|
- Tính thơ
-
Tôi nảy ra ý tưởng về "tính thơ" sau khi:
Đọc khá nhiều thể loại thơ, xem khá nhiều nhận định
về thế nào là thơ.
Nguyễn Thế Hoàng Linh
Nguồn
Đọc khá nhiều, nhưng có lẽ chưa đọc cuốn này: Thơ
tính của không gian, La Poétique de l'espace, của Gaston
Bachelard.
Tất cả những thí dụ về tính thơ mà tác giả nêu ra,
như,
Một pha
bóng đầy chất thơ (ở đây, có thể các cầu thủ đã tạo ra hiệu ứng hình
ảnh đẹp khi xử lí bóng, một ý tưởng đột phá táo bạo, một đường chuyền
đầy sự thông minh...) Một bức tranh đầy tính thơ (không chỉ hình ảnh,
ý tưởng ấn tượng, nó còn tạo nên giai điệu chẳng hạn...) Một game đầy tính thơ (nó đầy ý
tưởng mới và sự dày công đầu tư vào các chi tiết tạo nên mạch cảm hứng
không ngừng trong người chơi) Một cô gái đầy tính thơ (dù có thể không mạnh
về hình ảnh khuôn mặt, cô ta luôn có những ý tưởng hay, cảm xúc của cô
ta thất thường lúc blue, lúc rock lúc pop ballard lúc nhạc vàng khi
nhạc đỏ mà vẫn không chịu bỏ hip hop, nhạc jazz.) Một khung cảnh tự nhiên nên thơ
(với suối chảy, chim hót, sự đa dạng của thảm thực vật, sự biến chuyển
không ngừng của khí hậu...) Một người làm vườn, làm ruộng đầy tính thơ
(những bài thơ người đó lén la lén lút sáng tác trên giấy và ngấm ngầm
tự hào thì dở ẹc; nhưng nhìn vào thửa ruộng, mảnh vườn của người đó,
người ta thấy một đầu óc đầy ý tưởng, đầy năng lực bố cục, biến tấu,
đầy đam mê, đầy cảm xúc hân hoan và sự hài hoà với thiên nhiên; điều đó
hấp dẫn không chỉ chúng ta mà cả chim chóc, ong bướm; như vậy, chính
người đó đã tạo nên một khung cảnh nhân tạo nên thơ bằng nhiều những
chất liệu tự nhiên và cả nhân tạo như hạt giống, nước tưới, giàn bằng
tre, nứa, dây buộc ni lông...) Vô số ví dụ khác...
đều có thể qui về, một định nghĩa: "Thơ là tâm
hồn khánh thành một vóc dáng, La poésie est une âme inaugurant une
forme" của Pierre-Jean Jouve, và đây là vấn đề hiện tượng học của
tâm hồn, theo Bachelard.
*
Trong lời dẫn nhập, introduction, Bachelard viết,
tâm lý học cổ điển không thèm để ý tới ảnh tượng, image poétique, và
luôn lầm nó với ẩn dụ.
Dựa vào ý của Bachelard, trong một bài viết về TTT,
cho số Văn đặc biệt về ông, xb vào năm 1973, Gấu này đã đưa ra một số
tiểu chú, liên quan tới cái mà Nguyễn Thế Hoàng Linh gọi là tính thơ, ở
đâu cũng có, nay xin ghi lại ở đây, để nới rộng vấn đề:
1. Ẩn dụ hay là vai trò của tu từ pháp trong văn
chương.
Ẩn dụ, métaphore, là một từ hoa, một trong những trò
chơi của tu từ pháp. Những cánh buồm thay vì con thuyền, cội huyên thay
vì cha già, bóng hồng thay vì giai nhân... là những ẩn dụ.
Từ métaphore, gốc Hy Lạp, vốn có nghĩa, transition,
thiên di. Một nhà ngôn ngữ học định nghĩa, Ẩn dụ là một từ hoa, une
figure, nhờ đó, lý trí áp dụng, để chỉ vật này cho một vật khác, do một
tính chất chung làm chúng sát lại gần nhau.
Không phải chỉ riêng ngôn ngữ, mà cả thế giới sự
vật, con người, đều dựa trên 'một tính chất chung làm chúng sát lại gần
nhau'. Trong một giọt nước có cả đại dương, thế giới là một convenance,
tương hợp, của những sự vật [Michel Foucault: Chữ và Vật]. Thí dụ: Linh
hồn và thể xác tương hợp không chỉ một, mà tới hai lần: Bởi vi tội lỗi
có thể làm cho linh hồn sa đọa, cho nên, do tránh cho nó khỏi bị sa
đọa, Thượng Đế bèn để linh hồn trong tận đáy sâu của thể xác. Tuy
nhiên, do thân cận, chung đụng với thể xác, linh hồn bèn đón nhận từ
nó, những rung động. Còn thể xác, sa đọa, ấy là do linh hồn có quá
nhiều đam mê.
