Tâm trạng
chán nản, thất vọng, lo âu là điểm chung không
thể giấu diếm hiện rõ trên nét mặt những nhân
vật quyền lực của chính quyền Mỹ thời bấy giờ, đã được ghi
lại qua những bức ảnh tư liệu quý giá vào đúng
lúc kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm máu ở Việt
Nam.
Lời tự sự của tác giả chùm ảnh, nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly:
Tôi đã may mắn
có vị trí tác nghiệp đắt giá trong thời gian
kết thúc của cuộc Chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến tranh mà
tôi đã dành hơn 2 năm cuộc đời lăn lộn trên các
chiến trường ở mảnh đất này.
Câu chuyện Việt
Nam của tôi bắt đầu vào đầu năm 1971, khi Hãng tin thông
tấn quốc tế (UPI) giao cho tôi tiếp quản văn phòng ở Sài
Gòn để thay thế cho nhiếp ảnh gia Kent Potter. Khi đó, Kent
Potter dự kiến là sẽ quay trở về nhà nhưng ông
ấy không bao giờ có cơ hội đó nữa. Ngày 10/2/1971,
Potter và 3 nhiếp ảnh gia khác đã thiệt mạng khi chiếc
trực thăng chở họ bị bắn rơi ở Lào trong chiến dịch Lam Sơn 719
của quân đội Sài Gòn. Cùng trên chuyến
bay này còn có phóng viên Larry Burrows
của tờ Life, Henri Huet của AP, và Keisaburo Shimamoto của Newsweek,
tất cả họ đều tử vong.
Tôi không quen biết ai trong số những nhiếp ảnh gia
này, nhưng Burrows là thần tượng của cá nhân
tôi, những bức ảnh của ông là nguồn cảm hứng cho mong
muốn của tôi tham gia vào cuộc chiến với tư cách phóng
viên ảnh.
Một vài tuần sau
đó, tôi đã nằm trong một kế hoạch ràng buộc chặt
với thành phố Sài Gòn. Tôi đã dành
hơn hai năm chụp ảnh chiến tranh ở Đông Dương, năm 1972 tôi
nhận được giải Pulitzer cho những bức ảnh của tôi tại Việt Nam, Campuchia
và Ấn Độ, nơi tôi chụp về những người tị nạn chạy trốn qua
biên giới từ Đông Pakistan. Việt Nam đã trở thành
một phần của trong máu thịt của tôi; tất cả mọi điều xảy ra
với tôi kể từ đó đã trở thành kinh nghiệm sống
và làm việc. Tôi mới 24 tuổi, và năm đầu tiên
của tôi là một nhiếp ảnh gia trong một chiến trường ác
liệt. Có nhiều sự cố vô cùng nguy hiểm đã xảy
ra và tôi đã từng nghĩ rằng, tôi sẽ không
thể đón sinh nhật tuổi 25. Vì thế, khi tôi tổ chức sinh
nhật ở Sài Gòn, tôi cảm thấy mỗi người quanh
tôi là một phần thưởng thật sự. Cho đến nay, vận may sống
sót đó đã bổ sung thêm vào cuộc đời tôi
43 năm nữa! Tôi đã cố gắng sử dụng những năm tháng
đó thật tốt.
Tôi trở về Mỹ vào giữa năm 1973, làm việc cho
tạp chí Time. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của tôi
là vụ scandal Watergate, tôi cũng đã được phân
công để chụp ảnh nhà lãnh đạo nhóm thiểu số Gerald
R. Ford khi Phó Tổng thống Spiro Agnew từ chức vào mùa
thu năm đó.
Một bức chân dung mà tôi đã chụp Ford
được in trên trang bìa của tạp chí Time khi Nixon tuyên
bố rằng ông sẽ thay thế Agnew làm phó tổng thống mới.
Tiếp sau đó tôi đã dành hoàn toàn
thời gian cho Ford.
