Album
|
Happy Christmas
Noel
09 Shopping
Snow
Man
Tết
Canh Dần
Happy Christmas
*
Best Wishes To All
Merry Chrismas and Happy New Year
NQT
A MERRY DICKENS CHRISTMAS
Everyone loves
Charles Dickens during the
holidays, yet no one seems to
read him.
Daniel Arizona ponders the man's literary genius
Noel
09 Shopping
Snow
Man
[Last Winter, 2009]
Nghe Nhạc GIÁNH SINH (44 bài)
có
những lúc
vì sao
vỡ. và tôi ngồi. khóc
thành phố. không còn. ai
tiếng động. được giữ lại.
phía sau
và được ném. về phía trước
không. ở lại. với tôi
bầu trời. đã rách. toang
chiều buồn. ngồi. trên dãy
nham thạch
vỡ vụn. những tư duy. nhớ.
thật nhiều
những bàn tay. nước thả. trôi
về nhiều phía. và tôi ngồi.
khóc
tiếng nói. không. còn âm
thanh
những suy nghĩ. đi trốn. biệt
đôi môi. gió cuốn xa. mùi
hương. dị biệt
ôm chặt. lấy những dấu chấm
mà khởi đầu. là những nghi
vấn
và tôi. là cái còn lại. của
sự khó
biểu
tượng
giáng
sinh. những cây thông
gói gọn. trong nhà
không khí. ấm với. những bóng
đèn con
nhiều màu. ôm. vòng quanh
những gói quà. đẹp. xếp gọn.
dưới gốc
cây thông. đứng rũ. chết
thiên thần. ngôi sao. cánh
tuyết
những trang sức. cho cái chết
nhớ đất. và cái lạnh. mùa
đông
Jennifer @ Indigo
Richie:
Chân Dung Tự Họa
Mưa
& Tuyết & Rừng
sau nhà
Mưa
& Tuyết & Cây
Noel trước nhà
Happy Christmas
Richie &
Jennifer 's Noel Tree
Happy Christmas
Richie &
Jennifer 's Noel Tree
7.12.2010
6.12.2010
Giáng
Sinh 2010
Chucmunggiangsinhvanammoi 2004
Trước 1975, tôi
là một cán sự kỹ thuật Bưu Điện, ra trường khóa đầu tiên, [hình như là
năm
1960], làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện, số 11
đường
Phan Đình Phùng, Sài Gòn, chuyên lo việc sửa chữa máy móc vô tuyến điện
từ các
đài địa phương gửi về. Lâu lâu, được phái đi các đài để sửa máy tại
chỗ, do
không thể chuyển về Sài Gòn. Sau hai năm, do biết tiếng Anh tiếng Pháp,
tôi
được chuyển qua bên quốc tế, làm việc cũng kế bên Ty Trung Ương Cơ
Xưởng Vô
Tuyến Điện, building số 7 Phan Đình Phùng. Đài Phát Thanh Sài Gòn, tòa
nhà số
5. Tôi đã có lần kể về những ngày Mậu Thân, đám biệt động thành chiếm
Đài Phát
Thanh Sài Gòn, lính Dù được trực thăng đưa tới, từ trên đánh xuống,
chung quanh
Đài, xe tăng, thiết giáp vây chặt. Đài Vô Tuyến Điện Thoại Quốc Tế, nơi
tôi làm
việc cũng lọt vào trong vòng đai. Thời gian đó, tôi có làm part time
cho một cơ
quan thống tấn quốc tế. Thế là tử thủ luôn tại Đài, chuyển hình chiến
tranh đi
khắp thế giới, cho tới khi trận đánh kết thúc. Khi tiếng súng im hẳn,
buổi sáng
hôm đó, tôi lò mò hạ sơn [Đài VTĐ ở lầu trên cùng building năm tầng
này], xuống
tiệm phở 44 Phan Đình Phùng ở phiá bên kia đường, làm một tô điểm tâm,
hình ảnh
còn đọng lại mãi cho đến bây giờ, là một chiếc rép râu, trên mặt đường
phía bên
ngoài tiệm phở. Chủ nhân của nó, là một xác người nằm trong nhà để xe,
nơi lính
Dù kéo vô chất thành đống chờ dọn dẹp, chuyển đi nơi khác, trả nhà để
xe lại
cho những chiếc xe đạp, xe gắn máy, của nhân viên Đài Phát Thanh Sài
Gòn. Nói
là nhà để xe, nhưng thực sự chỉ là một khúc lề đường được lợp tôn,
chăng kẽm
gai, theo kiểu dã chiến.
