*

Album


30.4.2012

and Mother's Day


*

By Richie
To U, my Mom, with Love.
Mother's Day, 2010

Nóng

Mẹ chồng và nàng dâu sống cùng nhà với nhau thời này đã hiếm, nàng dâu và mẹ chồng thân nhau như mẹ con ruột lại còn hiếm hơn. Tôi may mắn có được cả hai thứ hiếm hoi ấy. Thành ra, tôi luôn bỏ chữ “chồng” đi liền sau chữ “mẹ”, kể cả khi kể chuyện…
Cuối tuần trước, mẹ gọi tôi ra góc vườn, nơi có chiếc xích đu dưới bóng mát cây bàng, ngọt ngào:
- Ngồi xuống đây con, mẹ con mình tâm sự…
Tôi ngồi xuống, nắm lấy tay mẹ, nheo mắt cười:
- Mẹ lại muốn kể chuyện thời oanh liệt phải không?
Mẹ cười hiền, bẹo má tôi:
- Bao nhiêu oanh liệt thời quá khứ mẹ kể cho con nghe hết rồi còn gì. Hôm nay mẹ muốn nói chuyện tương lai kia.
Tương lai có gì mà đáng nói? Chồng tôi là con một, là người thừa kế duy nhất căn biệt thự này. Thằng cu Beo sau này cũng sẽ là người thừa kế duy nhất khi hết đời vợ chồng tôi. Tương lai của cái nhà này xem ra có thể đoán trước được rồi. Nhưng có vẻ như mẹ đang muốn nói về cái tương lai khác. Mẹ thở dài, nhìn xa xăm:
- Từ ngày về hưu, ba mày sinh ra đổ đốn!
Điều này tôi biết và cứ ngỡ là giấu được mẹ để bà ấy khỏi buồn. Tôi nắm chặt tay mẹ hơn:
- Thôi mẹ ạ, ba sinh tật vài bữa rồi lại chán thôi.
Mẹ lắc đầu:
- Không đâu con, càng ngày càng hư đốn. Chuyện ông ấy đi bia ôm bia iếc với bạn mẹ không thèm để ý. Nhưng hôm rồi mẹ mới phát hiện ra ông ấy đang cặp bồ với một con bé còn nhỏ hơn cả tuổi của con…
Tội nghiệp mẹ, tôi an ủi:
- Dù sao ba mẹ cũng có đến mấy chục năm hạnh phúc!
Mẹ cười, giọng vui vẻ hơn:
- Thì vậy! Thiệt ra bây giờ mẹ chỉ lo nhiều hơn buồn.
Tôi trấn an với tư cách chủ tài khoản gia đình:
- Mẹ khỏi lo, ba toàn cho gái… à, không, toàn xài bằng tiền lương hưu và quỹ đen giấu giếm lâu, không ảnh hưởng đến kinh tế gia đình đâu ạ.
Mẹ nhếch mép:
- Không phải mẹ lo chuyện tiền bạc. Mẹ lo sau này con dâu của mẹ cũng lâm vào hoàn cảnh như mẹ bây giờ. Con biết đó, thằng chồng con, con trai mẹ… nó là thằng đào hoa có tiếng. Hồi chưa cưới con nó đã “quậy” có tiếng rồi.
Chuyện này tôi cũng biết, nhưng tôi ngạc nhiên:
- Nhưng như thế thì có liên quan gì đâu hả mẹ?
Mẹ nhìn tôi thương hại:
- Sao lại không? Cha nào con nấy! Ba nó trước kia đàng hoàng biết bao nhiêu mà giờ còn hư hỏng vậy huống chi là nó. Mai kia nó mà… già thì con sẽ khổ gấp nhiều lần so với mẹ bây giờ, con dâu ạ!
Tôi giật mình, không phải là không có lý!
Tối hôm ấy, tôi nói hết những băn khoăn sau buổi trò chuyện với mẹ cho chồng nghe. Anh ấy bật cười, ung dung đứng dậy đi lấy cho tôi một cuốn… tiểu thuyết và nhẹ nhàng:
- Đúng là cha nào thì con nấy. Anh ví dụ như anh và ba cùng đọc cuốn tiểu thuyết có phần đầu đầy trắc trở và phần kết rất có hậu này. Nhưng anh đọc xuôi từ đầu đến cuối, còn ba thì đọc ngược lại, em hiểu không?
Tôi lắc đầu, ngơ ngác. Chồng tôi thở dài rồi nói như hét vào mặt tôi:
- Nghĩa là anh bắt đầu “quậy” ngay từ thời trẻ, “quậy” chán rồi nên càng về già anh càng đàng hoàng. Còn ba, ông ấy trẻ không chơi nên già sinh đổ đốn, em hiểu chưa?
Lần này thì tôi hiểu nhưng vẫn gắt chồng:
- Anh làm gì mà hét lên vậy, không sợ thằng cu Beo nó nghe thấy à?
Tôi bực bội mở cửa ra ngoài. Thấy cu Beo đang ngồi đọc truyện, tôi lại gần, ôm vai con:
- Con đọc xuôi hay đọc ngược vậy con?
Beo trố mắt nhìn tôi:
- Đọc xuôi chứ, sao mẹ lại hỏi vậy?
Tôi thở phào:
- Tốt, đọc xuôi là tốt con à. À, mà này... con đã thích bạn gái nào trong lớp chưa?
Con trai tôi trợn mắt:
- Dạ chưa, mà sao mẹ lại hỏi vậy?
Tôi ấp úng:
- Thì nếu có, mẹ… mẹ sẽ cho con tiền dẫn bạn gái đi ăn kem và xem phim!
Quý tử của tôi há hốc miệng nhìn mẹ lắc đầu rồi cúi xuống lẩm bẩm:
- Chắc tại mấy hôm nay trời nóng quá…
Nguồn: Blog Cô Gái Đồ Long.

