Họa sĩ đường phố : Bé Ký

Trong hồi ức của người Sài Gòn lớn tuổi chắc vẫn còn nhớ hình ảnh một cô gái với mái tóc dài kẹp sau lưng, tay cô cấp tập giấy "croquis" trắng tinh kèm theo những bức tranh đã vẽ. Cô thường lang thang trên những con đường mang tên Tây như Catinat (Đồng Khởi), Charner (Nguyễn Huệ)… Một công đôi việc, cô vừa vẽ và vừa bán tranh cho khách qua lại…
 
Đặc biệt, trong số khách hàng mua tranh còn có những người ngoại quốc. Họ có mặt tại Sài Gòn và muốn giữ lại những hình ảnh của “Hòn ngọc Viễn đông” để đem về nước làm kỷ niệm. Hóa ra tranh của cô là một “đại sứ lưu động” tỏa ra thế giới để giới thiệu những hoạt cảnh của một đất nước khi đó hãy còn là một “ẩn số” đối với người Phương Tây.  
 
Tranh của cô thuộc loại “carricature” hay còn có tên “sketching”. Nói khác đi chỉ là những bức ký họa, tốc họa, hoạt họa hay phác họa… mô tả những cảnh “đời thường” diễn biến trong cuộc sống… Chỉ qua vài nét bút giản dị, cô bé vẽ từ con chim, con cá, con trâu, con ngựa, con gà…cho đến những hình ảnh mẹ con, trẻ thơ, gồng gánh, chợ búa…
 
 
Cô gái đó là Bé Ký. Danh hiệu “Nữ nghệ sĩ trẻ tuổi của Đô thành” được dành cho Bé Ký thời cuối thập niên 50 sau đợt di cư của người miền Bắc vào Nam năm 1954. Bé Ký sinh ra tại Hải Dương (năm 1938) với một cái tên thật mộc mạc: Nguyễn Thị Bé.
 
Vốn mồ côi từ thuở tấm bé, cô được họa sĩ Trần Đắc nhận làm con nuôi đồng thời là học trò tại Hải Phòng rồi theo gia đình cha nuôi cùng di cư vào Nam. Họa sĩ Trần Đắc đã mang kinh nghiệm của mình, dạy cho Bé Ký phương pháp vẽ bằng chì than rồi đi dần qua màu sắc trên lụa.
 
Bé Ký mê vẽ từ thuở còn lên 4, lên 5. Cô bé bước vào hội họa một cách tự nhiên theo năng khiếu, không hề qua một trường lớp nào. Khởi đầu bằng những nét vẽ nguệch ngoạc và cho đến khi thành danh cũng chỉ bằng những nét đơn sơ, không cầu kỳ. Nhà phê bình văn học – nghệ thuật Thụy Khê nhận xét:
 
“ … Các họa sĩ thường bắt đầu từ dessin rồi dựa vào dessin mới phóng ra các màu sắc khác nhau. Bé Ký dừng lại ở dessin. Dường như bà đã tìm thấy vùng đất Thánh và dứt khoát ở lại thiên đường nguồn cội của mình. Bà không lớn nữa. Có thể nói Bé Ký - như cái tên lựa chọn có ý tiền định của bà - đã lấy tuổi thơ làm quê hương, dừng lại ở thời điểm hàn vi, ngây thơ (naif) trong hội họa và trong đời. Bé Ký là hiện tượng không già, rất độc đáo trong hội họa Việt…” (Bé Ký, Nỗi Hoài Nhớ Niềm Vui Đã Khuất).
 
Chọi gà
 
Hình ảnh 5 đứa trẻ ngồi xem đá gà hình như gợi lại cho người xem một hoạt cảnh, tuy chỉ mang những nét chấm phá đơn giản nhưng lại gợi trong ký ức của người thưởng ngoạn cất dấu từ thời thơ ấu.
 
Tranh trong kho tàng tranh dân gian cũng có con gà nhưng gà của Bé Ký sống động trong một cuộc thư hùng, lông dựng đứng. Bức tranh có cái “hồn” của những đứa trẻ chăm chú ngồi xem và cái “thần” của hai con vật trong một cuộc “giác đấu” một mất một còn. 
 
Ở bức tranh ông cháu che dù người ta thấy sự khăng khít của một già, một trẻ. Cũng bằng những nét “carricature” đơn giản nhưng lại toát lên một cảnh tượng xa xưa đã từng nằm sâu trong ký ức người xem. Ông mặc áo dài, tay cầm dù… dắt cháu đầu để chỏm. Cả hai hình như trên đường đi xem hội ngoài đình làng.
 
Có lẽ hình ảnh này cũng đã nằm sẵn trong ký ức của người họa sĩ và có lẽ Bé Ký vẽ rất nhanh cho kịp bước chân của hai ông cháu. “Sketching” là như vậy. Chỉ cần vài nét chấm phá để “tốc họa” nhưng hình ảnh đó – tựa như “snap shot” thời nay – đã ghi lại những khoảnh khắc sinh động.
 