Vào những năm
sau cùng của miền nam cộng hòa, tôi xin chuyển về làm ngay tại Bưu Điện
chính
Sài Gòn, phía bên cạnh Vương Cung Thánh Đường. Chuyên lo về kiểm tra
tần số vô
tuyến điện , và liên lạc với Cơ Quan Viễn Thông Quốc Tế, trụ sở
chính tại
Genève.
Dài dòng như
vậy, để xin thưa một điều, là những phòng ốc, hành lang bên trong Bưu
Điện, tôi
rất rành rẽ. Văn phòng Tổng Giám Đốc Bưu Điện nằm ở lầu hai, kế ngay
bên chiếc
đồng hồ lớn. Thời gian ngay sau khi ông Diệm đổ, ông Tổng Giám Đốc Bưu
Điện cũ
đi theo, ông Điều, thầy dậy Bưu Điện của tôi, lên làm tổng giám đốc,
học trò cũ
của ông là lũ chúng tôi vẫn thường lên gặp thầy tại đây. Đứa mè nheo
xin nhà,
đứa xin đi nước ngoài tu nghiệp. Từ đó, theo hành lang có thể đi ra
phía sau,
và đi ra cổng sau Bưu Điện, nằm trên đường Hai Bà Trưng. Đây là con
đường ra vô
hàng ngày của nhân viên Bưu Điện.
Sau 1975, tôi đã
có lần phải “thoát ra” ra phía cổng sau, bằng con đường này.
Nói rõ hơn,
trước 1975, văn phòng của tôi, là ở bên trong Bưu Điện. Sau 1975, văn
phòng của
tôi, là vỉa hè phía đằng trước Bưu Điện. Cái duyên nợ của tôi với Bưu
Điện quả
là tuyệt vời. Không có thời gian làm Đài Vô Tuyến Điện Quốc Tế, và nhân
đó làm
thêm cho hãng tin UPI, tôi không có cơ hội làm quen Châu Văn Nam, một
nhiếp ảnh
viên của hãng này. Sau 1975, nếu không làm chuyên viên vỉa hè Bưu Điện,
tôi
không làm sao có cơ hội gặp lại anh, và từ đó, mới có chuyến vượt biên
bằng
đường bộ, qua Lào, băng qua sông Mekong, tới Thái Lan, vô nhà tù quốc
tế
Bangkok, vô trại tị nạn, và sau đó, tái định cư Canada, miền “đất lạnh
tình
nồng”, “miền đất hứa”, miền đất thiên đàng”… như một ông nhà văn Việt
Nam cũng
tái định cư tại đây đã từng ca ngợi, với một chuỗi tác phẩm có tên như
trên.
Trở lại với
những năm tháng sống bên vỉa hè phía bên ngoài toà nhà Bưu Điện Sài
Gòn. Đây
đúng là nhà của cả nhà chúng tôi. Cả hai vợ chồng đều ra đây kiếm sống,
nuôi
bốn đứa nhỏ; hai đứa lớn, những lúc không tới lớp, thường ra đây phụ bố
mẹ,
nhất là trong những dịp lễ hội, Giáng Sinh, Tết… Có khi còn đem công
việc về
nhà làm, thí dụ như những ngày hội, cần hoa giấy, confetti, thế là cả
nhà xúm
nhau làm, có khi thức suốt đêm. Hay những ngày hè nắng gắt, đứa cháu
lớn mở
ngay bàn bán nước giải khát kế bên bà mẹ đang cặm cụi viết một bức thư
cho
khách hàng.
