Album
|
Hàm &
Quyên & Văn & GCC & Lãng & Hà. Trừ Văn, tất cả quen
nhau những
ngày đầu di cư, vì cùng học trường Văn Hóa của Thầy Nguyễn Khắc Kham,
chỉ là 1
căn hộ trong 1 con hẻm, đường Ngô Tùng Châu, Ngã Sáu, Sài Gòn.
Thủ Thiêm
Gấu có những
kỷ niệm khủng khiếp về cái đói, khi còn là 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít.
Có những
kỷ niệm, là của ông bố của Gấu. Thí dụ cái chuyện bà nội của Gấu, chồng
chết sớm,
nuôi đàn con, có nồi thịt, bắt con ăn dè ăn xẻn thế nào không biết, nồi
thịt biến
thành nồi ròi.
Vô Nam,
phải
đến sau 30 Tháng Tư, Gấu mới được tái ngộ với cái đói, những ngày đi tù
VC.
Thê lương
nhất, và cũng
tiếu lâm nhất, có lẽ là lần Gấu Cái đi thăm nuôi, lần đầu,
sau mấy tháng mất tiêu mọi liên lạc với gia đình.
Cái tật
viết
tí tí, không bao giờ dám viết ra hết, kỷ niệm, hồi nhớ, tình cảm… nhất
là thứ kỷ
niệm tuyệt vời, nhức nhối.... là do cái đói gây nên!
Vợ chồng con
cái nhà Gấu, liền sau 30 Tháng Tư 1975:
Đói tàn khốc!
Câu chuyện tiếu lâm về Bác, do
Gấu phịa, và kể cho mấy anh quản
giáo Đồ Hoà nghe, là vào thời gian Gấu vừa thoát “khổ nạn trong khổ
nạn”, ra
khỏi tổ trừng giới, được trả về đội, và được đi lao động, và do có tí
tiền gia
đình gửi cho, bèn mua chức Y tế Đội, tối tà tà đi từng lán, ghi tên
trại
viên khai bịnh, sáng hôm sau, sau khi chào cờ, đọc tên, dẫn qua khu
bệnh xá.
Nhờ lần thăm nuôi đầu tiên, nhờ
tiền gia đình gửi cho, cuộc đời tù của
Gấu thay đổi
hẳn. Buổi tối, Gấu thường la cà mấy lán, dự tiệc trà, thường là do mấy
trại
viên ban ngày có gia đình thăm nuôi mời. Để đáp lại, Gấu bèn trổ nghề
kể chuyện
tiếu lâm, quay phim chưởng. Danh tiếng vượt khỏi đội, tới mấy đội khác,
rồi tới
tai mấy ảnh. Và được mấy ảnh mời, cho ngồi nhậu chung, kể chuyện tiếu
lâm.
Câu chuyện về Bác, có thể là còn đầy dư âm những ngày “tù trong tù”,
tức những
ngày ở tổ trừng giới. Thế là bèn xổ ra, cứ nhè Bác mà thọi! Vì Bác mà
nên nông
nỗi này!
So với câu chuyện về Bác, của
NQL, cùng một một dòng, "hậu quả của hậu
quả”, nhưng chuyện của Gấu, thì quá thường, so với của NQL.
Nay xin kể ra đây, cho rảnh nợ!
Trước
khi kể Gấu cũng rào đón với mấy Quan quản giáo, đúng hơn, mấy Đấng
TNXP, đừng có bắt tội thằng kể, và được OK.
Theo như truyền kỳ, thuở đó,
thuở đó, Miền Bắc có một đội banh vô địch, đánh
đâu thắng đó, và lần đó, qua Âu Châu dự World Cup, mang được Cup về cho
xứ Mít.
Trong bữa tiệc chia tay, ông bầu, bị đám báo chí Tây Phương phục rượu,
xỉn quá,
bèn phụt
ra bí quyết:
-Mỗi khi ra trận, tui kêu cả
đám cầu thủ tới, dặn một câu... thế là tụi nó đá
như điên.
-Câu gì mà ghê thế ?