Khi Tổng thống Mỹ Nixon
từ chức, Ford lên thay thế. Ông ấy đã chỉ định tôi
là nhiếp ảnh gia chính của ông. Với công việc
này tôi có quyền thâm nhập mọi nơi, không
chỉ theo sát hoạt động của Tổng thống và gia đình,
mà tất cả những gì diễn ra đằng sau hậu trường. Đây
là một vinh dự, và một công việc cực kỳ thú
vị, đồng thời, đây cũng là thời gian hoạt chuyên nghiệp
nhất và bổ ích cá nhân trong cuộc đời tôi.
Ngày 3/3/1975, 6 tháng sau khi tổng thống Ford nhậm chức,
tình hình miền Nam Việt Nam bắt đầu căng thẳng hơn khi quân
đội Việt Nam tấn công thành phố Ban Mê Thuột tỉnh Tây
Nguyên.
Sau vài ngày
chiến đấu ác liệt, quân đội Mỹ tại Sài Gòn đã
phải chịu hàng ngàn thương vong, quân đội Việt Nam
tiến vào thành phố trọng điểm. Đây là khởi đầu
của sự kết thúc chính quyền Nam Việt Nam. Khi đó, tôi
đã có mặt bên trong Nhà Trắng được trao một cơ
hội tuyệt vời để quan sát cuộc chiến tranh từ bên trong sảnh
đường quyền lực. Vị thế đặc biệt này cho tôi một chuyến đi
bí mật trở lại Việt Nam theo một nhiệm vụ đặc biệt mà Tổng
thống Ford giao và sau đó trở lại Nhà Trắng cho đêm
chung kết của bộ phim truyền hình dài tập đẫm máu
Việt Nam. Những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 là
những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh địa ngục ở Việt
Nam. Tôi hầu như không ngủ, và cố gắng chụp ảnh mỗi phút
có thể trong những ngày cuối cùng căng thẳng.
Ngày 16/3/1975,
tại văn phòng Nhà Trắng, cố vấn hội đồng an ninh quốc gia
Brent Scowcroft nói chuyện điện thoại với một đồng nghiệp. Nét
mặt ông không thể giấu được mức độ nghiêm trọng của tình
hình khi quân đội Việt Nam đã hiện diện tại Huế.
25/3/1975: Tổng thống nói với Weyand - Tham mưu trưởng của Lục quân
Hoa Kỳ: "Anh hãy đi với ngài đại sứ. Đây là
một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của anh. Anh đừng để mất nhiều
thời gian - hãy nghiên cứu tình huống và xem
liệu chúng ta có thể làm gì", Tổng thống tiếp
tục: "Chúng tôi muốn anh tư vấn về những điều mà có
thể gây sốc cho miền Bắc. "Tôi lấy làm tiếc tôi
không có quyền làm một số việc mà Tổng thống
Nixon có thể làm". Kissinger nói: "Tình hình
thực tế và lý do tại sao, là gì? Có thể
làm gì?" Weyand hứa: "Chúng tôi sẽ mang về một
đánh giá chung và cung cấp một cái nhìn
chính xác nhất về tình hình hiện nay".
25/3/1975: Sau khi các
quan chức ra về, tôi chụp bức ảnh này khi Tổng thống còn một
mình trong văn phòng, rõ ràng ông rất thất
vọng. Chúng tôi đã nói chuyện về chuyến đi,
tôi nói với ông rằng, tôi có kinh nghiệm
ở Việt Nam, tôi muốn đi cùng Weyand. Tổng thống đồng ý
và nói rằng ông sẽ chờ tôi cung cấp cho ông
ta một quan điểm khách quan và thẳng thắn khi tôi trở
lại. Văn phòng của tôi ở tầng trệt của Nhà Trắng, tôi
trở về và nói với nhân viên rằng tôi sẽ
có một chuyến đi vào ngày hôm sau. Tôi treo
một dấu hiệu trên cánh cửa của tôi và nói:
"Tôi đến Việt Nam, sẽ trở lại trong 2 tuần". Nhân viên
của tôi nghĩ rằng tôi đã nói đùa cho đến
khi tôi không quay lại văn phòng trong gần 2 tuần sau
đó. Tối hôm ấy, tôi đã đi để nói lời tạm
biệt với gia đình Ford và đề tổng thống cho vay một khoản
tiền. Đó là những ngày trước khi có ATM. "Các
ngân hàng đã đóng cửa, tôi sẽ đi trước
khi họ mở cửa", tôi nói. Ford lôi tất cả những đồng
tiền trong ví của mình. "Ở đây là 47USD", ông
chìa ra cho tôi xem.