Người khám
phá ra vỉa hè Bưu Điện, là bà xã, tức nhà văn Thảo Trần, tác giả một
vài truyện
ngắn đã từng được bà chủ báo Sài Gòn Nhỏthương tình cho đăng. Đó là
thời gian
sau khi tôi đi cải tạo về, không biết làm gì, bà xã một bữa đi đâu về,
hớn hở
nói, kiếm ra việc làm rồi. Tôi hỏi việc gì. Bà nói, viết điện tín, viết
đơn
mướn. Nhất là viết điện tín. Tôi trợn ngược con mắt, đã lé lại
càng thêm
lé, và hỏi lại:
-Viết điện tín?
Làm sao cái có cái nghề gì kỳ cục vậy?
Hóa ra là
có cái nghề viết điện tín thiệt, ở ngay vỉa hè Bưu Điện.
Thời gian này,
đã có nhiều người vượt biển. Con số những người chết trên biển cả chắc
là
nhiều, nhưng người may mắn tới trại tị nạn, tái định cư đệ tam quốc gia
cũng
tăng lên. Thư từ, điện tín, rồi thùng quà theo nhau mà về. Gia đình
thân nhân
nhận xong thùng quà vội vàng chạy ra Bưu Điện, nhờ một ông viết mướn
đánh giùm
cho một cái điện tín, đã nhận đồ. Với ông viết mướn, ba chữ “đã nhận
đồ” đó
biến thành một chữ, tính tiền cũng chỉ một chữ, đó là “danhando”.
Bởi vì tiếng
Việt đơn vận, nên Bưu Điện cho ghép như vậy. Tôi không nhớ, con số tối
đa những
mẫu tự được ghép. Nhưng quả là thật tuyệt vời, cái nghề tuyệt vời, nghề
ghép
chữ, những năm tháng đói khổ như thế đó, nhưng bây giờ nhớ lại, thật là
tuyệt
vời.
Quả là tuyệt
vời, theo cả nghĩa tiếu lâm, tức cười của nó. Do không có dấu, cho dù
nếu viết
riêng ra, vẫn có thể hiểu theo nhiều cách. Đã có lần, trong phòng tranh
của một
họa sĩ, đám chúng tôi, khi đó còn là học sinh trung học, đã làm mấy cô
gái đỏ
mặt trước một bức tranh, vẽ ba người đàn ông, với lời chú không bỏ dấu,
và nếu
bỏ dấu, thì một trong những nghĩa của nó là như vầy: “Ba Người Nhóm Cãi
Lộn”.
Bởi vậy, có lần, tôi bị khách hàng mang bức điện đã gửi đi, được bà con
của
khách hàng ở nước ngoài gửi trả về, với lời chú: Đọc không hiểu gì cả.
Chính vì
làm cái nghề ghép chữ đó, mà đám chúng tôi bị nhân viên bảo vệ Bưu Điện
làm khó
dễ. Có lần tôi bị bắt, dẫn vô chính văn phòng ông giám đốc Bưu Điện
thuở nào,
bắt ngồi đó, chờ mấy ông công an đến làm việc. Tôi đã men theo hành
lang, chuồn
ra cổng sau, ra trở lại phiá trước, và tiếp tục hành nghề. Đám bảo vệ
không làm
sao hiểu nổi, tại làm sao mà cái thằng mắt lé đó lại ra thoát được!
Tổng cộng tôi bị
bắt hình như ba lần, đi cải tạo ba lần, về lại làm nghề viết mướn tiếp,
cho tới
ngày gặp Châu Văn Nam thì mới bỏ được Nghề Tổ Đãi đó.