-Thì biểu tụi nó, tưởng tượng trái banh là đầu Bác H!
*
Bảnh nhất, là mấy anh quản giáo Đỗ Hoà.
Tha cho anh già!
*
Chuyện của NQL, Đóng vai Bác Hồ!
(1), theo Gấu, phải những tay mê viết văn, mê tạo ra những nhân vật,
tức những
mặt nạ, những thế thân... đọc, mới sướng. Bí quyết của nó, là nằm trong
giai
thoại Trang Tử nằm ngủ hóa Bướm, tỉnh dậy, không biết Bướm là Trang Tử,
hay
Trang Tử là Bướm.
Về ba thứ này, Borges là bậc thầy!
Như là một độc giả, rồi, như là một tác giả.
Source
Thư tín 1
Saturday, August 23, 2008 1:05 PM
NQL tả chân quá siêu. Liên minh
các chế độ hà khắc tạo ra những
con người ẩn ức, để mặc bản năng hướng dẫn, đọc thấy thương, không thấy
tục.
*
NQL theo Gấu, cũng một thứ đệ tử Freud, coi libio là lực sáng tạo, thúc
đẩy
bánh xe lịch sử.
Tuy nhiên, phải nhìn ở tầng cao hơn, và đọc NQL song song với "Ba thằng
lăng nhăng" của Tô Hoài, thí dụ, thì mới nhìn ra cái toàn thể. Đây là
cuộc
chiến giữa vai rớt Mác Xít và vai rớt Libido!
Và đọc đối chiếu với Võ Phiến, chẳng hạn.
Nhân vật VP, sở dĩ theo CS, là muốn huỷ diệt virus libio bằng vai rớt
Mác Xít.
Khi biết thất bại, ông về thành, từ bỏ con người tập thể, tìm lại con
người như
một cá thể, viết những truyện ngắn, tìm cách đào sâu cái phần libio như
lực
đẩy…
Đọc ông khi còn trẻ, Gấu lần ra Zweig, thầy của ông.
VP có những xen thật là khủng khiếp, thí dụ, hai cha con đóng vai Lã
Bố, Điêu
Thuyền, hay anh chàng cù lần ra đồng, đào miếng đất có bàn chân của bà
vợ bỏ đi
theo trai, về thờ...
Mailer, mới đây thôi, cũng toan tính giải thích virus Nazi bằng...
libido, khi
tưởng tượng ra một thời thơ ấu loạn luân của Hitler, trong Lâu Đài
ở trong
Rừng.
Có Gấu nhà
văn, trong số nạn nhân!
[Coi Blog TV]
Gấu đó ư?
Không phải, vì còn ba người nữa, trong có hai chuyên viên Phi Luật Tân
Thủ Thiêm,
Hàm và Gấu.
Hồi đó đó,
Hàm dân Hố Nai. Học Sài Gòn. Trọ học bên Thủ Thiêm cho đỡ tốn. Bữa tha
hương ngộ
cố tri nơi thủ đô người Việt tị nạn, tức Quận Cam, Tiểu Sài Gòn, Gấu
quên không
hỏi, anh còn nhớ cảm giác buổi sáng đứng chờ phà, ngó sang bên Sài Gòn,
khi đó
chưa có tượng Đức Thánh Trần; hay những buổi tắm sông, bơi ra tận mấy
cái phao
nổi lềnh bềnh ở giữa sông, người đầy dầu dơ, từ mấy con tầu mặc tình xả
xuống
lòng sông Sài Gòn.
Với Gấu, đó
là thời gian thần tiên trong đời, được thực thụ đóng vai một anh học
trò trọ học.
Tiền ăn, tiền học, bà cô từ bên Tây gửi về.
Ấy a, sự
tình nó như vầy, sau khi thằng cháu báo tin đậu trung học, bà cô mừng
quá, bèn
ra lệnh, tháng tháng tới địa chỉ “đó đó” lấy tiền. Ngoài ra, Gấu còn
kiếm thêm,
trước, làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, sau, làm trợ giáo, tức
kèm trẻ tại
gia, khi có được cái bùa lỗ ban là tấm bằng trung học đệ nhất cấp.