Còn cái này thì thuổng trong số báo Granta, Winter, 2004, về Mẹ, Mothers.

Bác sĩ:
Báo tin buồn cho cô biết, bà mẹ chồng của cô chết vì đau tim.
Cô con dâu của bà mẹ chồng Bắc Kít trợn mắt, hét:
Vô lý!
Đến lượt ông bác sĩ trợn mắt:
Sao?

Bả đâu có tim!


[To O., from K/GNV]

*

Trong số báo này, có 1 bài của Ryszard Kapuscinski, thần sầu, “Tụi mình nói chuyện 30 Tháng Tư khi nào nhỉ”.

GCC tính dịch hoài mà quên hoài.
Chán thiệt.
Dưới đây là khúc chót, của bài viết, “Khi nào thì có chuyện trò về 1945”

 
 WHEN THERE IS TALK OF 1945

RYSZARD KAPUSCINSKI

the writer dreams of shoes, and shooting.

    But above all war lived on within us because for five years it had shaped our young characters, our psyches, our outlooks. It tried to deform and destroy them by setting the worst examples, compelling dishonorable conduct, releasing contemptible emotions. 'War,' wrote Boleslaw Micinski in those years, 'deforms not only the soul of the invader, but also poisons with hatred, and hence deforms, the souls of those who try to oppose the invader'. And that is why, he added, 'I hate totalitarianism because it taught me to hate.' Yes, to leave war behind meant to internally cleanse oneself, and first and foremost to cleanse oneself of hatred. But how many made a sustained effort in that direction? And of those, how many succeeded? It was certainly an exhausting and long process, a goal that could not be achieved quickly, because the psychic and moral wounds were deep.

When there is talk of the year 1945, I am irritated by the phrase, 'the joy of victory'. What joy? So many people perished! Millions of bodies were buried! Thousands lost arms and legs. Lost sight and hearing. Lost their minds. Yes, we survived, but at what a cost! War is proof that man as a thinking and sentient being has failed, disappointed himself, and suffered defeat.
    When there is talk of 1945, I remember that in the summer of that year my aunt, who miraculously made it through the Warsaw Uprising, brought her son, Andrzej, to visit us in the countryside. He was born during the uprising. Today he is a man in late middle-age, and when I look at him I think how long ago it all was! Since then, generations have been born in Europe who know nothing of what war is. And yet those who lived through it should bear witness. Bear witness in the name of those who fell next to them, and often on top of them; bear witness to the camps, to the extermination of the Jews, to the destruction of Warsaw and of Wroclaw. Is this easy? No. We who went through the war know how difficult it is to convey the truth about it to those for whom that experience is, happily, unfamiliar. We know how language fails us, how often we feel helpless, how the experience is, finally, incommunicable.
   
