Tôi
như nhiều người không sinh ra tại Sài Gòn nhưng suốt
học trình từ tiểu học lên đại học được sống với thủ đô
của miền Nam, mà qua tên gọi mỹ miều là “Hòn
Ngọc viễn Đông”. Tôi suy tư về nguồn gốc các danh từ Sài
Gòn và Hòn Ngọc viễn Đông.
Theo sự
truy nguyên, Sài Gòn thuở ban đầu là đất của người
Khờ-me, là một làng đánh cá, có tên
đầu tiên là Prey Nokor mà Prey là thánh
thần (dieu, god) và Nokor là thành phồ hay đô
thị (la ville; town, city), mang ý nghĩa là “thành
phố thánh thần”.
Năm 1862,
Việt Nam là thuộc địa của Pháp, người Pháp đặt tên
chính thức là Saigon. Lấy theo cách giải thích
vì sao người Pháp gọi là “Saigon” do theo âm
ngữ của người Tàu (Thầy Ngòn, Xi Coón) hay Miên
ngữ “Prey Nokor”. Từ đó Saigon được Việt hóa là Sài
Gòn.
Vì
là thuộc địa của Pháp, thành phố được Pháp xây
dựng rất tối tân, mới lạ, được xem là bậc nhất của vùng
Đông Nam Á vào thời bấy giờ. Nên Pháp xem
đó là Hòn Ngọc Viễn Đông (la Perle de l’Extrême-Orient,
the Pearl of the Far East) hay theo sự ví von của người Pháp
là Paris Phương Đông (Paris de l’Orient, Paris in the Orient)
để ám chỉ là một thành phố giàu sang, lịch lãm
của Pháp ở vùng Đông Nam Á.
Giả thuyết khác như theo Phủ Biên Tạp Lục
của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn
Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên
và phá vỡ “Lũy Sài Gòn” (theo Hán Nho
viết là “Sài Côn”). Đây là lần đầu tiên
chữ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì
thiếu chữ viết nên chữ Hán – “Côn” – được dùng
thế cho “Gòn”. Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa
danh Sài Gòn, không phải đợi đến năm 1778 khi người
Tàu ở Cù Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt
rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón
tức Tây Cống.
Dù
sao thì Sài Gòn và Hòn Ngọc viễn Đông
vẫn là một nơi quyến rũ, ấp ủ con tim bao thế hệ dù là
gốc Âu hay Á. Trước khi tôi rời Sài Gòn
vì biến cố chính trị 1975, những kỷ niệm lưu luyến với Sài
Gòn hay Hòn Ngọc viễn Đông có nhiều lắm. Thời
sinh viên thuở ấy sao mà đẹp đẽ trong ngắn ngủi, thời gian
trôi qua như cái chớp mắt mà nay đã gần 4 thập
niên ly hương, nhìn lại thấy mình không còn
trẻ của lứa tuổi hai mươi của Sài Gòn mộng mơ, không
còn nữa kỷ niệm đêm đêm tản bộ hóng mát
dọc theo bờ sông Sài Gòn, hướng mắt về mái nhà
lồng bên kia là Thủ Thiêm từ bến đò, bến bắc,
gió thổi mát rượi từ mé sông, không còn
nữa kỷ niệm Sài Gòn mưa lãng mạn ta phải luồn lách
những vũng nước không tên, trong cái giá lạnh khi
lượn xe gắn máy chạy trong cơn mưa rào xối xả từ trời cao
mà nước mưa bắn văng tung tóe, Sài Gòn cũng
đã chìm khuất vào dĩ vãng xa xôi, rồi
khi kỷ niệm trở về chỉ còn lại những nỗi nhớ đáng yêu
bằng nước mắt ấm đầy ắp những lưu luyến yêu thương trong tâm
tưởng, đôi lúc âm thầm trở về, cơ hồ như Sài Gòn
đã sống dậy mãnh liệt trong tiềm thức cũ, mãi mãi
theo ta những nhờ nhung không nguôi như bài ca:
“Sài gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà
áo em bay theo giọt nắng vàng
Con đường
ta đi giòng sông kỷ niệm
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng
Sài gòn bây giờ mưa giăng ngập lối
Hai đứa bên nhau âu yếm không rời
Đôi mắt yêu thương làn môi chờ đợi
Từng đợt mưa rơi.. bối rối bồi hồi
Sài gòn bây giờ lòng ai vương vấn
Mai anh đi rồi còn nhớ em không?