[Mảnh bằng
này cũng có riêng một huyền thoại ly kỳ về nó, thời gian trọ học ở Thủ
Thiêm,
và cái địa chỉ đó đó, nơi Gấu tháng tháng đến lãnh lương, cũng là cả
một thiên
tình sử của Gấu, xin phép để riêng ra, kể sau].
Gấu thi
trung học đậu kỳ 2, trong khi bạn bè may mắn hơn, ba tháng hè theo thầy
Đoàn Viết
Lưu học đệ tam, tới năm học mới, nhảy lên đệ nhị. Gấu theo bạn, không
lẽ học một
mình, bèn ngày đệ nhị, tối tự học chương trình đệ tam. Cuối năm Gấu đậu
ngay kỳ
đầu trong khi bạn bè đa số rớt lại, trong có Hàm.
Đậu năm đó,
là nhờ Hàm một phần, trong khi anh lại rớt.
Lần đó, Hàm
có cuốn bài tập vật lý của tay Georges Ève (?), một trong những bửu bối
của đám
học trò chúng tôi. Gần như cả năm anh quần quật với nó. Khi còn độ
chừng một tuần
tới ngày thi, Gấu nói, mày cho tao mượn coi thử.
Gấu lật qua,
chú ý đến cách giải của từng trường hợp, từng loại. Vào thi, bài toán
quang học
y chang một bài trong cuốn bài tập, nghĩa là cách đặt để thấu kính hội
tụ, phân
kỳ, gương phẳng... y chang, chỉ khác những con số. Gấu giải như máy. Ra
khỏi lớp
thi sớm nhất, vội đi tìm bạn Hàm để cùng sướng cái sướng trúng tủ!
Gặp, anh lắc
đầu, nói ngồi suốt giờ cắn bút, tới hết giờ nộp giấy trắng! Gấu lấy
cuốn sách từ
trong cặp của anh, lật ra, chỉ đúng bài toán. Anh đứng coi chừng mươi
phút, đột
nhiên xé nát cuốn sách, ngửa mặt lên trời than, cả năm trời, tao làm
đến nát cuốn
sách, tại làm sao chỉ trong một tuần mà mày lại có thể làm hết, mà còn
nhớ hết
mấy trăm bài toán?
Tôi nói với
anh, tôi không hề giải một bài tập nào trong đó, mà chỉ coi phương pháp
giải, của
từng loại.
Sau này, tôi
gặp một trường hợp tương tự, xẩy ra với một anh bạn học Toán Đại Cương.
Những ai đã
từng học Toán Đại Cương, Đại Học Khoa Học Sài Gòn thập niên 1950, chắc
chắn là
còn nhớ ông thầy người Pháp Monavon. Ông có bà vợ, nghe nói hai vợ
chồng rất mê
văn chương Việt Nam, và đã lấy mấy cái bằng tại đại học văn khoa Sài
Gòn.
Giáo sư Monavon
này có một cái lạ, là, khi vào lớp, nếu ồn quá, là ông không giảng bài.
Trong
khi giảng, nếu ồn quá, thay vì nói lớn, ông nói thật nhỏ, hay ngưng
nói, cho tới
khi lớp yên lặng trở lại.
Tôi học ông
được một năm. Tới kỳ thi, ông ra bài toán, tôi không biết làm sao mà
đặt cây
bút lên trên tờ giấy thi, vì không hiểu một tí gì về nó.
Đã có lần
tôi viết về nỗi đau này. Do nhà nghèo, không có tiền mua sách bài tập,
thành ra
không hiểu, thế nào là một bài toán ở Toán Đại Cương, và làm thế nào để
giải
nó. Suốt năm học, tôi chỉ có tập cours quay ronéo của giáo sư Monavon,
trong
khi bạn bè có những cuốn như bài tập tiếng Pháp của những giáo sư nổi
tiếng như
Bouligand chẳng hạn.
Năm sau, Gấu
đổi qua học Toán Lý Hoá, trong khi cùng lúc thi đậu vô trường Quốc Gia
Bưu Điện.