Trong văn chương, Proust cho rằng, bút pháp không
thể nào đẹp được, nếu không có ẩn dụ. Tuy nhiên ẩn dụ, hay nói chung,
từ hoa, là con dao hai lưỡi. Nước chở thuyền, nhưng nước cũng làm lật
thuyền. Máy bay bay được là nhờ khí trời, nhưng khí trời cản sức bay.
Dây điện truyền điện, tải điện, nhưng cũng cản điện: Từ hoa, cùng lúc,
vừa chuyên chở vừa cản trở văn chương. Tu từ pháp là kích thước,
chiều hướng yêu đương, đằm thắm của cách viết [La rhétorique est la
dimension amoureuse de l'écriture. Roland Barthes: Tiểu luận
phê bình], nhưng, thùng rỗng kêu to: lạm dụng nó, nó giết chết văn
chương, biến văn chương thành trò biền ngẫu, nói quẩn [tautologie].
2. Ảnh tượng trong thơ.
Không có ảnh tượng, không có thơ [Pas de poésie sans
image]
3. Sự khác biệt giữa ẩn dụ và ảnh tượng.
Ẩn dụ đi kèm tri thức. Một đứa trẻ không thể coi
cánh buồm là con thuyền. Trong trí tưởng tượng của nó, con thuyền có
thể có nhiều hình dáng quái dị, nhưng không thể giản dị là cánh buồm.
4. Ảnh tượng và ẩn dụ trong Bếp Lửa của TTT.
Đọc Thanh Tâm Tuyền
Trong bài viết của Nguyễn Thế Hoàng Linh, ông có
nhắc tới tính phi thơ, mà Kundrea nhận ra, khi đọc Kafka.
Thực sự, Kundera khi nhắc đến phi thơ, là muốn phạng
thế giới toàn trị, tức là thế giới hiện NTHL đang sống.
Ở đó, không có thơ. Thế giới đó chống lại thơ.
Không hiểu NTHL có nhận ra điều đó không, khi bệ
Kundera ra, để nói về tính thơ ở đâu cũng có?
*
Nguyễn Thế Hoàng Linh được coi là thiên tài.
Quả là thiên tài, mới nẩy ra ý tưởng về tính thơ như
trên. Tuy nhiên, đọc khá nhiều về thơ, thì phải cho biết đọc những ai,
xem khá nhiều về nhận định thế nào là thơ, thì cũng nên cho biết, những
nhận định đó như thế nào, khác nhau ra sao, rồi từ đó, mới nẩy ra ý
tưởng "tính thơ". Cái 'lô gíc' viết, nó đòi hỏi như vậy.
Thí dụ, Gấu ngu này, khi nhắc đến Bachelard, là để
cho thấy, đây là cái nguồn đưa đến những phân biệt về ành tượng về ẩn
dụ, về từ hoa...
Đâu cứ thiên tài là có quyền phán tưới hột sen! Phán
vô tư, vô tội vạ, vô trú sở, vô căn cứ.
Nếu thiên tài là như thế, Gấu này thành thiên tài từ
lâu rồi, đúng như Borges đã từng phán:
Tôi nhớ một nhận xét của Oscar Wilde - một nhận xét
đầy chất tiên tri. Ông nói: "Nếu không có thơ vần, chúng ta đều trở
thành thiên tài". Đây là chuyện đang xẩy ra ngày hôm nay, ít ra là tại
xứ tôi. Hầu như ngày nào tôi cũng nhận được những cuốn thơ của những
thiên tài hoặc mấp mí thiên tài: nghĩa là những cuốn thơ hình như chẳng
có một chút ý nghĩa nào đối với tôi. Ngay cả những ẩn dụ ở trong đó,
tôi không thể nào nhận ra được. Ẩn dụ đề nghị một nối kết, giữa hai sự
vật. Nhưng trong những cuốn thơ đó, tôi chẳng nhìn thấy bất cứ một nối
kết nào. Tôi đã phạm vào lầm lẫn thiên tài như vậy, trong tập đầu, tập
hai cũng vậy, và có lẽ ngay cả tập ba; và rồi tôi khám phá ra, có một
điều gì thực sự huyền ảo, và không thể nào cắt nghĩa được, về một bài
sonnet: Nó có thể đẻ ra đủ thứ, đủ loại thơ, khác nhau.
Lèm bèm
về thơ
Gấu mới nghe nhà văn hoá Vương Trí Nhàn phán:
Có gì vay mượn cũng phải nói.
Nguồn
Đúng như thế. Thiên tài phán, đọc nhiều xem nhiều,
mà chẳng nói, đọc ai, xem ai. Thường ra, ở cuối vài viết như thế, có
ghi, những sách báo tham khảo. Biết đâu nhờ vậy, độc giả tìm được cái
nguồn, của ý tưởng "tính thơ".