Đôi
mắt nai tơ buồn xa vời vợi
Cơn gió vô tình đuổi lá vàng
rơi
Sài gòn bây giờ có buồn không
em?
Mưa vẫn rơi rơi.. từng giọt êm êm
Suối tóc thơm bay hương tình dịu nhẹ
Ngây ngất dạt dào con phố về đêm”
(Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ
Tác Giả: Võ Tá Hân, Trần Ngọc)
Sài
Gòn gắn bó với tôi bắt đầu bằng những ngày thơ
ngây thành phố như một chốn phồn hoa đô hội, người ta
có thể bị choáng ngợp với một đô thị mang dáng
vẻ tây phương như người con gái kiều diễm, kiêu sa, đài
các, rồi cũng ở một góc nào đó Sài Gòn
ủ dột của phố đêm, lầy lội của xóm nghèo, trong nét
bình dân của tiếng rao hàng, những con kinh nước đen,…
Nhiều
người sống với Sài Gòn, dù mưa hay nắng, ban ngày
hay ban đêm, bận rộn tất bật hay nhàn rỗi rong ruổi với phố
xá của nó. Thưởng thức những món ngon mà cả
nhóm bạn tôi khoái khẩu nào là Mì
Cây Nhãn, Mì Chú Hỏa, mì La Cay Nguyễn
Tri Phương, hủ tiếu gà cá chợ cũ, hủ tiếu saté Lệ Thanh
Chợ Lớn. Lề đường Sàigòn xưa có hàng me Nguyễn
Du, có hàng sao cao vút khúc Võ Trường
Toản, Trưng Vương. Tôi nhớ rõ có những hàng phượng
vĩ và hoàng điệp trong sân trường Petrus Ký, Sài
Gòn có trường Gia Long với món bò bía,
xe đậu xanh đậu đỏ; có trường Luật Khoa trên đường Duy Tân
với xe nước dừa uống môi em ngọt; có trường Dược khoa, Văn
khoa trên đường Cường Để chạy thẳng xuống bờ sông Sài
Gòn có Bến Bạch Đằng,… Sài Gòn có những
quán kem, quán cà-fé, quán ăn vỉa hè,…
Những sinh hoạt bình dị có quán cơm Bà Cả Đọi,
quán Bắc Bà Ba Bủn; để thưởng thức những món Sài
Gòn sự khoái khẩu với hệ quả Pavlov cồn cào dạ dầy sau
những buổi tan học ngày cũ bạn bè rủ nhau đi ăn hàng
Sài Gòn. Tôi nhớ con hẽm kín đáo Casino
Sài Gòn nào những bún chả, bánh cuốn Thanh
Trì, bánh tôm Cổ Ngư; những gánh hàng
rong, những xe bán thức ăn của khu Bàn Cờ, khu Nguyễn Thiện
Thuật, Chợ Vườn Chuối, Chùa Kỳ Viên, Chợ Đũi,… xen kẻ trong
trí nhớ có nhiều lưu niệm trong ký ức xưa, có
những nhà hàng, những điểm hẹn hò như: Passage Eden,
Casino Sài Gòn, Mini Rex, La Pagode, Pôle Nord, Givral,
Brodard, khu thương xá Tax,… Nhắc đến Sài Gòn có
những nơi như Continental, Caravelle, Majestic,… Lề đường Saigòn
còn có những gánh hàng rong. Thương nhớ làm
sao kỷ niệm Sài Gòn có nước mía Viễn Đông
có thịt phá lấu, có gỏi đu đủ gan cháy khô
bò, có bánh bột chiên, có món bánh
cay gần khu Chùa Chà Và mà nhà văn Thinh
Quang nhắc tôi hôm nọ. Những thực khách của những nhà
hàng sang trọng theo cung cách kiểu tây phương của Sài
Gòn, nhưng rồi chính họ cũng là những giới hâm
mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè
Sài Gòn. Đó là những nét đặt thù
của Sài Gòn, của người Sài Gòn, hay thuật ngữ
phương tây “Saigonais”, hoặc “Saigonese”.