Cũng học song song, hai chương trình một lúc. Nhưng vẫn thèm học Toán
Đại
Cương.
Bữa đó, gặp
anh bạn cũ, vừa xong chứng chỉ Toán Đại Cương. Tôi hỏi, làm hết bài
toán hả.
Anh lắc đầu, nói, tao không làm được một câu nào hết.
Tôi trố mắt,
hỏi lại, vậy sao đậu?
Anh cười, giải
thích, tới giờ chót mà tao vẫn chưa giải được câu đầu. Bí quá, tao ghi
vô giấy,
thưa thầy Monavon, đây là cách giải bài toán của con.
Thế là anh
ghi ra, cách thức, phương pháp anh tính giải bài toán.
Vậy mà đậu.
Ông thầy đâu
cần anh giải bài toán. Mà là cần, anh biết cách giải nó.
Còn một anh
nữa, cũng khoá đó, làm được đủ muời bài, vậy mà rớt
Ông thầy
phê, chó ngáp được đủ mười con ruồi. Không biết mẹ gì về Toán Đại Cương
hết. Về
học lại năm nữa!
Sau này, mê
văn chương, Gấu ít khi tin ở những bài phê bình đọc sách giới thiệu
sách. Cũng
đọc, nhưng nếu quan tâm tới một cuốn sách nào đó, một tác giả nào đó,
là đích
thân tìm đọc, cố tìm cho riêng mình, một cách giải thích.
Gấu áp dụng
những bài học toán của ông vào văn chương.
Bài học thứ
nhất: Mi phải tìm cho mi, một cách giải, cho dù là sai, về một bài toán.
Đừng bao giờ
học toán bằng những bài giải có sẵn.
Bài học thứ
nhì: Khi ồn quá, thì nói nhỏ lại [viết ít đi]. Hoặc đừng viết gì hết!
Bài học thứ
ba: Học Toán không thôi, là không đủ. Phải mê thêm một, hay vài, thứ
khác. Bất
cứ thứ gì.
Bài học thứ
ba, của giáo sư Monavon, sau này, tôi gặp lại khi đọc Calvino. Ông này
nói, tủ
sách của bạn, nếu toàn sách văn chương, là... vứt đi!
NQT
Một bạn văn
gợi ý:
Về bài học
thứ nhất, anh đọc thêm câu của Bacon: Trong khoa học, sai lầm còn tốt
hơn là
hoang mang.
Về bài học
thứ hai, phải đọc ra cõi thâm sâu của lối sống của ông thầy Monavon:
Nếu đời loạn,
là "Ta Về", theo kiểu loạn đọc
thư của ông Khổng Tử.
Về bài thứ
ba: Văn chương, giống như phần lý thuyết, khoa học, là phần thực hành
của nó.
Lý thuyết không thôi, là không tưởng. Thực hành không thôi, là thằng
ngu. Phải
hai thằng cộng lại mới được.
Đây cũng là
quan niệm về con người hoàn toàn của Marx, mà Bác Hồ thuổng, và sáng
tạo thêm
ra, là, muốn có xã hội chủ nghĩa, thì phải có con người chủ nghĩa xã
hội.
Source
Hồi đó đó, từ
Sài Gòn qua Thủ Thiêm, có 1 cái “bac”, tức phà, ở phiá bên trên cột cờ
Thủ Ngữ,
quá khách sạn Majestic. Ở cột cờ Thủ Ngữ, là bến đò, với những chiếc đò
nhỏ, chở
vài người khách, khi phà đóng cửa tiệm, hoặc khi quá đông khách… Gấu
trọ học ở
phía phà, không phải ở phía xóm.
Cái
tay TNXP, chuyên lo việc kiểm soát đồ thăm nuôi của tù cải tạo, và
không thèm bỏ
túi mấy trăm bạc Gấu Cái dím trong bị gạo, lần thăm nuôi Gấu đầu tiên
sau mấy
tháng bặt tin nhà, và biểu Gấu, hãy dùng số tiền đó mua chức nhân viên
y tế Đội
Ba, nông trường cải tạo Đỗ Hoà, vốn là một độc giả của Gấu, cũng rất mê
nhà văn
y sĩ Hồng Mao Cronin, chính tay này biểu Gấu, chức y tế đó chỉ là kế
hoạch chữa
lửa thôi. Anh phải sử dụng đúng cái tài của anh, thì mới là kế hoạch
đường dài.