*
Bachelard là
một tác giả, Gấu nghĩ, những nhà thơ nên tìm đọc, nhất là những cuốn
như Phân tâm học về lửa, Nước và những giấc mộng, Thơ tính của
không gian, Thơ tính của Mộng mơ... Riêng với Gấu, mê nhất là Thơ
tính của không gian, đọc từ hồi mới lớn, cùng với Sài Gòn.
*
Sự thực những thí dụ về tính thơ của thiên tài NTHL
đều có chút thiên vị, đúng như thiên tài thú nhận. Ít ai nói, một pha
bóng đầy chất thơ, mà là, đẹp, một đường banh thần sầu, một pha làm bàn
tuyệt cú mẻo.
Có thí dụ, nhảm. Nhưng thôi bỏ qua, nhân cái nhảm
của thiên tài, lèm bèm về thơ, về Bachelard, thú vị hơn.
*
Tâm lý học cổ điển không bàn về ảnh tượng, image
poétique, và luôn lầm nó với một ẩn dụ đơn giản. Vả chăng, từ "hình
ảnh", image chứa quá nhiểu lẫm lẫn, mù mờ, trong tất cả những tác phẩm
của những nhà tâm lý học: người ta nhìn thấy những hình ảnh, người ta
tái sản xuất, on reproduit, những hình ảnh, người ta lưu giữ những hình
ảnh ở trong ký ức... Hình ảnh ở khắp nơi, ngoại trừ một nơi: không hể
có hình ảnh, như là một sản phẩm trực tiếp, liền tù tì, ngay tức khắc,
của trí tưởng tượng.
Cái sản phẩm liền tù tì của trí tưởng tượng đó, là
ảnh tượng, hay hình ảnh thi ca.
Thành ra, có thể thiên tài NTHL, tuy cũng là thi sĩ,
nhưng chưa bao giờ cảm nhận, chưa từng kinh qua, thứ thi ảnh này, cho
nên phán, tính thơ ở khắp nơi, như hình ảnh tràn đầy trong thế giới,
chăng?
- Kỷ niệm Sài Gòn
-
La beauté d'un paysage
réside dans sa tristesse. Ahmet Rasim
Cảnh đẹp thì buồn.
Đó là câu đề từ cuốn Kỷ niệm Istanbul, thành phố quê
hương của nhà văn Pamuk, Nobel văn chương.
*
Đọc, cũng thú vị, nhưng, thành thực mà nói, "có thể sẽ thua xa Gấu",
với những kỷ niệm về Sài Gòn, và trước đó, về Hà Nội.
Đừng nghĩ là Gấu này phách lối!
Chắc cũng đành nghe theo lời Gấu Cái, dành tí ngày tháng còn lại, chơi
một cuốn tiểu thuyết về Sài Gòn.
Cấm nhắc tới Hà Nội, và Bông Hồng Đen!
*
II existe des auteurs
comme Conrad, Nabokov, Naipaul, qui ont réussi à écrire en changeant de
langue, de nationalité, de culture, de patrie, de continent, et même de
civilisation. En ce qui les concerne, leur créativité a puisé ses
forces dans l'exil ou la migration. De la même manière, je sais que mon
attachement à la même maison, à la même rue, au même paysage, et à la
ville, a exercé une influence sur mon identité. Cet attachement à
Istanbul signifie que son destin fait
désormais partie de votre caractère.
Có những tác giả như
Conrad, Nabokov, Naipaul đã thành công trong việc viết, bằng cách, đổi
ngôn ngữ, quốc tịch, văn hoá, tổ quốc, đại lục, và luôn của nền văn
minh. Vấn đề của họ, theo tôi, là như thế này: Lưu vong và thiên di là
nguồn sáng tạo của họ. Cũng như thế, cái sự gắn bó của tôi vời cùng một
căn nhà, cùng một con phố, cùng một phong cảnh, cùng một thành phố đã
tạo một ảnh hưởng lên căn cước của tôi. Cái sự gắn bó của tôi với
Istanbul có nghĩa, số mệnh của nó là một phần không thể thiếu trong
nghề ngỗng viết lách của mình.
*
Ôi chao đọc đoạn trên,
Gấu thấy ngay chính thằng Gấu này, cũng đã từng viết như thế!
Một thành phố mà tôi đã
chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó.
Thành công trong việc
viết bằng cách đổi ngôn ngữ...
Nếu như thế, Gấu lại
càng bảnh hơn:
Đã thành công trong việc
viết, bằng cách, chết đi, rồi sống lại, chỉ để kể về Sài Gòn, khi chưa
bị Yankee mũi tẹt chiếm đoạt!