26/3/1975: Trên
chiếc máy bay C-141, đã hai lần dừng tiếp nhiên
liệu ở Anchorage và Tokyo trước khi đến Sài Gòn 24
giờ sau đó, của Tướng Weyand có Ken Quinn, nhân viên
của Hội đồng An ninh Quốc gia, chuyên về khu vực Đông Nam Á,
ông George Carver và Ted Shackley, hai quan chức cấp cao của
CIA. Ken và một số nhân viên Hội đồng an ninh quốc gia
(NSC) đang điều khiển một mạng lưới ngầm hiệu quả, rộng lớn và hoàn
toàn không chính thức sơ tán ngàn người
Việt Nam ra khỏi đất nước an toàn. Đại sứ Mỹ cho biết sẽ không
có cuộc tắm máu trả thù nếu quân đội Việt Nam
tiến vào miền Nam Việt Nam.
29/03/1975: Tôi
không phải là thành phần trong cuộc họp giao ban chính
thức của Weyand, nhưng tôi có một chỉ thị cá nhân
của Tổng thống Ford xem xét và đưa ra quan điểm của riêng
tôi về tình hình. Tôi đã gặp Montcrieff
Spear, tổng lãnh sự Mỹ tại Nha Trang, khi ông này chuẩn
bị rời khỏi Việt Nam. Vợ ông đang đóng gói hành
lý khi tôi đến. Tuy nhiên, trước khi ông đi, ông
ta cần phải tìm thấy đồng nghiệp của ông là tổng lãnh
sự Al Francis, đã trốn khỏi Đà Nẵng.
30/3/1975: Spear và
tôi lấy một chiếc trực thăng của hãng hàng không
Air America đến Vịnh Cam Ranh để tìm kiếm Francis, lúc này
đã chạy trốn khỏi Đà Nẵng bằng một con tàu bị bắt cóc
bởi lính Nam Việt. Một con tàu lớn chen chúc hàng
ngàn binh lính, một vài người trong số họ trong tình
trạng thất vọng đã bắn vào trực thăng mang cờ Mỹ của chúng
tôi.
30/3/1975: Francis đã trốn thoát trên một chiếc
tàu kéo, chúng tôi đã phát hiện
ra ông ta. Ông vẫy tay khi chúng tôi bay qua, chúng
tôi hạ cánh tại vịnh Cam Ranh đón ông ta, chúng
tôi đưa ông và Spear quay trở lại Sài Gòn
bằng đường vòng qua Phnom Penh.
31/3/1975: Tôi ở Việt Nam theo mệnh lệnh Tổng thống,
sau đó bay đến Phnom Penh bằng máy bay của Air America! Sân
bay Pochentong bị gần như đóng cửa trước hỏa lực pháo binh,
tôi gặp Matt Franjola, phóng viên và cũng là
người bạn cũ từ Liên đoàn báo chí (AP) đến đón
tôi. Ông ngồi trong chiếc xe jeep, lãnh đạm như mọi
khi ngay cả khi tên lửa phát nổ gần đó. Ông đưa
tôi đi uống tại khách sạn cũ Lê Phnom, nơi mà
tôi đã hưởng thụ một ngày đặc biệt với Martini và
súng cối.
31/3/1975: Sau giờ chiều,
Matt chở tôi đến Đại sứ quán Mỹ, nơi tôi tham gia một
cuộc họp bí mật về tình hình nghiêm trọng tại
Campuchia của Đại sứ Mỹ John Gunther Dean và các nhân
viên. Tại trung tâm hoạt động chiến thuật, bản đồ cho thấy
mũi tên màu đỏ lớn của lực lượng Khmer Đỏ đến từ mọi hướng
về phía thủ đô Phnom Penh. Chúng tôi đã
bị bao vây. Các nhân viên đại sứ quán đã
được chuẩn bị một cuộc di cư bằng trực thăng dành riêng cho
công dân Hoa Kỳ và một số nước đồng minh nếu tình
hình xấu hơn nữa.