NQT
Richie
& Jennifer 's Noel
Tree
Under Construction
Tuyết
xuống vườn sau nhà,
sáng 27.11.2010
*
Star of
the Nativity
In the
cold season, in a
locality accustomed to heat more than
to cold, to horizontality
more than to a mountain,
a child was born in a cave in
order to save the world;
it blew as only in deserts in
winter it blows, athwart.
To Him,
all things seemed
enormous: His mother's breast, the steam
out of the ox's nostrils,
Caspar, Balthazar, Melchior-the team
of Magi, their presents
heaped by the door, ajar.
He was but a dot, and a dot
was the star.
Keenly,
without blinking,
through pallid, stray
clouds, upon the child in the
manger, from far away-
from the depth of the
universe, from its opposite end-
the star was looking into the
cave. And that was the Father's stare.
December 1987
Joseph
Brodsky: So Forth
Đêm
Thánh Vô Cùng
Vào một
mùa lạnh, tại một miền
đất quen với nóng nhiều hơn là lạnh
quen với đồng bằng hơn là núi non,
một đứa bé sinh ra trong một hang cỏ, để cứu vớt thế giới ;
gió thổi như nó chỉ thổi ở trong những sa mạc vào mùa đông, từ bên này
qua
tới bên kia.
Với Cậu
Bé, mọi thứ, mọi vật có vẻ như thật lớn lao: vú mẹ, làn hơi từ
mũi con bò, Caspar, Caspar, Balthazar,
Melchior – toán Magi, những quà tặng của họ thì chồng ở bên cửa,
hé mở.
Cậu Bé chỉ như một điểm. và một điểm là ngôi sao.
Hào
hứng, không chớp mắt, qua những
đám mây xanh xao, lạc lõng, ở phía bên
trên đứa bé ở trong máng cỏ, xa thật xa -
từ chốn sâu thẳm của vũ trụ, từ phía
tận cùng đối nghịch -
ngôi sao chăm chú nhìn vào trong hang. Và đó là cái
nhìn của Vì Cha
Jennifer
@ Indigo
25.11.2010
J. biểu diễn dương cầm gây
quỹ cho nhà trường
Giáng
Sinh 2010
26.11
GNV rời Subway, băng ngang
Passage trên đây, quẹo phải, là tới tiệm sách báo Tây, kể như độc nhất
tại Toronto.
Còn 1 tiệm nữa chuyên bán sách
Tây, nhưng không thuộc khu trung tâm thành phố.
Kỳ quặc, mỗi lần đi
qua con
hẻm này, lại nhớ Passage Eden, Sài Gòn.
Có thể vì Passage Eden
làm nhớ tiệm sách Xuân Thu, Quán Chùa, chăng?
Giáng Sinh
2009
RICARDO REIS
Not you, Christ, do I hate or
reject.
In you as in the other, older
gods I believe.
But for me you are not more
Or less than they, just
younger.
I do hate and calmly abhor those
who want
To place you above the other
gods, your equals.
I want you where you are, not
higher
Nor lower than they-just
yourself.
A sad god, perhaps necessary
since there was none
Like you, now yet another in the Pantheon
And our faith, no higher or
purer,
Since for all things there
were gods, except you.
Take care, exclusive idolater
of Christ, for life
Is multiple, all days differ from all others,
And only if
we're multiple like them
Will we be with the truth, and alone.
9
OCTOBER 1916
Fernando Pessoa [RICARDO
REIS]
Chúa Ky Tô, không phải người mà tôi thù ghét hay
chối bỏ.
Ông hay người khác, những vị
thần già hơn ông, tôi tin tưởng.
Nhưng với tôi, ông không hơn
hay kém họ, chỉ trẻ hơn họ.
Tôi chỉ ghét và thản nhiên ghê
tởm mấy kẻ
muốn để ông lên trên những vị thần khác, bằng vai vế với ông.
Tôi muốn ông ở nơi ông ở,
Không cao hơn, mà cũng không
thấp hơn những vị thần kia – chỉ là ông.
