Saigon xưa
Lời giới thiệu của Hưu Lam: Xin
chuyển đến Qúy Anh Chị từ 7 bó trở lên hoặc gần 80 bó đẻ hồi nhớ lại
một thoảng hương xưa của SÀIGÒN .Xin bái phục tác giả có mémoires quá
tốt không nhửng còn nhớ các tên đường mà con chú giải lý lich hay lịch
sử thật đáng kính nể .Tác giả có nhắc đến các đường thuộc khu tôi sống
lúc nhỏ : Đường Arras( Cống Quỳnh ; đường Dixmude ( Đề Thám ) .Còn đường
Champagne ( Yên Đổ ); đường Frères Louis ( Vỏ Tánh ) ; đường Georges
Guyemer ( Vỏ Di Nguy ) v.v.v .Nếu Anh Chị nào còn nhớ tên các đường củ
xin bổ túc lại để chia vui với tác giả .Chúc vui vẻ duyệt lại trí nhớ
xem còn ở điểm nào ?
Tôi
lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường
rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá
Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn
Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn
các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi
mưa lớn là đường bị ngập : “nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức
tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để
khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và
thường bị mẹ tôi quở trách.
Sau
khi “chạy giặc” hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường
rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm
trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở
về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.
Nhà
thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên
thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của
Hoàng Đế Bảo Đại.
2
Gần
nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là
để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Tabert, đường Frères
Guillerault (có chữ “S” sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em
Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ
Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong
lúc “tản cư” tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một
sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp “Douzième”
trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi.
”Trường
Chasseloup” xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn
Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh
thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở
thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước
Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới
thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân
đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con Pháp sống
tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá
1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài
năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn
nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường
người ra sở trễ và đi xe đạp từ “Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường
Georges Guynemer dư
Thật
vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến
trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ?
Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm
thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân,
mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette Nhưng
dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy
ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ
khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái
banh nhỏ.
Như
vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ chánh cống” và “dân Sài Gòn một
trăm phần trăm”, lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm.
Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước năm mươi tư”
mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong
trang sau cùng ! Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên
Việt Nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của
tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy
là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến
tên những con đường Sài Gòn năm xưa…
Mẹ
tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường
Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo
đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World
Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote
(chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng
Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral
Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long,
tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière
thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ,
Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế
Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm
cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới
thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).
Chú
Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để có bóng mát rồi ra đường
Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người
ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ “préau (sân
lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông “Moreau”, tên của
người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người
lớn tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”, có thể là vì trước kia Tả Quân Lê
Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc vườn “Bờ Rô”
nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc
Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và
tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường
Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt
lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở
thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975.
Cũng
có thể tên “Ông Thượng” là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng
tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao
Đàn. Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường
Larégnère, sau đó tới đường Testard : hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng
vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne
Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong
cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ,
giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor
Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến
lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d’Infanterie
Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.
Đi
thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường
Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ
liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường
Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas
Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho
tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh
Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh
anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra
lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc
Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên
bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong
Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú.
Trên
nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu
âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ
ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người
Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang
Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bên
Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba
người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu
sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ
tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại
ngoại ô Paris:
Bà
kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên
là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ
Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng
Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh
Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện
Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học
Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi
tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi
đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.
Lớn
lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì
có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại
đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des
Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lớp, nhứt
là vào mùa các cây trứng cá có trái.
Ông
Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn
Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha
Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường
Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et
Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12
cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra
sông Sài Gòn).
Ông
Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt
Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư
Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh
phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ
Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú
Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).
Sau
khi qua đường Pierre Flandin (tên của một “đứa con” của Sài Gòn tuy
sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước
Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn),
tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành),
đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng
đường d’Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là
của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo
thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn
nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương
quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ
Nhứt Thế Chiến.
Đi
xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú
Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn
và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ
Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De
Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn
đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng
cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell
hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại
Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua
Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán
nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển
Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi
cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân
lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp đóng tại đó) để
về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc
biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt
Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường
Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la
Marne….) và tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức
tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là
Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne,
gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á,
ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard
) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm
vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào
cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là “Kinh Lớn” hay “Kinh
Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có hai đường dọc hai bên :
đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên
là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau nhiều năm
bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên
Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp
vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh
Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học
Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó
mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận
đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner.
Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867
lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay.
Lúc
lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là “Bùng Binh”
trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của
một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một
nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963.
Trước Tòa Thị Xã Sảnh, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng
binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier, nay là công
trường Lam Sơn, để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu
trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do
lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại
lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin
(tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề
Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường
Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường
mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường
Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn
đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người
tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat,
sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang
trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại
khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc
Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard
ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố.
Tôi
cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu
từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp
nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang
nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều
lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước “Nhà
Hát Tây”, cất theo kiểu Opéra bên Paris.
Đường
Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời
ta kêu là đường “Keo Su” dài tới Nhà Thờ Đức Bà ; qua công trường
Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque
d’Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau
khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh
phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường
Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến
là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và
công trường Quốc Tế hay “Hồ Con Rùa”.
Ba
tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện
(tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa giữa” vì chạy giửa đường
Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng
vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc
Gia).
Tôi
còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris,
chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói
lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành
đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường
mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai
chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung
tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy
mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng
phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở
ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với
chữ “e” chớ không phải với chữ “é” vì là người gốc Ý Đại Lợi.
Xe
điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là
khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm “Le Jaccario” đậu
gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính
thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ
trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En
Ciel Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu
Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
Lúc
còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ
và thường vô phía sau nhà thờ bắn “giàn thun” trên mấy cây soài nên bị
“Ông Từ” rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ,
còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương
Nguyệt “Ánh”. Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng
Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng
Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học “trường tây” nên tôi thắc mắc
và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không
thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị
Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ
Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung”
cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa
soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ
Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành
Sương Nguyệt ÁNH ?
Về
sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay là đường Nguyễn
Tri Phương, nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường mang tên của Đô Đốc Lucien
Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến,
nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ
không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước
là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông
Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có
nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ
Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường
Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở
(tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu
tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De
La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt Nam, ngoài đường
Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành
cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là
đường Hui Bôn Hoả.
Lúc
đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó
và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze
đến đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng mả, đường hẻm tôi ở
trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế
kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc
là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn
theo như người ta tưởng.
Từ
đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe
xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua
khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi
trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles
Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo
xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài
lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường
Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung
Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh
Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc
còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông
ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về
các hồ sơ giưã người Việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi
thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của
Việt Nam.
Tiếc
thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh
hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và
cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa
thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài
“Sử Gia” buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn
nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ
có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và
khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên
Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo
đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng “Tả Quân Lê Văn Duyệt”,
đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được
hồi phục.
Hồi
thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay
nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên
Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ
Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm),
Hùynh Quang Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên
Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và
Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông
nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng,
được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là
một trong những người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des
Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de
Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi vì
bệnh lao phổi.
Vị
anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị
Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một
đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy
mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con
thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi
danh Janson De Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm
1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa
thành lập ; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị
Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được
người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia
đình tại Chợ Lớn.
Sài
Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời
cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng “Lăng Cha Cả”,
có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người
ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va
Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa
Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng
Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước
Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp
Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh
Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp.
Vua
Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn
là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn
khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một
trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long,
sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de
Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des
Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris....
BS Trần Ngọc Quang
VIDEO: Sài Gòn của ngày qua /1940-1970