Nhớ Sài
Gòn, làm sao quên nỗi những góc phố, những con
đường của nơi ấy nhỉ? Năm 1865, Phó đô đốc Pierre Paul Marie
de la Grandière (1807 – 1876) đại diện cho chính quyền Pháp
tiến hành việc đặt tên cho 26 con đường trên địa bàn
của thành phố Sài Gòn mà trước đó chỉ
được đánh số thứ tự. Trải qua hơn 300 năm xây dựng và
phát triển, Sài Gòn đã có hơn 1.500 con
đường lớn, nhỏ và từ lâu các tên đường thay đổi
do yếu tố chính trị. Thời Pháp thuộc thì đường Tự Do
xưa của ta là đường Catinat; rồi Pháp đặt Charnerta cho tên
đường Nguyễn Huệ, Pháp đặt tên đường Mac Mahon ta là
Công Lý; và đường Bonard là Lê Lợi; đường
Mossard là đường Nguyễn Du; đường mang tên Phó đô
đốc HQ Pháp De La Grandlière ta thay bằng tên vua ta
đường Gia Long; đường Paul Blanchy tên ta là Hai Bà
Trưng), đường Mayer là tên vua ta đường Hiền Vương; và
đại lộ Boulevard de la Somme phe ta đặt tên vua, đại lộ Hàm
Nghi, nhà tôi ở đường mang tên tây D’Espagne tên
ta là vua Lê Thánh Tôn,…
…………….
La Pagode
Những
khách sạn thời Pháp thuộc tọa lạc ngay trung tâm Sài
Gòn đã là nhân chứng cho bao năm binh biến,
vật đổi sao dời. Khách sạn Continental được các kiến trúc
sư nổi tiếng của Pháp thiết kế và xây dựng vào
năm 1880 và nay là khách sạn lâu đời nhất Việt
Nam. Continental từng đón tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng như
nhà thơ Nobel của Ấn Độ là Rabindranath Tagore; văn hào
Pháp André Malreaux là tác giả của La condition
humaine (Thân phận con người 1933), sau làm Bộ trưởng Văn hóa
Pháp (1959-1969); văn hào Anh Graham Greene (tác giả
của sách bestseller “The Quiet American” – Người Mỹ Trầm Lặng);
cựu tổng thống Pháp Jacques Chirac, và nữ tài tử điện
ảnh Catherine Deneuve (thủ diễn trong các phim đoạt giải điện ảnh
Indochine, Le Dernier Métro, Belle de Jour),…
Quán Givral, nhà sách Xuân Thu…
phố xưa như nỗi nhớ
của người Sài Gòn, hồn của người
Sài Gòn.
Chủ nhân
đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất
vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier.
Chủ sau là Mathieu Francini. Ngoài ra, Continental còn
có tên là “Radio Catinat”, nơi mà giới báo
chí truyền thông tụ hội, trao dổi, thu nhặt tin tức thời sự
“nóng” nhất, sai có, đúng có.
Nhà
hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập
năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là Cường
Để) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân
người Tàu giàu có và nổi tiếng nhất nhì
Sài Gòn thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (tức chú
Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc
sư người Pháp.