And yet, despite these difficulties and limitations, we should speak. Because speaking about all this does not divide, but rather unites us, allows us to establish threads of understanding and community. The dead admonish us. They bequeathed something important to us and now we must act responsibly, To the degree to which we are able, we should oppose everything that could again give rise to war, to crime, to catastrophe. Because we who lived through the war know how it begins, where it comes from. We know that it does not begin only with bombs and rockets, but with fanaticism and pride, stupidity and contempt, ignorance and hatred. It feeds on all that, grows on that and from that. That is why, just as some of us fight the pollution of the air, we should fight the polluting of human affairs by ignorance and hatred. +



Tôi nghĩ mọi người dân Việt Nam đều có quyền nghi ngờ chính đáng và đặt những câu hỏi đó, vì đây là chuyện liên quan đến vận mệnh đất nước.

Nguyên Ngọc

Mẽo, phải đợi mấy chục năm sau, mới khui hồ sơ mật, cho biết cú Maddox là ngụy tạo.
Nhưng dân Mít chẳng bao giờ biết được bí mật cái cú đầu độc tù Phú Lợi, từ đó đưa đến việc thành lập MTGP, ra ý đây là vấn đề nội bộ Miền Nam, không có Miền Bắc.
Liệu có bao giờ người dân Việt Nam “có quyền nghi ngờ” chuyện Diễm Xưa đó không?
Giả như NN có đi biểu tình, thì [nếu bị cảnh sát Ngụy tó], có rút điện thoại gọi HU như DMT không? 

Dưới chế độ toàn trị, làm sao có chuyện minh bạch? Ðến thằng Mẽo mà nó cũng không minh bạch liền tức thì nữa là.
Toàn trò hề! NQT

Cái cú Phú Lợi, NQT [TB] cho biết, đếch có. Ông biểu NQT [Gấu Cà Chớn], có đọc một bài viết ở trong nước, của 1 tay Vũ Gia. Tay này, để minh bạch lịch sử, bèn đi tìm những kẻ sống sót Trại Tù Phú Lợi để phỏng vấn, và tất cả đều xác nhận, không có, nhưng có 1 vụ ăn trúng thực, bị iả chảy, và phải khiêng ra xe hơi chở tới bịnh viện, và VC bèn chỉ chờ có thế, hô hoán lên, Diệm đầu độc tù, từ đó đẻ ra Mặt Trận Giải Phóng, nhử anh Mẽo nhảy vô Miền Nam… (1)

*

GCC @ Lý Kiến Cắn [Trúc] 's Van Hoa Magazine, Little Saigon.


Sài Gòn "Vấp Ngã"

*

Lúc này vưỡn còn cờ VNCH

Commemoration is always the adaptation of memory to the needs of today.
Tsvetan Todorov

Tưởng nhớ, hoài niệm…  luôn luôn là sự sửa lại hồi ức cho hợp với nhu cầu hiện tại.

Cynthia Ozick trích dẫn, trong bài viết “Who owns Anne Frank?" (1)


Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa xứng với nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!

“Nó” liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!

Giống dân nào, được nhân loại nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít.
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!

Biến cả thế giới thành bãi đánh hàng; “bầy chim bỏ xứ” đếch ai chứa, Mẽo chứa, đến lúc VC giơ bịch tiền đô ra nhử là bỏ về, không 1 tiếng cám ơn; mở blog thì dùng server chùa, ngay đến cái Nobel thì cũng được mũi lõ nuôi nấng dậy dỗ mà có được, vậy mà phải xin phép khổ chủ đấy nhé!
Coi blog của tụi mũi lõ, có thằng nào khốn nạn như thế không? Chúng chỉ yêu cầu, nếu lấy, thì nhớ ghi nguồn.
Tờ NYRB, trước, cho đọc hết tờ báo giấy, sau bị giới báo giấy cằn nhằn, mới thôi.
Chúng muốn nói, thằng nào có tiền, mua, OK, thằng nào muốn đọc free, tha hồ. (1)


Faulkner trẻ

Âm thanh và Cuồng nộ khởi sự viết đầu xuân 1928, tới thu thì hoàn tất. Năm niên sau, ông viết Trong khi tôi nằm hấp hối, "trong vòng 6 tuần lễ", Sanctuary, ["Tôi phịa ra, I invented, câu chuyện khủng khiếp nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra được và viết nó trong chừng 3 tuần lễ"]...