*
Cent deux ans avant ma naissance, Flaubert, en
arrivant à Istanbul, impressionné par la foule et
l'originalité de la ville, écrit dans une lettre qu'il pense que
Constantinople deviendra, cent ans plus tard, «la capitale de
la Terre». Contrairement à cette prévision, l'Empire ottoman s'est
écroulé et a fini par disparaître. À ma naissance, Istanbul, en tant que ville
d'importance mondiale, vivait les jours les plus faibles, les plus
misérables, les plus sombres et les moins glorieux de ses deux mille ans
d'histoire. Durant toute mon existence, le sentiment d'effondrement de
l'Empire ottoman et la tristesse générée par la misère et les décombres
qui recouvraient la ville ont représenté les éléments caractéristiques
d'Istanbul. J'ai passé ma vie à combattre cette tristesse, ou bien, comme tous les
habitants d'Istanbul, à finalement essayer de me
l'approprier.
Cả đoạn văn trên, áp dụng cho Sài Gòn
và Gấu, cũng y chang.
Cái thành phố Istanbul lụi tàn cùng Đế
quốc Ottoman, thì có khác gì Sài Gòn và thiên đường Miền Nam lụi tàn
trong tay đám Yankee mũi tẹt?
*
Hai trăm năm trước khi tôi ra đời,
Flaubert ghé thăm thành phố, và, ngất ngư vì cư dân hội hè đình đám, và
cái chất rất ư là uyên nguyên là Nam Bộ, đã tiên đoán, chỉ một trăm năm
sau Constantinople sẽ trở thành "thủ đô của Trái Đất".
Cứ giả dụ như không có lũ Yankee mũi
tẹt, thì, cần gì đến lời tiên tri của Flaubert, vì Sài Gòn muôn đời vẫn
là Sài Gòn: Hòn Ngọc Viễn Đông.
*
Vì sao ở người lính “nụ cười nghèn
nghẹn xa xăm”?
Chiến tranh chấm dứt, vang dậy tiếng reo hò mừng rỡ của những người đã
qua sông. Nhưng, nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường, “một dòng sông khác
lại hiện ra trước mặt và con người phải cất bước khởi đầu trở lại mọi
hành trình” [9] . Lần qua sông này là một thử
thách lịch sử quá lớn lao và mới mẻ: “Đất nước… phải trăn trở lột
xác mình đứng dậy” (“Trước nghĩa trang Núi Bút”), Và tất cả mới
chỉ là khởi đầu. Và cũng chỉ khi nào thấy dược “toàn bộ sự thật
chảy máu và bi kịch đau đớn” của chuyến vượt sông vừa qua chúng ta
mới hiểu được “nụ cười nghèn nghẹn xa xăm” trên gương mặt
những người lính Thời máu xanh, những Sisyphus [10] hiện đại, họ lại xoay trần vượt sông
lần nữa, tiếp tục cuộc hành trình
Tại sao tất cả chỉ là khởi đầu? Tại
sao một dòng sông khác hiện ra?
Tại sao đất nước lại phải trăn trở lột
xác?
Hỏi tức là trả lời.
- Viết dưới giá treo cổ
-
Gấu Cái đang đọc Blog
Tin Văn
Ngón tay Người như những chú giun.
Mandelstam's poem on Stalin (November 1933) (1)
We live, deaf to the land beneath us,
Ten steps away no one hears our speeches,
But where there's so much as half a conversation
The Kremlins mountaineer will get his mention.
(2)
His fingers are fat as grubs
And the words, final as lead weights, fall from
his lips,
His cockroach whiskers leer
And his boot tops gleam.
Around him a rabble of thin-necked leaders—
fawning half-men for him to play with.
They whinny, purr or whine
As he prates and points a finger,
One by one forging his laws, to be flung
Like horseshoes at the head, the eye or the
groin.
And every killing is a treat
For the broad-chested Ossete. (3)
1.
This poem, which Mrs. Mandelstam mentions on page 12 and at many other
points, is nowhere quoted in full in the text of her book.
2.
In the first version, which came into the hands
of the secret police, these two lines read:
All
we hear is the Kremlin mountaineer,
The
murderer and peasant-slayer.
8.
"Ossete." There were persistent stories that Stalin had Ossetian blood.
Osseda is to the north of Georgia in the Caucasus. The people, of
Iranian stock, are quite different from the Georgians.
Mandelstam:
Chân Dung Bác Xì [Tà Lỉn]
Chúng ta sống, điếc đặc trước mặt đất bên dưới
Chỉ cần mười bước chân là chẳng ai nghe ta nói,
Nhưng ở những nơi, với câu chuyện nửa vời
Tên của kẻ sau cùng trèo tới đỉnh Cẩm Linh được
nhắc tới.
Những ngón tay của kẻ đó mập như những con giun
Lời nói nặng như chì rớt khỏi môi
Ánh mắt nhìn đểu giả, râu quai nón-con gián...
Bài
thơ trên có nhiều bản khác nhau. Trên, là từ hồi ký "Hy Vọng Chống lại
Hy Vọng", của vợ nhà thơ, Nadezhda Mandelstam.