Suốt gần 90 năm tuổi của mình, Majestic đã đón
tiếp nhiều nhân vật quốc tế, hay chính khách: Tổng
thống Pháp Mitterrand, Thái tử Nhật Akishino, Thủ tướng Lý
Hiển Long của Singapore, Thái tử Đan Mạch Henrick, Thái tử
Anh Andrew, công chúa Thái Lan Maha Chakri Sring Dhorn,…
Các
quán cà phê như La Pagode là nơi hội tụ của giới
thơ văn, báo chí Sài Gòn một thuở như tụ quán
Caffe Trieste nằm trên Vallejo Street (góc đường Grant) hướng
bắc của phố San Francisco, chủ nhân là một người Ý di
cư, nhưng quán cà phê nảy là nơi mà giới
tao nhân mặc khách, những nghệ sĩ lui tới gặp gỡ nhau, nò
là phòng hội của những nhà văn Lawrence Ferlinghetti,
Alan Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Richard Brautigan, Bob Kaufman,
Gregory Corso, Michael McClure, Kenneth Rexroth, Neeli Cherkovski,… nhà
thơ nổi tiếng Jack Hirschman, nghệ sĩ Peter Le Blanc, Don Moses và
nhiếp ảnh gia giải Pulitzer là Joe Rosenthal, rồi những Jimo Perini,
Bill Cosby, Paul Kantner, Liam Mayclem, Joey Reynolds và Mal Sharpe,…
Trieste còn là nơi thi sĩ gốc Nga giải Nobel văn chương Joseph
Brodsky lui tới trau chuốt thơ của mình. Còn nữa. Rồi ở góc
phòng còn phảng phất bóng dáng của nhà
đạo diễn nổi danh Francis Ford Coppola ngồi đọc và đánh bóng
kịch bản phim “The Godfather” những năm 70.
Paris có Café de Flore, ở ngay ngã Tư của
Boulevard Saint-Germain và đường St. Benoit, nơi gặp gỡ ngày
xưa của văn và triết gia như André Breton, Françoise
Sagan, André Malraux, Francois Mauriac, Jean-Paul Sartre, Simone
de Beauvoir, Albert Camus,…
Cái
chung của La Pagode của Sài Gòn, Caffe Trieste của San Francisco
hay hay Café de Flore của Paris là những địa điểm tụ họp của
giới văn hoá nghệ thuật, những nơi có lịch sử của chính
nó.
“Nắng SàiGòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…”
Sàigòn có thơ Nguyên Sa, có nhạc
Ngô Thụy Miên, hỡi những ai đã từng đi dưới cơn nắng
của Sài Gòn, bạn còn nhớ chứ?
Nhà thơ Vũ Uyên Giang cho bài thơ nhớ Sài
Gòn xưa, Sài Gòn nhớ nắng, nhớ mưa:
“Nhớ quá Sàigòn của thuở xưa
Ta từ Bưu Điện bước ngang qua
Nhà thờ Đức Mẹ nằm im lặng
Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa
…
Nhớ đến Sàigon một thuở xưa
Buổi chiều nhạt nắng lại rơi mưa
Gọi thầm khe khẽ tên ai đó
Đất khách trong lòng đang đổ mưa.”
Vũ Uyên Giang
Sàigòn qua nỗi nhớ nhung
Trần Mộng Tú
“Âm thanh của những tiếng động hàng ngày,
như tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của
một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán
hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà
rem, tiếng gọi nhau ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn
xao khi đi qua cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn
mưa… Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi
nhớ.
Sài
Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng
tôi lớn lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học
thì chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà
trường. Đã có những bạn trai thi rớt Tú Tài phải
nhập ngũ. Những giọt nước mắt đã rơi xuống sân trường. Sau
đó, với ngày biểu tình, với đêm giới nghiêm,
với vòng kẽm gai,với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi xuống,
tắt nhanh, như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến tranh.
Sài
Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào,
bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn
chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên
vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang
chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.
Thương xá Tax
* Thi sĩ
Phạm Sĩ Trung nhớ Sài Gòn :
“Sài Gòn ơi Sài Gòn
Những con đường thân quen
Hàng cây cao bóng mát
Tình yêu thật êm đềm
Sài Gòn ơi Sài Gòn
Nơi tôi đã lớn lên
Nhớ thương
buồn vời vợi
Suốt đời
chẳng sao quên”
*
Ca sĩ Quỳnh Giao hát bài “Nhớ Sài Gòn”, sáng
tác của Phạm Anh Dũng :
|
Tải và nghe bài hát Nhớ Sài Gòn nhạc 320kbps
cực chất thuộc nhạc Nhạc Trữ Tình. Ca sĩ: Quỳnh Giao trình
bày. Tìm lời bài hát(lyrics ...
|
|
Tải và nghe bài hát Nhớ Sài Gòn nhạc 320kbps
cực chất thuộc nhạc Nhạc Trữ Tình. Ca sĩ: Quỳnh Giao trình
bày. Tìm lời bài hát(lyrics ...
|