Một người chồng Camphuchia
đang an ủi người vợ của mình, bà bị thương và đang lặng
lẽ ra đi trên tay chồng.
31/03/1975: Tôi
đã thực hiện một bức chân dung của một em bé tị nạn
Campuchia trong hàng ngàn người chen chúc tại một khách
sạn đổ nát bên bờ sông Mekong. Tôi thấy em bé
đeo một cái thẻ bài. Hình ảnh của cô bé
là biểu tượng tất cả những đau khổ mà trẻ em trên toàn
thế giới vì cuộc chiến tranh vô nghĩa. Tôi luôn
bị ám ảnh bởi khuôn mặt của em bé và thậm chí
khi du lịch tới Phnom Penh vài năm trước, tôi đã thử
tìm em bé này, nhưng không có may mắn
gặp lại.
Một đứa trẻ tị nạn Campuchia
tại một bệnh viện ở Phnom Penh, Campuchia ngày 29/3/1975. Hai tuần
sau, lực lượng Khmer Đỏ đánh chiếm hoàn toàn Campuchia.
Ngày 3/4/1975:
Tôi trở về Sài Gòn trong thời gian tham dự một cuộc
họp mà tại đó Weyand và đoàn của ông trao
đổi nhiều vấn đề quan trọng cùng Tổng thống chính quyền Sài
Gòn Nguyễn Văn Thiệu trong văn phòng tại phủ tổng thống Sài
Gòn. Đây là cuộc họp không hề dễ chịu. Tôi
đã chụp một bức ảnh của Thiệu tại bàn làm việc với
một bức tranh truyền thống Việt Nam treo đằng sau. Tôi tự hỏi ông
ta còn ngồi bao lâu trong cái ghế đó? Chỉ 18
ngày sau đó.
Ngày 5/4/1975:
Weyand trình bày ý kiến của mình cho Ford tại
nhà riêng của tổng thống ở Palm Springs, California. Weyand
không lạc quan, nhưng ông ta đã chỉ ra một vài
cơ may có thể ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội Việt
Nam nếu Quốc hội phân bổ ngân sách để giúp đỡ
đồng minh. Tổng thống rõ ràng không hài lòng
với những gì vừa nghe được.
Ngày 5/4/1975:
Tôi mang theo những bức ảnh đen trắng mà tôi chụp được
trong chuyến thực địa tại Việt Nam và tôi đã trình
bày Ford những nhìn nhận cực kỳ khó lọt tai tổng thống
qua từng bức ảnh. Tôi trình bày: "Bất cứ ai nói
với ông rằng Nam Việt Nam có thể trụ vững 3, 4 tuần hay hơn
nữa, người đó đang lừa dối ông". Hai hoặc ba ngày sau
đó những bức ảnh đen trắng này đã thay thế hoàn
toàn các bức ảnh mầu trang trí trên West Wing
cảnh báo về kết thúc của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và
Campuchia. Tất cả mọi người đã biết về điều này.
Trong bức ảnh hiếm có
này, các quan chức CIA trực tiếp tóm tắt tình
hình cho tổng thống, có mặt trong cuộc họp là Giám
đốc đơn vị tình báo CIA khu vực Đông Á Ted Shackley
và Phó Giám đốc phụ trách các văn phòng
tình báo an ninh quốc gia George Carver đang cân nhắc
và đưa ra cho tổng thống những đánh giá sơ lược.
Ngày 5/4/1975:
Tổng thống và phu nhân bay đến San Francisco sau khi cuộc họp
của ông với Tướng Weyand và các cộng sự để chào
đón một chuyến bay chở trẻ mồ côi Việt đến Mỹ - một phần của
Chiến dịch Babylift, sơ tán trẻ em từ khu vực Đông Nam Á.