Che dù
 
Vốn là phụ nữ nên Bé Ký vẽ rất nhiều tranh về mẹ và con. Trong bức “Đi chợ mua bông sen” người thưởng ngoạn có thể tưởng tượng hai mẹ con trên đường từ phiên chợ quê về nhà. Nét mặt người mẹ hớn hở vì bán hết hàng, bà mua 3 bông sen về cúng Phật tạ ơn. Cô con gái cười tươi như hoa với 3 bông sen đặt trên vai như chia sẻ niềm vui được đi chợ với mẹ.
 
Người ngoại quốc rất thích hình ảnh đặc thù Việt Nam này. Có áo dài thướt tha, có đôi quang gánh truyền thống, có chiếc khăn che đầu theo kiểu phụ nữ miền Nam và nhất là có cả chiếc nón lá rất… Việt Nam. Thời bây giờ có người sẽ nói Bé Ký là “Đại sứ Du lịch” của Việt Nam!
 
Đi chợ mua bông sen
 
Hàng loạt những bức ký họa về mẹ & con đã được Bé Ký khai thác, có thể nói đây là chủ đề nổi bật nhất của người họa sĩ vốn là một đứa trẻ mồ côi. Bao ấp ủ thầm kín, bao nỗi niềm sâu lắng, bao khát khao cháy bỏng được người vẽ thể hiện một cách nồng nàn trên tranh.
 
Đó là một hiện tượng rất hiếm trong hội họa. “Mẹ con”, “Mẹ chải tóc cho con” là những bức điển hình cho bộ sưu tập có chủ đề “Mẹ & Con” của Bé Ký.
 
Mẹ chải tóc cho con
 
Mẹ con
 
Bức tranh “Giã biệt” khiến người xem liên tưởng đến cuộc di cư vĩ đại của hơn 1 triệu người miền Bắc vào Nam năm 1954. Người mẹ với khuôn mặt khắc khoải nhìn lại phía sau… trên tay bồng đứa con cùng nhìn về một hướng với vẻ mặt ngây thơ vô tội. Có sống trong cảnh cất bước rời xa quê hương này mới hiểu được tâm trạng của người họa sĩ…
 
Giã biệt
 
Chuyển sang giai đoạn tranh màu ta vẫn thấy chủ đề “Mẹ & Con” vẫn được Bé Ký khai thác, khai thác một cách triệt để. Thường là tranh lụa hay sơn mài được vẽ theo một phong cách riêng. Mới thoạt nhìn tựa như tranh dân gian ngày xưa nhưng lại pha trộn những đường nét trừu tượng của thời hiện đại.
 
Âu yếm
 
Mẫu tử

 Mẹ & Con
 
Năm 1957 đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời làm nghệ thuật của Bé Ký. Chị đã có cuộc triển lãm đầu tiên tại Pháp văn Đồng minh hội (Alliance Francaise, Sài Gòn). Cuộc triển lãm do ông René de Berval, phê bình gia mỹ thuật cho tạp chí France d’AsieJournal d’Extrême Orient bảo trợ. Cuộc triển lãm rất thành công về tài chánh, nhưng quan trọng hơn cả là sự khẳng định tài năng của Bé Ký, “Nữ Họa sĩ của Vỉa hè Đô Thành”.
 
Phải thắng thắn nhìn nhận, sự thành danh nhanh chóng của họa sĩ Bé Ký phần lớn nhờ vào những người sưu tập hội họa Âu châu, bên cạnh đó là những bài viết giới thiệu, phê bình của nhiều tạp chí ngoại quốc như Le Journal d’Extrême Orient, The Yomiuri Shimbun, The Manila Times, Asiaweek, The Orange County RegisterLos Angeles Times.
 
Từ năm 1957 đến năm 1975, Bé Ký đã mở 18 cuộc triển lãm tranh, trong đó có 16 lần tại Sài Gòn, 1 lần tại Pháp và 1 lần tại Nhật Bản. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ chị cũng đã có 8 lần triển lãm để khẳng định tên tuổi của người họa sĩ dân gian điển hình của miền Nam Việt Nam.
 
 
Về mặt tình cảm, một bước ngoặc không kém phần quan trọng đã đến với Bé Ký vào năm 1965: “người họa sĩ đường phố” gặp người họa sĩ “tha hương” tại Sài Gòn. Nhà văn Luân Hoán dùng danh từ “song kiếm hợp bích trong hội họa” để mô tả sự kết hợp của hai họa sĩ Bé Ký và Hồ Thành Đức [*].

Hồi đó truyện chưởng của Kim Dung đang thịnh hành tại miền Nam. Trong “Thiên Long Bát Bộ” có hai nhân vật chính là Dương Quá và Tiểu Long Nữ, họ đã luyện thành công bộ “song kiếm hợp bích” trong một ngôi cổ mộ.
 