Một vị thần buồn, và có lẽ thật
cần thiết, kể từ khi chẳng còn ai.
Như ông, vào lúc này, chưa bị đưa
vô Viện Chư Thần
Và niềm tin của chúng tôi, thì cũng
không cao hơn, hay tinh khiết hơn.
Kể từ khi mà mọi sự vật thì đều
là thần cả, ngoại trừ ông ra.
Hãy coi chừng,
kẻ quá thần tượng, đặc biệt thờ phụng Chúa Ky
Tô
Bởi vì đời thì đa dạng, mọi
ngày thì khác mọi ngày khác.
Và chỉ một khi nếu chúng ta cũng
đa đa như vậy,
Thì chúng ta mới ở với sự thực,
và một mình.
9
OCTOBER 1916
Fernando Pessoa [RICARDO
REIS]
Hiệp Sĩ
Mặt Buồn là nick của Chúa
Ky
Tô!
Phượng
Hoàng
Trong
một bài viết trên một
tờ báo địa phương, tôi tình cờ lượm được một chi tiết thật thú vị. Tác
giả bài
viết cho rằng, có thể vì không còn bám vào đất nữa, cho nên những nhà
văn hải
ngoại của chúng ta ngày càng sử dụng bừa bãi những con chữ. Ông nêu thí
dụ, Mai
Thảo, một lần chắc là quá nhớ Sài Gòn, bèn ghé thư viện Cornell, mân mê
ba con
chữ trước 1975, hiện lưu trữ tại đây. Sau khi đã cơn ghiền, ông rời
“phần thư”
trở về … đời thường, tức là cuộc đời lang thang vô định nơi xứ người.
Tác giả bài báo chê Mai Thảo
dùng sai từ. Tại sao lại phần thư? Phòng đọc sách, hay văn vẻ hơn, thì
phải là…
“thư phòng” chứ!
Mai Thảo rời Việt Nam
năm 1978
thì phải. Lần chót tôi nhìn thấy ông, là một buổi sáng ngay sau ngày
30/4. Ông
ngồi một mình trong một quán cà phê, hình như quán Sing Sing, một cái
tên từ
hồi “mồ ma” quân đội Mỹ, ở đường Phan Đình Phùng. Quán chẳng có ai
ngoài ông.
Tôi gặp lại hình ảnh này, trên bìa số báo Văn tưởng niệm ông: một Mai
Thảo ngồi
trên băng ghế bên đường chờ xe buýt tại thủ đô Sài Gòn của người tị
nạn. Chi
tiết về những ngày rong chơi của ông trước mũi súng, trước cuộc săn
người của
Cộng Sản, đã được Nhã Ca ghi lại, trong Hồi Ký Mất Ngày Tháng. Như vậy
là ông
có chứng kiến những ngọn lửa đầu tiên của cuộc phần thư 1975. Tôi tin
rằng, khi
lênh đênh trên một con tầu giữa biển khơi, trong số những hình ảnh ông
còn giữ
được của quê hương, chắc chắn có hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt sách,
những cuốn
của ông, và của bè bạn. Ông biết rằng, chúng đều đã bị huỷ diệt. Bởi
vậy, khi
ông vào thư viện Cornell, là để đọc tro than của chúng.
Cũng theo nghĩa đó, một khi
những cuốn sách của Miền Nam, sau này được chính nhà nước Cộng Sản cho
in lại ở
trong nước, điều này chứng tỏ: chúng đã sống lại từ lớp tro than, từ
cuộc phần
thư 1975.
Khi phải nhìn lại 25 năm văn
học của người Việt lưu vong, tôi nghĩ nó phải như một loài phượng
hoàng, cứ mỗi
lần muốn tái sinh, là phải lao vào lửa.
PHOENIX
Phượng Hoàng
Es-tu prêt à être effacé, nul, anéanti,
à n’être rien?
Perdu dans l’oubli?