Khi chuyến bay cuối cùng ra khỏi Nam Việt Nam, Mỹ đã di tản
hơn 3.300 trẻ sơ sinh và trẻ em. Cùng với các cuộc di
tản khác, hơn 110.000 người tị nạn đã sơ tán khỏi
Nam Việt Nam vào thời điểm cuối cuộc chiến tranh.
Ngày 5/4/1975:
Hàng ngàn trẻ em từ Việt Nam được tiếp nhận vào các
gia đình trên toàn thế giới. Trong quá trình
di tản đường không, một chiếc C-5A chở trẻ mồ côi bị rơi, làm
thiệt mạng 138 người, trong đó có 78 trẻ em.
Ngày 9/4/1975:
Các lực lượng quân đội Việt Nam đang tiến sát đến Sài
Gòn, các vùng miền Trung hoàn toàn thất
thủ. Giám đốc CIA William Colby và Bộ trưởng Quốc phòng
Jim Schlesinger vô cùng phiền muộn khi tôi chụp ảnh
họ trong phòng nội các trước cuộc họp kín về tình
hình Đông Dương.
Ngày 11/4/1975: Tổng thống Ford lo lắng hiện rõ trên
nét mặt khi ra lệnh thực hiện chiến dịch Eagle Pull, sơ tán
tất cả người Mỹ khỏi Campuchia. Ngày 21/4, hơn một tuần sau khi
chiến dịch ở Campuchia đã được hoàn tất, tổng thống và
Kissinger tập trung vào các vấn đề tại Việt Nam. Kissinger
cho biết ông đã nói chuyện với Đại sứ Liên Xô
Anatoly Dobrynin, cố gắng sắp xếp một cuộc ngừng bắn để người Mỹ ra đi.
Tổng thống Ford thảo luận với Đại sứ Mỹ tại miền Nam Việt Nam Martin về
vấn đề di tản. Ngày 23/4, tình hình ở Việt Nam đã
rõ ràng đối với tổng thống, ông không ngại ngùng
thừa nhận một thực tế, người Mỹ phải ra đi. Lần đầu tiên ông
đã công khai thừa nhận, chiến tranh đã "kết thúc".
Ngày 24/4/1975: Trong một cuộc họp của Ủy Ban Chỉ đạo về
tình hình Việt Nam, tổng thống đã nói với Schlesinger
rằng còn khoảng 1.700 người Mỹ ở Sài Gòn. Ông
muốn con số đó xuống 1.090 vào ngày hôm sau.
Schlesinger nói: "Con số này là quá nhiều trong
một ngày". Tổng thống tức tối: "Đó là những gì
tôi đã ra lệnh".
Từ trái sang phải: Giám đốc CIA William Colby, Ngoại
trưởng Henry Kissinger và Chủ tịch Hội đồng tham mưu Liên
quân George Brown. 19h30, ngày 28/4/1975: Giám đốc
CIA William Colby mở đầu cuộc thảo luận tại cuộc họp, báo cáo,
"Việt Cộng đã từ chối đề nghi ngừng bắn của tổng thống Dương Văn
Minh. Họ đã thêm một yêu cầu là giải giáp
toàn bộ các lực lượng vũ trang chính quyền Sài
Gòn". Pháo binh Quân Giải phóng đã tấn
công vào khu vực sân bay Tân Sơn Nhất. 4h00 một
loạt đạn tên lửa tấn công Tân Sơn Nhất. Điều này
sẽ gây thương vong cho lính thủy đánh bộ Mỹ. 19:45,
ngày 28/4/1975: Chủ tịch Hội đồng tham mưu Liên quân George
Brown đề cập đến 70 phi vụ C-130 vào Tân Sơn Nhất, với 35
máy bay sẽ bay trong 2 chuyến để sơ tán 400 thành viên
còn lại của Văn phòng tùy viên quân sự.