Gấu nghe nói, ngớ người, anh nói sao, ở đây mà dịch dọt cái chó gì cơ
chứ?
Anh bật cười. Tôi đâu có order anh dịch, mà order anh làm báo Đảng!
*
Thời gian xẩy ra sự cố, một đội lao động cải tạo, sáng sớm qua sông,
thi công
cho một đơn vị địa phương, kiếm tiền cho nông trường [cái này gọi là
nằm ngoài
kế hoạch], đò lật, chết muời mấy mạng, Gấu khi đó đã hết còn phải đi
lao động,
bây giờ, về già, thỉnh thoảng nhớ lại, vẫn còn bồi hồi, và tưởng tượng
ra cái cảnh
bà cụ Gấu mỗi tháng đi đò Sài Gòn - Cần Giờ, lên nông trường Đỗ Hòa
thăm nuôi
thằng con.
Bởi vì nông trường giống như một hòn đảo nhỏ, nằm bờ bên kia, đò Cần
Giờ đổ
khách bên này sông, bà cụ Gấu từ đó, đi đò của nông trường, qua sông.
Đò nhỏ, Gấu
cứ tưởng tượng cái cảnh một bà già lóp ngóp bò xuống thuyền, ôi chao,
cái khổ của
người ở trong trại tù thì chắc chắn rồi, nhưng cái khổ của người thân ở
bên
ngoài cũng đâu có thua gì.
Vậy mà lặn lội từ Nam ra Bắc, thảm cỡ nào.
*
One final legend, and my chronicle
Is finished: the task ordained by God...
Pushkin, Boris Godunov
D.M. Thomas viết "Solzhenitsyn, thế kỷ ở trong tao", "mê"
nhất đoạn, trong lời tựa, Solz mở ra "ẩn dụ"
LCT [Lò Cải Tạo], hay Gulag:
Vào năm 1949
tôi và vài người bạn vớ được một ghi chú thật đáng tiền, trong tạp
chí Nature, của Viện Hàn Lâm Khoa Học, về một vụ khai quật một vùng
băng nằm dưới
những tầng đáy ngầm của sông Kolyma River. Trong tầng băng ngầm đó, có
một con
suối, và trong con suối, họ khám phá ra một thứ sinh vật tiền sử [a
prehistoric
fauna] cách chúng ta chừng hàng chục ngàn năm. Chúng được bảo quản
tuyệt vời đến
nỗi, còn tươi rói. Thế là cả đám người bèn đập bể mảng băng ra, và cứ
thế nhai
sống nuốt tươi sinh vật tiền sử đó!
Solz tiếp tục tưởng tượng ra sự kinh ngạc của độc giả tờ tạp chí, về
một thứ
sinh vật từ bao nhiêu ngàn năm trước còn tươi rói, nhưng đồng thời, dúm
bạn bè
của ông cùng hiểu ngầm với nhau, về cái ý nghĩa đích thực và hùng tráng
của một
"mẩu tin vô ý vô tứ như thế", ["thiếu cẩn trọng", chữ của
Solz.], ấy là nói, về phiá nhà nước ta.
Solz. viết, chúng tôi hiểu, liền lập tức, sự thực của câu chuyện, bởi
vì chính
chúng tôi, đã từng là đám người đó. "Chúng tôi, cũng như thế, cũng
thuộc về
cái bộ lạc zeks, độc nhất trên mặt trái đất này, những con
người có thể
ăn sống nuốt tươi, sinh vật tiền sử, với sự hứng thú, with relish".
*
Hai Lúa cũng đã từng trải qua kinh nghiệm trên đây rồi. Những ngày cải
tạo. Và
cái sinh vật tiền sử kia, thực sự chỉ là một con tép, tình cờ quơ được
trong
khi trầm mình dưới lòng kinh.