Sinon, jamais vraiement tu ne changeras
Le
phénix ne retrouve que sa jeunesse
que s’il est brulé, brulé vif, jusqu’à se faire
chaude et floconneuse cendre.
Alors le frêle remuement d’un frêle être nouveau dans le nid
au duvet léger comme cendre qui vole
montrer qu’il a retrouvé pareil à l’aigle sa jeunesse,
Immortel oiseau
(D.H. Lawrence, Derniers Poèmes, bản dịch tiếng Pháp của Roger Munier,
trong Cahier de L’Herne, 1988).
(Tạm dịch:
Mi đã sẵn sàng chưa, để xóa nhòa, thành không, tiêu tùng,
để chẳng là chi?
Chìm vào quên lãng?
Nếu không, mi đừng mong chi
thay đổi.
Phượng
Hoàng chỉ tìm lại tuổi
thanh xuân
khi cháy rực như cây đuốc
sống
chút tro than còn, nóng, nhẹ
như bông,
Rồi
lung linh ở ngay tổ,
Là lông tơ, nhẹ, tựa tro bay:
nó đã tìm lại được mình,
Con chim bất tử).
Mới
đây, người viết có được
nguyên bản bài thơ Phượng Hoàng. Bản tiếng Việt trên, là từ bản dịch
tiếng
Pháp. Xin đăng nguyên bản, để độc giả tiện theo dõi:
PHOENIX
Are you
willing to be sponged
out, erased, cancelled,
made nothing?
Are you willing to be made
nothing?
dipped into oblivion?
If not, you will never really
change.
The phoenix renews her youth
only
when she is burnt, burn
alive, burnt down
to hot and flocculent ash.
The the small stirring of a
new small bub in the nest
with strands of down like
floating ash
shows that she is renewing
her youth like the eagle,
immortal bird.
D.H Lawrence: The complete
Poems (tủ sách The Penguin Poets) *
Trong
bài viết Nhân Văn
(Humane Literacy) George Steiner khẳng định: không một chế độ chính trị
nào có
thể yểm bùa chú lên những tác phẩm của nhà văn, khiến cho nó vĩnh viễn
chìm vào
trong quên lãng, hay bóp méo nó, và cho dù những cuốn sách có thể bị
tiêu huỷ,
nhưng tro than sẽ được vun vén, và giải mã. Khi nhà nước CS đành phải
cho xuất
bản những tác phẩm văn học của Miền Nam trước 1975, điều này
chứng tỏ:
con chim phượng hoàng đã tái sinh. Ở hải ngoại, nếu nó được tái sinh,
thì cũng
không do những ông lái buôn làm giầu từ những tác phẩm vơ vét đem xuống
tầu
cùng với họ; cũng không phải bởi các tác giả may mắn đi từ những ngày
đầu, rồi
vào thư viện Mỹ sao chép lại… Chúng vẫn chỉ là tro than. Từ đó, một con
phượng
hoàng song sinh sẽ tái xuất hiện.
Walter
Benjamin nhận xét:
không hề có chuyện gì đã từng xẩy ra mà có thể bị coi là mất mát đối
với lịch
sử (nothing that ever happened should be regarded as lost for history.
Illuminations). Nhìn theo cách đó, thời gian 25 năm là quá ngắn ngủi,
đối với
một dòng văn học, so với chiều dài lịch sử.