Bộ phận điều hành mặt đất sẽ có toàn quyền về việc quyết
định hành động có khả thi hay không. "Tất nhiên
chúng tôi phải làm nhiệm vụ, nhưng nếu nguy cơ trở
nên quá lớn, chúng tôi có thể sẽ phải rút
lui ". 20h08, ngày 28/4/1975: Cuộc thảo luận quay lại với chủ đề,
điều gì sẽ xảy ra nếu Mỹ tập kích vào các đoàn
quân của Việt Nam để bảo vệ cuộc di tản. "Nếu chúng ta bắn,
người Mỹ phải rút ra khỏi Đại sứ quán", Henry Kissinger đề
nghị, "Bắc Việt có ý định làm nhục chúng ta và
sẽ là khôn ngoan nếu để người dân ở đó".
Tổng thống nói: "Tôi đồng ý. Tất cả nên để lại.
Bây giờ chúng ta thực hiện 2 quyết định: Thứ nhất, hôm
nay là ngày cuối cùng di tản người Việt. Thứ hai,
nếu chúng ta bắn, người của chúng ta sẽ phải rút khỏi
Đại Sứ quán. Chúng ta đã sẵn sàng bằng máy
bay trực thăng?". Tướng Brown trả lời:" Có, nếu ngài hoặc
Đại sứ Martin nói như vậy, chúng ta có thể đón
họ ở đó trong vòng 1 giờ". Kissinger nói:" Chúng
ta không nên để cho mọi người biết rằng đây là ngày
cuối cùng của cuộc di tản dân sự”. Theo đó, nếu Tân
Sơn Nhất bị đóng cửa, bắt đầu chiến dịch sơ tán bằng máy
bay trực thăng.
21h15 ngày 28/4/1975: Tổng thống của Hoa Kỳ là người
có tiếng nói cuối cùng về các quyết định lớn.
Tôi luôn luôn tìm thấy sự nhân văn là
nền tảng của mọi phán quyết của Tổng thống Ford vào lúc
này. Đêm ấy, ông đã thực hiện một trong những
quyết định khó khăn nhất của cuộc đời mình. Ông ngồi
đăm chiêu cùng vợ, đệ nhất phu nhân Betty Ford. Ông
đang phải ra một quyết định rất khó khăn nhưng cần thiết.
22h28 ngày 28/4/1975: Điều không ai muốn nghe đã
nhanh chóng lan đi, Henry Kissinger báo cáo rằng các
đường băng tại Tân Sơn Nhất không thể được sử dụng để di tản
được. Tệ hơn nữa, người dân đã vượt khỏi rào kiểm soát
và đứng tràn các đường băng, nên máy bay
không thể cất - hạ cánh. Đã đến lúc xem xét
thực hiện Phương án cuối cùng: Chiến dịch gió lốc.
22h33 ngày 28/4/1975: Mỹ đã thua cuộc chiến Việt
Nam - thực tế hiển nhiên không thể thay đổi được. Ford ra lệnh
thực hiện các chiến dịch gió lốc, chiến dịch di tản cuối
cùng của Mỹ ở Việt Nam. Chỉ duy có Betty Ford và tôi
ở trong phòng cùng tổng thống khi ông thực hiện các
cuộc gọi. Ông không còn có sự lựa chọn nào
khác.
23h22 ngày 28/4/1975: Scowcroft là trung tâm
điều phối và tất cả các thông tin này được báo
cáo qua ông Kissinger và các quan chức khác
của Nhà Trắng để đưa lên trình tổng thống.
23h22 ngày 28/4/1975: Tham mưu trưởng quân lực Hoa
Kỳ Donald Rumsfeld theo sát tình hình đang biến chuyển
rất nhanh.
11h38 ngày 29/4/1975: Trước cuộc họp của các nhà
lãnh đạo cả hai đảng trong phòng Nội các, Tổng thống
ngồi cùng với Thượng nghị sĩ Robert Byrd của Bang Tây Virginia.
Cuộc họp được tổ chức để giải quyết các vấn đề tài trợ sơ
tán. Tổng thống thông báo rằng hơn 45.000 người đã
được đưa khỏi Việt Nam trong vài ngày qua. Được biết, đến
năm 1980 số lượng người Việt Nam đến Hoa Kỳ là hơn 230.000 người.