Đó là lần đầu, Hai Lúa biết cái ngon, cái ngọt, cái tươi, cái mát, của
một con
tép rẫy lách nhách ở kẽ răng.
Di cư vào Nam, sống ở Sài Gòn, học hành, tốt nghiệp, làm việc ngay tại
Sài Gòn,
chỉ tới một ngày trầm mình trong một con kinh ta đào đã có nước chảy
qua đó,
Hai Lúa mới được thưởng thức một con tép tươi rói, quẫy ở giữa những
cơn đói triền
miên...
Bao nhiêu năm trời, Hai Lúa vẫn còn nhớ y nguyên những mắt thèm thuồng
của
chúng bạn, và một thằng trong đó, hét lên:
-Đợp liền nó đi, thằng ngu!
*
Kỷ niệm trên, là từ những ngày Phạm Văn Cội, Củ Chi. Đúng thời kỳ cả
nước đói
khủng khiếp.
"Tổ quốc ơi, ăn khoai mì chán quá", là thời kỳ này.
Khoai mì, bo bo.... Bột mì cứ thế luộc lên, thành từng lát, chấm
muối ăn
ngon lành. Dân đói còn hơn cả tù. Gấu nhớ là, do có gia đình thăm nuôi,
nên nhiều
lần nhường phần ăn bo bo cho mấy người dân địa phương, bù lại chút
thoải mái tắm
rửa, giặt rũ.
Sau này đọc Brodsky tả những ngày ông lưu đầy nội xứ vùng Bắc Nga, là
lại nhớ
những ngày tù của Gấu. Ông viết giùm Gấu những dòng này, khi Volkov
hỏi, ở đó,
có mần thơ không?
Cũng có, kha khá. [Gấu thì không bao giờ nghĩ đến văn chương, khi đi tù
VC].
Nói chung, chẳng có gì để mà làm ở đó. Nói chung, chung nói, [all in
all], bây
giờ, nghĩ lại, đó là thời kỳ đẹp nhất trong đời tôi. Chẳng có gì có thể
tệ hơn,
mà cũng chẳng có gì có thể khá hơn.
[Đẹp nhất mà!].
*
Cái con tép nhỏ xíu đó, Gấu nhớ lại, khi đọc Gulag.
Và cùng với nó, những chú chuột.
Cũng phải sau khi Gấu Cái thăm nuôi lần đầu, Gấu mới được thưởng thức
mùi vị thịt
chuột.
Một
vị độc giả, rất thân, và rất quí Gấu, ở cái gia tài cả một trời giai
thoại về cái
đói, và ảnh hưởng của nó lên đạo đức con người, ra lệnh, hãy trút hết
cái gia tài
của mẹ để lại đó, mà đi cho thảnh thơi, Gấu nghĩ cũng phải, và mở ra
cái trang
Thủ Thiêm này. Bởi vì có thể nói, cái khúc sông này, quả có liên quan
đến cả 1
cuộc đời của không phải của Gấu, mà còn của ông cụ của Gấu.
Này
nhé, ông cụ Gấu bị tên học trò thịt, thẩy xác xuống sông.
Gấu
bị VC cho xơi hai trái mìn, ngay khúc sông Sài Gòn nơi cột cờ Thủ Ngữ,
bên kia
sông là Thủ Thiêm, nơi sau 1975, có 1 thời gian, là quê nhà của Gấu!
Gấu
bị tó ở bên đó. Bà cụ Gấu mỗi tháng 1 lần lên phà, đi thăm nuôi Gấu,
cũng từ khúc
sông đó, dòng dã hai năm trời.
Phía
xa hơn, là cầu Calmette, cũng lại là 1 quê nhà khác nữa của Gấu!
Gấu bị tó ở
bên Thủ Thiêm, đúng thời gian Gấu Cái đang sửa soạn cho Gấu vượt biên
bằng đường
bộ, đi ngả Kampuchia.