Ở lãnh vực hội họa, Bé Ký và Hồ Thành Đức là một cặp họa sĩ luôn hỗ trợ nhau trong nghệ thuật. Điều đáng nói là cả hai đi theo trường phái hội họa riêng khiến họ hoàn toàn độc lập khi thực hiện tác phẩm. Theo lời kể của Luân Hoán, hai họa sĩ đến với nhau trong một bất ngờ của định mệnh:
 
“… Chợt anh thấy từ cửa phòng tranh xuất hiện một cô gái tóc kẹp, thả dài xuống lưng. Anh bất ngờ giật mình, nhưng làm tỉnh được ngay. Cô gái đã dừng trước họa phẩm thứ nhất, im lặng ngắm…. Cô gái quả thật không có nhan sắc của một giai nhân. Nhưng sự dịu dàng từ tốn đã là một sắc đẹp, gợi mở trong Hồ Thành Đức những thao thức rất lạ lùng…
 
-- Chào ông, phòng tranh có vẻ vắng quá.
Đức chợt tìm thấy ngay cái mau miệng lém lỉnh của mình:
-- Không đâu thưa cô, có lẽ giờ này chưa được thuận tiện.
Anh cười dù có vẻ hơi phật lòng. Cô gái không mỉm cười trả lễ, nhưng không lạnh lùng, cô nhìn quanh phòng tranh. Đức cũng đưa mắt theo chiều quan sát của người khách... thì bất ngờ nghe tiếng hỏi:
-- Anh có biết tôi là ai không?
Chừng nửa giây ngập ngừng, Đức đáp chững chạc, tự nhiên:
-- Thưa rất làm tiếc, xin lỗi cô là ai.
Không lưỡng lự, cô gái, giới thiệu mình:
-- Tôi là Bé Ký
-- A, thế ra cô là những họa sĩ của hè phố.
 
Lẽ ra Đức phải có cái nụ cười tinh nghịch, châm chọc như thói quen. Nhưng không hiểu sao, lòng anh thấy yên ả, bình thản và có cái gì như ấm áp đang vây bọc lấy anh.
-- Hôm nay cô không ra Lê Lợi, Catinat…?
-- Không, mấy hôm nay tôi không ở Sài Gòn. Tôi vừa từ Ban Mê Thuộc về đây, cốt yếu xem phòng tranh của anh…”

Sách của Bé Ký & Hồ Thành Đức
 
Rõ ràng là miền Nam cũng có loại tranh dân gian bên cạnh những phong cách dân gian của miền Bắc và miền Trung. Tranh của Bé Ký được xếp vào loại “dân gian” của Sài Gòn xưa, thời VNCH. Để chấm dứt bài viết này, xin mượn lời nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy:
 
“… Bút pháp của Bé Ký thuộc về đại chúng, đó là một thứ nghệ thuật của quần chúng. Như vậy, chẳng có gì đáng tiếc khi nghệ thuật của Bé Ký chỉ ngừng ngang mức dân gian mà không đi xa hơn nữa.
 
Nếu chúng ta đã có những nguồn tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, tranh đỏ Kim Hoàng, tranh làng Sình ở Huế, thì chúng ta còn có thêm một nguồn tranh dân gian quý giá không kém chính là thế giới tranh Bé Ký. Dĩ nhiên, tranh Bé Ký cao và thơ mộng hơn nhiều vì nó là hơi thở thuần nhất của một nghệ sĩ chân thành và tài hoa, độc đáo và sáng tạo. Một giòng tranh dân gian của đại chúng như tranh Đông Hồ, thì hoàn toàn ngược lại, xoá hẳn cá tính vì được hình thành bằng nhiều thế hệ qua thời gian và lịch sử”.
 
Nguyễn Ngọc Chính
 
 
***
 
Chú thích:
 
[*] Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên đồng thời là chủ tịch của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975). Ông đến Mỹ cùng với gia đình năm 1989 và hiện nay đang sống cùng với vợ là Họa sĩ Bé Ký và gia đình tại tiểu bang California.
 
Tranh của Hồ Thành Đức được người xem đồng cảm ở màu sắc là điều dễ nhận ra nhất. Hầu như ông chỉ sử dụng những màu sáng tươi trong những hy vọng cùng những con đường nhẹ nhàng dẫn người xem vào bên trong thế giới nội tâm của khung vải. Hồ Thành Đức thành công ở thể loại acrylic hơn là ở các chất liệu khác. Ông chạy theo sự quyến rũ xảy ra cấp thời ngay sau những nét vẽ đầu tiên cho đến khi kết thúc. Sự nhạy cảm với màu sắc đã giúp ông phân biệt một cách tài tình giữa những khoảng tối cần nhấn mạnh để các góc sáng trở nên tinh tế hơn gây cảm giác mở ra những câu hỏi mà người xem có thể tự đặt cho chính mình.
 
Họa sĩ Hồ Thành Đức đã đi qua một đoạn đường rất dài và ông cũng là chứng nhân của nhiều cuộc biến động từ chính trị, lịch sử đến thăng trầm của nền hội họa nước nhà. Ông đã có tranh trong nhiều bảo tàng viện nhằm góp tiếng nói hiếm hoi của mỹ thuật Việt Nam vào nền mỹ thuật thế giới. Tuy thế, niềm thao thức về một sức sống mới đẩy hội họa Việt Nam lên cùng nhịp điệu của thế giới vẫn luôn bên cạnh ông trong những ngày còn lại nơi xứ người.
 
(Mặc Lâm, RFA)