16h21 ngày 29/4/1975: Kissinger luôn trong trạng
thái bận rộn, không ngừng nghỉ để giải quyết các vấn
đề phát sinh từ Chiến dịch gió lốc. Suốt ngày hôm
ấy, Đại sứ Martin đã đề nghị bổ sung thêm trực thăng để sơ
tán người từ Việt Nam, nhưng thời gian và sự kiên nhẫn
của ông đã hết.
16h23 ngày 29/4/1975: Kissinger xông vào
cuộc họp kinh tế của tổng thống và báo cáo rằng cuộc
di tản của Sài Gòn đã gần như hoàn tất. Thực
tế, lịch làm việc của tổng thống cho ngày hôm đó
đã có nhiều cuộc họp liên quan đến tình hình
Việt Nam, nhưng không nhiều người được biết.
17h18 ngày 29/4/1975: Kissinger nhận những
cái bắt tay chúc mừng về chiến dịch gió lốc thành
công, nhưng có vẻ như những lời chúc mừng ấy là
quá sớm.
17h25 ngày 29/4/1975: Kissinger và đoàn tùy
tùng đến tòa nhà Old Executive Office để công
bố với báo chí rằng cơn ác mộng quốc gia mới nhất đã
kết thúc sau khi sơ tán thành công và
an toàn của tất cả người Mỹ và cả những người muốn rời khỏi
Sài Gòn.
Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger thông báo kết thúc
thành công cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của
Mỹ cuối cùng từ Việt Nam trong phòng họp tại tòa nhà
Old Executive Office.
18h11 ngày 29/4/1975: Chỉ một giờ sau khi Kissinger tuyên
bố cho báo chí và cả thế giới rằng: "Tôi tin
tưởng rằng người Mỹ và những người muốn đi đã ra đi," Scowcroft
- Phó Cố vấn an ninh quốc gia thông báo, còn
11 lính TQLC đang kẹt trên mái nhà Đại sứ quán
Mỹ tại Sài Gòn.
18h15 ngày 29/4/1975: Kissinger nóng ruột đi lại
quanh văn phòng chờ đợi tin tức từ Sài Gòn về số phận
các lính TQLC bị mắc kẹt.
18h30 ngày 29/4/1975: Kissinger và Scowcroft so đồng
hồ khi họ đang chờ đợi tin về 11 Lính TQLC được cứu từ Đại sứ quán
Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Trực thăng đang trên đường quay lại
Sài Gòn để cứu hộ.
19h50 ngày 29/4/1975: Kissinger và Scowcroft đã
chỉnh tề trang phục chuẩn bị cho bữa ăn tối cấp nhà nước với vua
Jordan Hussein. Dù thế, họ vẫn chờ mong tin tức về các
lính TQLC bị mắc kẹt.
20h01 ngày 29/04/1975: Ford dừng bữa ăn tối với vua Hussein
để nhận cuộc gọi từ văn phòng của Nhà Trắng, thông báo
rằng 11 lính TQLC bị kẹt trên nóc Đại sứ quán
Mỹ ở Sài Gòn cuối cùng đã được cứu thoát.
Tới đây, quá trình tham gia của Mỹ ở Việt Nam thực sự
kết thúc.
Cuối cùng đã có thể ăn mừng, Kissinger vui
mừng vì 11 lính TQLC đã cất cánh rời Đại sứ quán
Mỹ ra tàu sân bay an toàn.
20h11 ngày 29/4/1975:
Một vài phút sau, Ford quay trở lại dùng bữa tối với
vua Hussein. Bây giờ là thời gian cho bánh mì
nướng. Tổng thống nâng ly và nói chuyện về những mối
quan hệ gần gũi và quan trọng với Quốc Vương Jordan. Họ cụng ly,
uống một ngụm, tất cả mọi người hoan nghênh. Chữ "Việt Nam" không
bao giờ được đề cập đến nữa.
Theo
Politico