Ngày ba buổi,
tức ba cữ, vượt bến đò nơi cột cờ Thủ Ngữ, qua bên kia sông, sáng sớm
hôm đó, đúng
ra là Gấu đã bị tóm rồi, khi 1 tên quen làm trong ban đại diện Trường,
nhìn thấy
Gấu từ xa, chỉ cho Chú Mười, ông lắc đầu, tha cho nó!
Chiến dịch kéo
dài suốt ngày. Trưa, Gấu qua, nghe báo động từ ngoài bến đò, Gấu bỏ đi
mãi tít
xa, dọc theo sông, kiếm 1 chỗ mgồi, và, chờ, chờ hoài, đến chừng 5 giờ
chiều,
nghĩ êm rồi, mò ngược trở lại, gặp Chú Mười. Chú biểu Gấu, thôi về
Trường với
ta!
Ở Trường đâu
chừng 1 tháng, có chuyến đưa quân ra Ðỗ Hòa, Gấu đăng ký xin đi. Hy
vọng ra đó,
trốn trại, về cho kịp chuyến vượt biên.

Tác giả bức hình về Việt
Nam năm 2000, chắc bức hình được chụp thời gian này.
Trông hình vẫn thiên đường thuở ấy của Gấu .
So vị
trí, chắc phiá bên này sông là khu Cột Cờ Thủ Ngữ, hoặc xế xuống chút
nữa, ngang cầu Khánh Hội.
Cột Cờ Thủ Ngữ là nơi có bến đò Thủ Thiêm, nhà hàng Point des Blageurs,
nhà
hàng nổi Mỹ Cảnh, trước 1975.
Sau 1975, có bến đò đưa thân nhân đi thăm
tù cải tạo tại trại Đỗ Hải, Cần Giờ.
Mỗi tháng, thường là bà cụ Gấu ghé đây,
xuống đò, đi tới gần trưa thì tới một bến đò. Xuống, đi thuyền nhỏ, qua
sông. Bên kia sông là trại cải tạo Đỗ Hải ở giữa một vùng rừng tràm
đước, bao quanh là sông rạch, vô phương trốn thoát. Đám tù cải tạo, có
lần buổi sáng đi lao động, chìm đò, chết mấy chục mạng.
Gấu ở đây hình như trên hai niên, về, ra Bưu Điện viết mướn trở
lại, đến 1985, gặp Châu Văn Nam, nhiếp ảnh viên UPI, anh thực hiện
chuyến
vượt
biên đúng vào năm kỷ niệm 10 năm Đại Thắng Mùa Xuân, cho Gấu cùng đi.
Xuất phát đêm 23 Tháng Chạp, bãi Vàm Láng, ra cửa biển Vũng Tầu, bị
bão, rạt trở lại. Bị bắt, vô nhà tù Mỹ Tho ăn Tết. Sau Tết án cải tạo
tập trung hai niên, trại Bà Bèo, Mỹ Tho, may được ông Cậu Tư, phía bên
vợ, xin cho về.
Châu Văn Nam ở lâu hơn. Ra tù, anh tìm đường đi Lào, có ông anh ở bên
đó. Trở về Việt Nam trở lại, kéo Gấu đi nữa. Gấu qua Lào, qua Thái, vô
trại tị nạn, tới 1994, được phái đoàn Canada nhận.
Thời
Sự Hình
Cảnh này thì
lại giống phía bên kia Thủ Thiêm, xa xa là cầu Calmette.
Gấu có quả
nhiều kỷ niệm ở bến đò này (1)
(1)
1965,
Gấu, trong khi nằm chờ mổ lần thứ nhì, tại nhà thương Grall, không biết
làm gì,
bèn đọc Lefèbvre. Nhờ ông anh vợ hụt mua giùm, tận bên Tây.
Một lần, cô em, Bông Hồng Đen, thương tình, ghé thăm, trên đường từ
nhà, đường
Gia Long, Ngã Sáu Sài Gòn, em đi ngang Chợ Bến Thành, qua Lê Lợi, ghé
tiệm sách
nói trên, mua cho Gấu cuốn Un Beau Matin d'Été, của James Hadley Chase,
tiểu
thuyết đen, série noire, hay thriller, hay polar như bây giờ thường gọi.