Nhà
văn, nhìn một cách nào
đó, là kẻ đến sau biến động. Ngay sau 1975, văn học hải ngoại còn in
hằn nét
đau thương, giận dữ, và có cả hận thù. Nó mang tính “trung thành” với
thời cuộc
(chống Cộng ở đây mang tính công dân như “thù nhà, nợ nước”, hơn là
mang chất
văn chương). Vả chăng, hận thù, đối với một nhà văn, là thất bại của
trí tưởng
tượng. Cùng với thời gian, những con chữ ngày càng thoát ra khỏi những
rằng
buộc nhất thời, và đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan phức tạp của
những con
người Việt Nam
xa quê hương. Khởi từ lời khuyên của Don Quixote, “Đừng tìm những con
chim ngày
hôm nay, ở trong cái tổ ngày hôm qua”, văn học hải ngoại của người Việt
Nam sau
25 năm bắt buộc nhìn về phía trước. Theo nghĩa đó, tôi tin rằng dịch
thuật
chính là cánh cửa mở ra văn học Việt Nam hải ngoại. Dịch thuật
còn là
cái cầu “Ô Thước”, cho hai con phượng hoàng song sinh “hội nhập”, trở
thành
một. So với hằng hà sa số những “sáng tác” hiện xuất hiện trên một số
báo văn
học, và xuất hiện đầy rẫy trên những trang nhà trong không gian ảo trên
lưới
thông tin toàn cầu, chúng ta mới nhận ra sự quan trọng của dịch thuật,
theo
nghĩa: chiếm đoạt, cầm tù cái nghĩa (meaning), làm giầu có cho tiếng
nói, ngôn
ngữ Việt.
“Đừng gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi
ta là Hiệp Sĩ Sư Tử”, Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt
Buồn ám
chỉ Đấng Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư Tử là để chỉ con người, trong cuộc phiêu
lưu tìm
lại chính mình, một khi thần thánh đã bỏ đi. Cuộc phiêu lưu đó bắt đầu
bằng
tiểu thuyết. Với Âu Châu, tiểu thuyết là thể dạng văn học thứ ba, sau
hùng ca
và bi kịch (Hy Lạp). Theo G. Lukacs, tiểu thuyết là để diễn tả cõi
“không nhà
siêu việt”; nói nôm na, nó diễn tả thân phận lưu vong của con người,
khi không
còn thần thánh nữa.
Theo nghĩa đó, nhà văn Việt Nam
hải ngoại
bắt buộc phải là những vị hiệp sĩ sư tử, trong cuộc chinh phục ý nghĩa,
về
chính thân phận người Việt lưu vong nơi xứ người.
NQT
Giáng
Sinh 2010
December 24, 1971
[For
V.S. ]
When
it's Christmas we're all
of us magi.
At the grocers' all slipping
and pushing.
Where a tin of halvah,
coffee-flavored,
is the cause of a human
assault-wave
by a crowd heavy-laden with
parcels:
each one his own king, his
own camel.
Nylon
bags, carrier bags,
paper cones,
caps and neckties all twisted
up sideways.
Reek of vodka and resin and
cod,
orange mandarins, cinnamon,
apples.
Floods of faces, no sign of a
pathway
toward Bethlehem,
shut off by blizzard.
And the
bearers of moderate
gifts
leap on buses and jam all the
doorways,
disappear into courtyards
that gape,
though they know that there's
nothing inside there:
not a beast, not a crib, nor yet her,
round whose head gleams a
nimbus of gold.
Emptiness.
But the mere
thought of that
brings forth lights as if out
of nowhere.
Herod reigns but the stronger
he is,
the more sure, the more
certain the wonder.
In the constancy of this
relation
is the basic mechanics of
Christmas.
That's
what they celebrate
everywhere,
for its coming push tables
together.
No demand for a star for a
while,
but a sort of good will
touched with grace
can be seen in all men from
afar,
and the shepherds have
kindled their fires.
Snow is
falling: not smoking
but sounding
chimney pots on the roof,
every face like a stain.
Herod drinks. Every wife hides her child.
He who comes is a mystery:
features
are not known beforehand, men's
hearts may
not be quick to distinguish
the stranger.
But
when drafts through the
doorway disperse
the thick mist of the hours
of darkness
and a shape in a shawl stands
revealed,
both a newborn and Spirit
that's Holy
in your self you discover; you
stare
skyward, and it's right
there:
a star.
Joseph
Brodsky: A Part Of Speech
1972 /
Translated by Alan
Myers with the author
|
|