Như chuyên gia dịch Faulkner, trong lời tựa Âm Thanh và Cuồng Nộ, bản tiếng Tây, viết:

    «Ce roman, à l'origine, ne devait être qu 'une nouvelle, me dit, un jour, William Faulkner. J'avais songé qu'il serait intéressant d'imaginer les pensées d'un groupe d'enfants, le jour de l'enterrement de leur grand-mère dont on leur a caché la mort, leur curiosité devant l'agitation de la maison, leurs efforts pour percer le mystère, les suppositions qui leur viennent à l'esprit. Ensuite, pour corser cette étude, j'ai conçu l'idée d'un être qui serait plus qu'un enfant, un être qui, pour résoudre le problème, n 'aurait même pas à son service un cerveau normalement constitué, autrement dit un idiot.  C'est ainsi que Benjy est né. Puis, il m'est arrivé ce qui arrive à bien des romanciers, je me suis épris d'un de mes personnages, Caddy. Je l'ai tant aimée que je n'ai pu me décider à ne la faire vivre que l'espace d'un conte. Elle méritait plus que cela. Et mon roman s'est achevé, je ne dirais pas malgré moi, mais presque. Il n'avait pas de titre jusqu'au jour où, de mon subconscient, surgirent les mots connus The Sound and the Fury. Et je les adoptai sans réfléchir alors que le reste de la citation shakespearienne s'appliquait aussi bien, sinon mieux, à ma sombre histoire de folie et de haine.

    On lit en effet dans Macbeth, à la scène V de l'acte V, cette définition de la vie: «It is a tale told by an idiot,  full of sound and fury, signifying nothing», «C'est une histoire, contée par un idiot, pleine de bruit et de fureur, qui ne signifie rien.» La première partie du roman de William Faulkner est elle aussi, contée par un idiot, le livre entier vibre de bruit et de fureur et semblera dénué de signification à ceux qui estiment que l'homme de lettres, chaque fois qu'il prend la plume, doit apporter un message ou servir quelque noble cause. M. Faulkner se contente d'ouvrir les portes de l'Enfer. Il ne force personne à l'accompagner, mais ceux qui lui font confiance n'ont pas lieu de le regretter....

Maurice Edgar Coindreau. Princeton University, 1937

Cuốn tiểu thuyết này, thoạt đầu chỉ là một truyện ngắn, có lần W. Faulkner nói với tôi. Ông ta nghĩ, cũng thú vị, khi tưởng tượng những ý nghĩ của một đám trẻ con, trong ngày chôn cất người bà của chúng, mà người lớn giấu không cho chúng biết về cái chết của bà, sự tò mò trước xáo trộn, những toan tính muốn chọc màn bí ẩn... Sau đó, ông thêm vô, ý nghĩ về một nhân vật, muốn chọc màn bí ẩn, mà lại không nhờ cậy gì được, ở nơi một cái đầu bình thường, một thằng ngu, đần, độn. Và Benjy ra đời. Thế rồi, cũng như nhiều tiểu thuyết gia khác, ông đâm mê một nhân vật của mình, Caddy, mê đến nỗi, một truyện ngắn không đủ cho cô bé. Cô bé xứng đáng hơn thế nhiều. Cuốn tiểu thuyết hoàn tất, mặc dù thế nào, nhưng không làm sao kiếm cho nó một cái tên, cho đến một ngày, từ tiềm thức của ông bật ra những từ Âm thanh và Cuồng nộ. Ông bèn chôm liền, chẳng cần biết, những gì còn lại liên quan tới cụm từ quen biết này, từ Shakespeare, có hợp với câu chuyện u tối về sự khùng điên và hận thù của ông hay không.

Cụm từ trên, là từ Macbeth, một định nghĩa về cuộc đời: "Đây là một câu chuyện được kể bởi một tên đần độn, đầy âm thanh và cuồng nộ, và chẳng có nghĩa gì". Phần đầu của cuốn truyện của Faulkner hợp y chang, cũng được kể bởi một tên đần độn, và cả cuốn sách run bần bật, trong âm thanh và cuồng nộ, và có vẻ như cũng chẳng có một ý nghĩa, đối với những con người, vốn mong đợi những con người có học, mỗi khi cầm ngòi bút, phải đem lại một thông điệp, hay phục vụ một nghĩa cả. Ngài Faulkner lại khoái cái chuyện mở cửa Địa Ngục. Ông đâu có ép ai đi cùng ông, nhưng giả như có, thì người đó chắc chẳng phải ân hận vì đã tin ở nơi ông.

Note: Nhân đọc câu trả lời câu hỏi, 30 Tháng Tư là cái quái gì, của cô Nhã Thuyên, trích:
Câu chuyện về Việt Nam hôm nay có phải chỉ là kết quả của câu chuyện lịch sử 30/4/1975 không? (1)
GCC mượn câu trả lời của Faulkner:
30 Tháng Tư là ngày khánh thành địa ngục Mít, cái địa ngục mà những ông tướng về hưu, khi còn trẻ, xây dựng nên.
Hay gọi là “anus mundi” như Milosz đề nghị, cũng đặng!