Nhật Ký
Qua lời
giới thiệu The Noise of Time, Tiếng ồn thời gian, Clarence Brown cho
biết, bài thơ trên được làm năm 1934. Sau đó, đích thân Stalin ra lệnh
bắt. Một giai thoại, do chính Pasternak kể lại, cũng thật thú vị:
Ngay sau
khi bị bắt, một bữa, bà vợ của Osip đến gặp nhà thơ Pasternak, xin can
thiệp cho chồng. Đó là lần đầu tiên P. biết tin, hai ông nhà thơ không
thân nhau, làm thơ cũng khác nhau. Đúng thời gian đó, có một ông lớn
mất, và linh cữu quàn tại Nhà Hội, cho mọi người thăm viếng. Pasternak
tới, gặp Bukharin, bèn ghé tai gửi gấm câu chuyện. Ông này nói, khó
lắm, nhưng sẽ cố. Vài đêm sau, phôn nhà Pasternak reo.
-Phải
Pasternak đó không? Stalin đây.
-Good
Evening. Đồng chí Xì ta lin. Nhưng có đúng đồng chí Xì không đấy? Đừng
có bịp tớ nhé.
-Đúng Xì
đây.
Nghe xưng
danh, Pasternak nói:
-Hiện
trong phòng có 26 người, và họ đều lắng nghe. Thưa, có sao không?
-Không
sao hết. Đây là về trường hợp Mandelstam
-Tôi cố
làm những gì có thể để giúp anh ấy.
-Đồng chí
có nghĩ, anh ta là một thi sĩ tốt? [Do you think, he is a very good
poet?]
-Thưa
đồng chí Xì ta lin, đồng chí không nên hỏi một nhà thơ về một nhà thơ
khác. Đâu có khác gì hỏi người đẹp về một người đẹp khác?
-Như vậy,
là tôi phải kết luận, đồng chí không khoái anh ta lắm?
-Không,
đồng chí lầm rồi. Tôi là một nhà thơ, theo kiểu khác của anh ta, cũng
nhà thơ. Tôi nghĩ, anh ta là một người viết tốt.
-Tốt lắm.
Mà này, sao không ghé thăm Xì này?
-Có lẽ
đồng chí Xì nên ghé đồng chí Pạc thì hay hơn!
Thế là
sau đó, Mandelstam được tha.
Nhưng
than ôi, không được lâu!
Nhà thơ Nga chẳng những đi tù mà còn chết ở trong đó, vì
bài thơ trên đây.
- Dân tộc nào?
-
Thơ TTT không thâm nhập
được vào trái tim người đọc, vì tiếng thơ ấy không nói tiếng nói của
công chúng, không nói tiếng nói của trái tim Việt Nam trong một giai
đoạn lịch sử mà thơ ca phải là ngọn lửa toả sáng, soi đường và cháy rực
lên sức sống, sức mạnh của một dân tộc... TTT không có được tiếng...
Nguồn
Có đấy, thơ TTT có thâm
nhập vào trái tim người đọc, và là tiếng nói của công chúng: những tù
nhân như ông.
Chúng nó làm Cộng Sản
Chúng ta làm tù nhân.
Còn thứ thơ ca là ngọn
lửa soi sáng cháy rực sức sống sức mạnh của dân tộc, người viết phải
cho biết, dân tộc nào?
Dân tộc đẩy, hay bị đẩy
xuống biển?
Thứ thơ ca ngọn lửa,
tiếng nói dân tộc đó, đã là nguồn cơn gây nên cuộc chiến, không lẽ cứ
bắt buộc thơ ca phải mãi mãi như thế, mà không thể là tiếng nói của một
cá nhân chống lại thứ tiếng nói, thứ lịch sử của đám đông, công chúng?
Cao Hành Kiện chẳng đã
được vinh danh: Không là tiếng nói của công chúng?
Brodsky chẳng đã được
vinh danh vì chỉ làm thơ với ngôi thứ nhất: First Person: Tôi, tao, tớ,
đằng này?
*
Quê hương của một
con người, thì cũng chỉ là một mảnh không gian - có thể một căn phòng
khách sạn, hay băng ghế nơi công viên gần nhất - nơi con mắt của nhân
dân hay sự phiền hà của một chế độ thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn
cho phép một con người, và tác phẩm của người đó. Cây có rễ, người có
chân để mà bỏ đi, sau khi lương tâm của nó nói:
Không!
Không có gì tởm hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt
kẻ khác, nhân danh quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng. Chủ nghĩa quốc gia là
nọc độc của lịch sử hiện đại.
[George Steiner: The
Cleric of Treason].
*
không
nói tiếng nói của trái tim Việt Nam ....