Cô hỏi, đọc chưa, Gấu ngu quá, nói, đọc rồi.
Cô nói, em cũng đoán là anh đọc rồi.
Lần này, mua, là mong gặp lại cuốn kia.
Gặp lại, một buổi sáng đẹp, mùa hè.
Source
Nơi
có cái xà lan, là bến đò đi thăm nuôi tù cải tạo Ðỗ Hòa.
Kế bên Ngân Ðình Tửu Gia, là nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, nơi Gấu ăn mìn VC.
Bên kia sông, Thủ Thiêm, là nơi Gấu bị tóm, tống đi Ðỗ Hòa.

Thủ Thiêm
Nguồn: Việt Nam
Xưa
Y chang Bến
Tầu Sài Gòn.
Chỗ có
cái xà
lan, là bến phà đi nông trường cải tạo Ðỗ Hòa, Cần Giờ. Mỗi tháng, bà
cụ Gấu,
chừng 8 giờ sáng, một bữa chủ nhật nào đó,
lụi cụi xách giỏ đồ thăm nuôi xuống phà, chừng trưa thì tới, vội vàng
thăm thằng
con, là về, cho kịp chuyến.
Lùi về
phía
bên tay phải của bạn, là nhìn thấy nơi nhà thơ TTT ném mẩu thuốc xuống
lòng sông,
rồi phơi lòng mình lên kè đá!
Hà,
hà!
Nhớ quá!
C'est à
Paris, à la fin de 1939 ou au début de
1940, alors que j'étais terrassé par une attaque de névralgie
intercostale, que
je sentis la première petite palpitation de Lolita. Autant qu'il m'en
souvienne, ce frisson avant-coureur fut déclenché, je ne sais trop
comment, par
la lecture d'un article de journal relatant qu'un savant avait réussi,
après des
mois d'efforts, à faire esquisser un dessin par un grand singe du
Jardin des
Plantes; ce fusain, le premier qui eût été exécuté par un animal,
représentait
les barreaux de la cage de la pauvre bête.
Nabokov: A PROPOS DE «
LOLITA
»
*
1989. Trong một bài viết ở
phía sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều
diễm,
thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng
nàng - la
palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu
báo, thuật
câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một
chú khỉ ở
một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương"
là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi dài chạy trốn
quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một
của
Nabokov, và một của Koestler. Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch
"Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với
những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư
vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên
nổi
chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê
hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm
thêm cay
đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống
lại,
chỉ một sợi nắng Sài-gòn: Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng
của thành
phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang
thang trên
những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài
Gòn,
bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây
máu mủ,
ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng
nymphette tinh
quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ
sau này,
đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó:
Miền Bắc,
Hà-nội.
Lần
Cuối Sài Gòn
Như vậy, BHD thoát ra từ cái
bóng của Lolita, và cả hai thoát ra từ bóng của một con khỉ ở nơi
chuồng thú, đằng
sau tất cả, là cái chuồng giam giữ tuổi thơ của cả hai [của Gấu và
BHD]: Miền Bắc.
Hà Nội.
Gấu đọc những dòng trên,
của Nabokov, trong trại tị nạn, cùng lúc viết Lần Cuối Sài Gòn. Lần đầu
tiên xuất
hiện trên
báo Làng Văn, Canada. Báo về tới trại, 'gây chấn động' trong đám người
tị
nạn. Bây
giờ, nhớ lại, vẫn còn cảm thấy bồi hồi xúc động. Nhưng phần hồn của
Gấu, để lại
Trại, phải là
Bụi.

CHÙA
SIKIEW Khu C
"Nhưng nếu
không vì dung nhan
tàn tạ,
chắc gì Thầy đã nhận ra em?"
Sikiew nổi
tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những
giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Source
Trời ở nơi nào ta ở đây
Nguyễn Ngọc Tư
"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!
The Anger of Exile
And I step ashore in a
fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.
But the hills are still
the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.
Derek Mahon
Giận dữ lưu vong
Và tôi bước xuống bến
tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích
Nhưng
bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì
|
|