Hậu môn của thế giới!


Thông báo nóng hổi dành cho báo chí của
Tông Tông Mẽo nhân ngày Tự Do Báo Chí Toàn Cầu

Vào ngày TDBCTC, nuớc Mẽo chúng tôi vinh danh vai trò của một nền báo chí tự do trong việc tạo ra những nền dân chủ sống dai dai, không đến nỗi yểu tử, hữu sinh vô dưỡng, và những xã hội phồn vinh. Chúng tôi đi một đường vinh danh đặc biệt tới những ký giả đã hy sinh cuộc đời, sự tự do, hay cuộc sống cá nhân dễ chịu của mình trong việc truy tìm, theo đuổi sự thực và công lý.
Đã trên 60 niên kể từ khi Tuyên Ngôn Nhân Quyền ra đời, nó phán, mọi người, bất cứ 1 người, đều có quyền “tìm, nhận và truyền đạt thông tin và tư tưởng qua bất cứ một môi trường truyền thông đại chúng, phe lờ biên cương, biên giái hay bờ luỹ,” và cái quyền này gần đây thấy hơi bị được lâm nguy ở nhiều xứ sở. Trong năm nay, có tí tôn tốt, thí dụ, sự trao trả tự do cho những ký giả cùng hàng trăm tù nhân chính trị khác ở Miến Điện, nhưng cái sự thích thì bắt, và thích thì giam giới ký giả thì vẫn tiếp tục ở khắp nơi trên thế giới. Trong khi chúng ta kết án sự giam giữ, mới đây thôi, những ký giả như Mazen Darwish, một khuôn mặt hàng đầu tranh đấu cho tự do ngôn luận ở Syria, và kêu gọi thả ông ta, chúng ta phải không được quên những người khác như Điếu Cày, mà cú bắt ông trùng với cú đàn áp tập thể quyền tự do báo chí của công dân Mít ở xứ Mít, hay là ký giả
Dawit Isaak, đã bị bắt giữ, bịt miệng, cấm lèm bèm [incommunicado?] bởi chính quyền Eritrean cả chục năm nay, đếch thèm nói ông bị tội gì, và cũng đếch đưa ra tòa.
Hăm dọa, làm khó dễ đủ đường, như ký giả Ecuador, Cesar Ricaurte, và nhà hoạt động đòi hỏi dân chủ người Belarusia, Natalya Radzina, đã phải chịu đựng, và sự kiểm duyệt gián tiếp, bao gồm cả chuyện hạn chế tự do đi lại như đã được áp đặt lên nhà viết blog người Cu Ba, Yoani Sanchez, những điều này tiếp tục làm ngứa ngáy, gây bực bội, nếu không nói, gây hậu quả ớn lạnh lên quyền tự do diễn đạt và báo chí. Chúng tôi kêu gọi tất cả các chính quyền hãy bảo vệ khả năng của ký giả, bloggers, và những nhà ly khai, tha hồ viết, tha hồ nói thoải mái không lo bị thiến, biếm, cấm in ấn, xb… và hãy chấm dứt cái trò cấm du lịch nước ngoài, và những hình thức không trực tiếp khác của kiểm duyệt, và đếch cho thực tập, sử dụng những quyền phổ cập như trên đã nêu ra.
Trong vài trường hợp, không phải nhà cầm quyền hăm dọa tự do báo chí. Đây còn là công việc của những băng đảng, khủng bố, hay những thành phần chính trị. Bọn khốn nào thì cũng thế, nguyên do nào cũng vậy, một khi mà ký giả bị hỏi thăm sức khoẻ, bị ăn no đòn, bị tống vô tù, hay biến mất, những cá nhân từng con người bèn tự vung dao thiến tự do của mình, tự kiểm duyệt, và thế là sợ hãi bèn thay thế sợ [ự] thật, và tất cả những xã hội của chúng ta đau khổ. Một thứ văn hóa [bốn ngàn năm] miễn nhiễm cho những hành động khốn kiếp như thế, là đếch có được phép tồn tại, ở bất cứ 1 xứ sở.
Năm nay, xuyên qua vùng Trung Đông, B
ắc Phi, và quá nữa, thế giới chứng kiến không chỉ hiểm nguy mà còn hứa hẹn, rằng, một nền báo chí tự do sẽ mở ra nhiều xã hội mới mẻ, thành công, và ổn định. Vào Ngày Tự Do Báo Chí Toàn Cầu hôm nay, chúng tôi kêu gọi tất cả những chính quyền, nhà nước hãy nắm lấy lời hứa hẹn này bằng cách thừa nhận vai trò quan trọng, sống còn của tự do báo chí, qua đó, những ký giả độc lập có thể hành nghề một cách tự do và đếch còn sợ hãi [VC] nữa!