I have
reached that age when one visits the heart merely as a courtesy
Đó là dòng thơ
của Faiz Ahmed Faiz (1911-1984). Theo Rushdie, ông này là một nhà thơ
trữ tình lớn [the
famous Urdu poet],
của Pakistan, nhiều bài thơ được phổ nhạc và được hàng triệu con tim
ngưỡng mộ, ngay cả những bài chẳng có vẻ gì là lãng mạn, thí dụ như:
Em
yêu, đừng hỏi anh về tình yêu đã có lần anh dành cho em...
Đẹp
biết bao, đáng yêu biết bao, em, giờ này vẫn vậy...
Nhưng
anh đành chịu thua;
bởi
vì thế giới còn biết bao nhiêu âu lo sầu muộn so với tình yêu,
và
những thú vui khác nữa.
Đừng bao
giờ hỏi anh còn yêu em như ngày nào...
Ông rất
yêu đất nước ông, tất nhiên, nhưng một trong những bài thơ hay nhất của
ông, viết bằng một giọng rã rời, thứ tình cảm rã rời của một kẻ lưu
vong.
Bài thơ này,
tuyệt vời thay, được dựng thành poster ở tường xe điện ngầm ở New York,
cách đây vài năm [Rushdie viết bài này năm 2002]:
Bạn
hỏi tôi về một xứ sở mà những chi tiết về nó đã chạy khỏi tôi,
Tôi
không nhớ địa dư của nó, cũng chẳng nhớ lịch sử của nó.
Hay
là tôi nên viếng thăm nó, bằng hồi ức,
Chắc
là nó sẽ giống như một tình yêu đã qua,
Mà
sau nhiều năm, trở lại, trong một đêm, không còn thao thức
Vì
đam mê,
Vì
lo sợ
Vì
tiếc nuối.
Tôi đã tới
tuổi mà một con người đi thăm trái tim chỉ vì lịch sự.
Đúng là
một bài thơ vừa tình mình, vừa tình nước "chẳng giống ai",
"uncompromising"]! Rushdie phán.
Đọc, Gấu
lại thèm nghe lại Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, mơ mòng
nhìn thấy cái gạt nước xua đi nỗi nhớ!
Merde!
- What are poets for?
-
What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger
"... and
what are poets for in a destitude time?", Holderlin hỏi, trong bài điếu
"Bánh mì và Rưọu vang".
Thời của đêm thế gian là thời điêu đứng: The time of the world's night
is the destitude time.
*
Is Rainer Maria Rilke a poet in a destitude time? How is his poetry
related to the destitution of the time? How deeply does it reach into
the abyss? Where does the poet go, assuming he goes where he can go?
Liệu có phải Rilke là nhà thơ của thời điêu đứng?
Như thế nào, làm thế nào, thơ của ông móc nối với sự điêu đứng của thời
gian? Sâu thẳm cỡ nào, thơ của ông với xuống vực thẳm? Nhà thơ đi đâu,
giả dụ như có một nơi chốn nhà thơ có thể đi?
*
Từ 'thời gian', ở đây có nghĩa, thời gian mà chúng ta còn thuộc về nó.
Với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và hy sinh của Đấng
Ky Tô Christ đánh dấu bắt đầu và chấm dứt ngày của những vị thần, the
day of the gods. Đêm xuống, và kể từ đó, ba ngôi nhập một, the 'united
three' - Herakles, Dionysos, và Christ - rời bỏ thế gian, buổi chiều
của thế gian chìm dần vào đêm tối của nó. Đêm thế gian trải dài bóng
tối của nó. Đây là thời thần linh trễ hẹn [The era is defined by the
god's failure to arrive], thời khiếm khuyết thần linh, default of god.
Thời khiếm khuyến thần linh mà Holderlin kinh nghiệm không có nghĩa
chối bỏ liên hệ giữa thần và người và nhà thờ. Khiếm khuyết thần linh
có nghĩa, chẳng còn thần linh tóm thâu người và vật thành một mối, và
bằng một mối thâu gom như thế, lịch sử thế gian được đặt để, và con
người dong duổi cùng với nó.
*
“Hồi Võ
Phiến sang chơi Paris và đóng đô tại nhà tôi ở Bagnolet, có bận tôi
hỏi, theo ông, Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ hay nhà văn. Võ Phiến đã
đáp không do dự: là một nhà văn.”
Kiệt Tấn
*
Nhận xét
của Võ Phiến, theo tôi, sai.
Ngay từ năm 1973, khi viết về TTT, trong số Văn đặc biệt về ông, Gấu
này đã phán, nay xin ghi lại ở đây:
1. Một vài
ý nghĩ nho nhỏ về thơ Thanh Tâm Tuyền.
Bởi vì tiểu
thuyết, truyện, truyện ngắn vốn dễ đọc hơn thơ, kịch, cho nên, đối với
số đông độc giả, Thanh Tâm Tuyền thành công về mặt văn xuôi hơn là thơ.
