến
công sau chót, là do vai trò của ông chơi trong chiến dịch sau cùng,
Chiến Dịch
Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn. Nhưng việc làm sau cùng của chàng,
trong chiến
tranh, là một hành động vì bạn. Trong những giờ phút sau cùng Sài Gòn
sắp rơi
vào tay Cộng Sản, Ẩn xếp đặt cho cuộc trốn chạy của một người thầy cũ,
Ông Trùm
Gián Điệp Của Miền Nam,
Trần Kim Tuyến. Trong bức hình trứ danh chụp cảnh chiếc trực thăng cất
cánh,
trên đỉnh một căn nhà vẫn cứ bị lầm là Toà Đại Sứ Huê Kỳ, thực ra, là
mái một
căn cứ của Xịa, cách đó hai dẫy nhà [blocks], người cuối cùng đang leo
thang
lên máy bay, là Trần Kim Tuyến. Bên dưới, đệ tử của Ông Thầy, Phạm Xuân
Ẩn
đứng, vẫy tay, bye bye.
Một
trong những căn phòng tại
khách sạn này trên đường Catinat, là nơi Phượng và Fowler [nằm hít tô
phe] chờ
Pyle, mở ra Người Mỹ Trầm Lặng. Đây cũng là nơi Time đặt văn phòng.
Ngay sau
khi Diệm chết được ít lâu, Gấu có ghé, như là chuyên viên Bưu Điện kiếm
job
phụ, nhưng người Time cần, là một chuyên viên viễn ấn. Khi đó chưa có
Ẩn.
Nayan Chanda, làm cho Reuters
và Far Eastern Economic Review, nhớ lại cảnh, nhìn Ẩn đứng ngay trước
Dinh Độc
Lập vào ngày cuối của cuộc chiến, khi chiếc xe tăng Cộng Sản số 843 xô
tung
cổng sắt tiến vô.
"Có một nụ cười là lạ,
diêu diễu nở ra trên khuôn mặt anh ta. Có vẻ như anh ta hài lòng và cảm
thấy
hòa bường với chính anh ta. Tôi thấy kỳ kỳ," Chan nói.
Sau đó, Chan hiểu ra rằng,
anh ta đang ăn mừng chiến thắng của Cộng Sản, mà trong chiến thắng đó,
có công
lao nằm gai nếm mật ròng rã ba mươi năm của chàng.
Bass
W.
Faulkner: Tại sao tui?
Dream
Textures
A brief note on Nabokov
W.G. Sebald
|