Nhưng đối với một thiểu số độc giả thường lưu tâm tới vấn để văn
chương, những tập Tôi không còn cô
độc, Liên đêm mặt trời tìm thấy đã định nghĩa thế nào là thơ,
thơ tự do, thơ TTT.
*
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Holderlin
Có thể, thơ Thanh Tâm Tuyền cũng như thơ của một số thi sĩ khác cùng
thời với ông, một cách gián tiếp, nhằm trả lời câu hỏi trên của
Holderlin.
Bởi vì, người ta vẫn thường quan niệm thơ, từ ngàn xưa,
vẫn chỉ là những gì phù du, thơ chỉ có trong một thời bình.
Cớ sao lại có thi sĩ, trong một thời đại
nhiễu nhương như thế này?
Ngay từ những ngày 1973, khi chưa chấm dứt cuộc chiến,
Gấu này đã nhìn ra, thơ TTT, đúng là thứ thơ của thời điêu đứng, đúng
như Heidgger coi Rilke là thi sĩ của thời điêu đứng:
Là thi sĩ của thời điêu đứng , có nghĩa là: hát, chú tâm
đến dấu chân để lại của những vị thần trong khi bỏ chạy. Chính vì thế,
vào thời gian của đêm tối, thi sĩ nói điều thiêng. Chính vì thế, trong
ngôn ngữ của Holderlin, đêm thế giới là "đêm thiêng" (1)
[Être poète en temps de détresse, c'est alors : chantant,
être attentif à la trace des dieux enfuis. Voilà pourquoi, au temps de
la nuit du monde, le poète dit le sacré. Voilà pourquoi, dans la langue
de Holderlin, la nuit du monde est la « nuit sacrée ». Pourquoi
des poètes en temps de détresse? Heidegger]
*
(1) Trong Mảng Lưu Vong, La Part
d'Exil, Le Huu Khoa coi Trịnh Công Sơn là chim thiêng hót lời
mệnh bạc [Trinh Cong Son: L'oiseau sacré chante le destin tragique]
*
Holderlin phán:
Ở nơi nào có nguy nàn,
Ở đó có cứu rỗi
Mais où est le péril,
là
Croit aussi ce qui
sauve
Holderlin, IV, 190
Nếu thế, so sánh thơ TTT với những nhà thơ tiền chiến, đúng là "coi
thường" ông, theo Gấu, và, chẳng biết gì về thơ, về vực thẳm, về đêm
đen chia cách ông với những nhà thơ mà ông và nhóm Sáng Tạo đả phá:
Một cách nào đó, những dòng thơ tiền chiến mở ra vực thẳm, đêm đen.
Một cách nào đó, thơ TTT, và của một số bạn bè của ông, như Tô Thùy
Yên, nhạc Trịnh Công Sơn... là thơ nhạc của thời điêu đứng.
*
Một lần, nhằm giải thích một nhận định của Đặng Tiến, TTT không có
truyền nhân, Gấu đã trích dẫn một số câu văn của TTT, để chứng tỏ, ông
làm thơ khi viết văn.
Muốn là truyền nhân của ông, phải là một nhà thơ, chứ không phải nhà
văn.
Như tay Ninh Hạ cho biết, TTT có lần nói với ông ta, ông thấy làm thơ
dễ hơn là viết văn, là cũng theo nghĩa đó.
Vả chăng, tuy nhà văn, viết đủ thứ, nhưng chỉ Một Chủ Nhật Khác đúng là một cuốn
tiểu thuyết.
*
Trên Da Mầu, thấy có bài của một tác giả lạ, với Gấu, vì
chưa từng nghe tên và được đọc bài nào của tay này. Xin trích dẫn ra ở
đây, và nhân đó, lèm bèm về thơ, biết đâu có hứng, lèm bèm về một tập
thơ của một người bạn, mới ra lò. Anh ra lệnh, phải viết một bài thật
bảnh.
*
Nhưng, liệu, sau khi "ráng đỏ qua sông", vưỡn có thơ? (1)
*
(1) Thơ bay như ráng đỏ sang sông.
*
1) Có những bài thơ
viết muộn
Vì không thể
viết sớm hơn
Ngặt nỗi
thương thầm gió ruộng
Vẫn còn vuốt
mắt sương thôn
NLV
*
Cái ý, "có những bài thơ viết muộn, vì không thể viết sớm hơn", theo
Gấu, nó "khủng khiếp" lắm.
Và nó liên quan đến ráng đỏ qua sông, đến giấc mộng lớn đã đạt, sáng
ngủ dậy, thấy nước nhà thống nhất.
Nhưng chưa kịp mừng, thì đã thấy bi thương hồn Việt....
Gấu này nhớ, ông anh nhà thơ mà cũng còn mừng hụt, vì cú 30 Tháng Tư.
Ông mừng thực, khi tâm sự với thằng em, thế là mình khỏi viết nữa. Làm
một người dân bình thường, cùng nhau xây dựng cái nhà Việt Nam! Chẳng
cần làm thơ nữa!
Từ không làm thơ, khỏi phải viết nữa, tới bài thơ viết muộn, là cả trời
bi thương.
Bi thương hồn Việt
Sắc chàm u hận...
Đành thôi nhang khói..
*
Theo nghĩa đó, cả tập thơ mới ra lò của NLV, chỉ là một bài thơ viết
muộn, sau "Lò Cải Tạo"!
*
Coetzee viết về Brodsky:
Những nhà thơ gân guốc,
dũng mãnh, luôn tạo ra dòng của riêng họ, và trong khi làm như thế,
viết lại lịch sử thơ ca.
Strong poets have always
created their own lineage and, in the process, rewritten the history of
poetry.
Làm sao TTT không tiên
cảm, thứ thơ tự do của ông, mãnh liệt như thế, hũ nút như thế, không
giống ai như thế, sẽ gặp phản ứng dữ dội từ phía độc giả, chắc chắn
khác hẳn, "làm mặt lạ", như thế?
Hãy nhớ lại phản ứng dữ
dội của tầng lớp thưởng ngoạn, khi thơ tự do vừa xuất hiện.
Những dòng cảnh báo, ở
đây, tôi là vị hoàng đế, của vương quốc thơ của tôi, là theo ý đó. Vô
là phải thần phục vị hoàng đế với đầy đủ quyền uy.
Trường hợp ngược lại,
bạn có thể vứt tập thơ vô thùng rác.
Cao ngạo đấy, nhưng cũng
rất là khiêm tốn đấy.
Nhà thơ nào, khi muốn
tạo riêng dòng, cũng nói như vậy, nếu tự tin vào thơ của mình, đâu
riêng gì TTT?
*
Thơ ca phải ngang với
tầm vóc của thời đại lịch sử (như thơ ca thời Lý Trần, thơ ca thời
Nguyễn Du...) TTT không có được tiếng thơ đó.
Có lẽ người đọc hôm nay nên tôn trọng ý kiến
của ông:
Tôi
đã chết nghẹn ngào
ôm tình yêu tự do chật ngực
tôi chết và chối từ
đừng ai gọi tôi là thi sĩ...
(“Tôi
không còn cô độc”)
So sánh TTT với những nhà thơ
thời Lý Trần, với Nguyễn Du, là một vinh dự quá lớn lao, tuy nhiên, cho
dù TTT có muốn nhận cũng không thể được, vì thời của ông, cũng như của
những nhà thơ bạn ông, là thời điêu đứng, thời đêm đen, thời hố thẳm.
Thơ của họ, là thơ của một nơi, một thời nguy nàn.
Nó có mang đến được sự cứu rỗi
hay là không, đó là vấn đề.
Theo Gấu tôi, rất khó. Quá khó.
Thơ TTT chưa làm được điểu này, chính là bởi vì thơ của ông, cũng như
con người của ông, sạch quá. Gấu đọc Milosz và nhận ra điều này.
Những thất bại, không có truyền
nhân, và ngay cả những gì gì, "trần truồng, tuyệt vọng", là theo nghĩa
này.
*
The Apostle tells us that in the
beginning was the Word. He gives us no assurance as to the end.
The poet of the Pervigilium
Veneris wrote in a darkening time, amid the breakdown of classic
literacy. He knew that the Muses can fall silent:
perdidi musam....
"To perish by silence": that
civilisation on which Apollo looks no more will not long endure.
George Steiner: The retreat
from the Word
Chúa nói khởi đầu là Lời. Ngài
chẳng thèm bảo đảm gì cho chúng ta, về cái sự tận cùng, nó sẽ ra làm
sao.
"Lụi tàn trong câm lặng". Dù là
thi sĩ, thì cũng có lúc phải tin rằng Nàng Thơ đã im tiếng.
TTT có "thoát", có "đạt" hay
không? Thật khó nói, thay, cho người đã mất. Nhưng, rõ ràng là, ông gần
như đã im tiếng.
*
The holy man, the initiate,
withdraws not only from the temptations of worldly action; he withdraws
from speech. His retreat intothe mountain cave or monastic cell is the
outward gesture of his silence. Even those who are only novices on this
arduous road are taught to distrust the veil of language, to break
through it to the more real. The Zen koan—we know the sound
of two hands clapping, what is the sound of one?—is a beginners
exercise in the retreat from the word. G. Steiner.
Thánh nhân rút dù không chỉ khỏi những dụ khị, những cám dỗ, của thế
giới hành động. Ngài còn rút dù ra khỏi lời nói. Ngài lên non tìm động
hoa vàng, thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi... Ngay cả những đệ tử của
Ngài cũng được dậy, đừng có tin vào lời nói. Phải xé bỏ bức màn lời để
tới được cõi thực. Công án, tiếng vỗ của một bàn tay, là bài tập vỡ
lòng để rút dù ra khỏi lời nói
-
-
|