Hà, hà!

Chưa thấy phát ngôn viên của VC phản đối Bác Obama xâm phạm nội bộ nước Mít!

Thà nô lệ anh Yankee mũi lõ, còn hơn anh Yankee mũi tẹt

Bản trên Việt Báo online

Malaparte viết:

Một khi mọi lý tưởng chỉ là cứt đái, thì lá cờ độc nhất, cho một con người, là làn da của chính anh ta.
When Germans become afraid, when that mysterious German fear begins to creep into their bones, they always arouse a special horror and pity. Their appearance is miserable, their cruelty sad, their courage silent and hopeless.
Khi người Đức bắt đầu sợ, khi nỗi sợ bí hiểm Đức đó ăn tới xương, thế là từ họ toát ra nỗi kinh hoàng và sự thương hại đặc biệt. Vẻ ngoài của họ trở nên thê thảm, sự độc ác, buồn lạ chi đâu, và sự can đảm, nín câm và vô vọng.
Gấu này tự hỏi, giá mà anh bộ đội Cụ Hồ, kẻ thù nào cũng đánh thắng, biết sợ, như thế, thì đã không biến thành bọ!
Thảm thay!

Ông viết:
Tự do đắt giá, còn đắt hơn cả nô lệ: Đúng là câu văn mặc khải cho cái số phận bi đát của một miền đất:
Thà nô lệ yankee mũi lõ, còn hơn tự do yankee mũi tẹt!
Ôi chao, trận dịch hạch do giải phóng đem vô khiến mọi người đổ xô chạy ra biển!
NQT


De Lattre nói với một tay phóng viên Mẽo:

Chúng tôi bỏ tất cả những vị trí thuộc địa. Có tí mỏ than, có tí vườn cao su chúng tôi không thể giữ được nữa. Nhưng cái gì có thể so sánh với máu của đám Tây mũi lõ con cháu của chúng tôi đổ ra, và 350 triệu phật lăng chi mỗi ngày cho Đông Dương? Cái việc chúng tôi đang làm là cứu vớt dân Mít. Và cái trò tuyên tuyền của Yankee mũi lõ các anh, coi chúng tôi chỉ là thực dân cũ làm chúng tôi đau lắm, thiệt hại lắm cho tất cả chúng ta - dân Mít, chính lũ Mẽo nhà các anh, và chúng tôi.

Và ông đọc diễn văn trước đám sinh viên Hà Lội:

Cuộc chiến này, dù tụi khốn mày có thích hay là không thích, thì nó vẫn là cuộc chiến của tụi mày, cho chính tụi mày. Và nước Pháp chỉ có thể gánh tí nào cho lũ chúng mày, nếu chúng mày ôm lấy nó... nếu chúng mày muốn chiến đấu cho Bác Hồ thì cút cha lên bưng, lên rừng đi!

30.4.2008: Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn?

Anh phải biết vì sao “hai thằng” đánh nhau? Bảo Ninh nhìn thấy “thằng” nào cũng chết và chẳng thằng nào được cái quái gì? Cũng như lính Ngụy thấy quần áo lót của phụ nữ cũng bỏ đi xem, cái đó rất thật. Nhưng anh phải nhìn thấy khi anh ngồi trong nhà anh, có “thằng” vào giết vợ anh, giết con anh, đốt con anh thì phải đánh lại chứ? Bảo Ninh chỉ nhìn lúc đang đánh nhau, chứ không nhìn ra nguyên nhân đánh nhau. Đã là “trọng tài bóng chuyền” thì phải công bằng.

Nói thật, mình rất quý Bảo Ninh nhưng mình khác Bảo Ninh ở chỗ này, mình rõ ràng và khoa học hơn. Có thể do mình ở lính lâu quá. 

Lê Lựu

Cho đến bây giờ ông nhà văn này vẫn một Ngụy, hai Ngụy, không chỉ riêng ông này, mà rất nhiều ông khác cũng vậy. Bạn cứ đọc mấy ông đang khoe công trạng nhân ngày 30 Tháng Tư là biết. Như vậy mà cứ hô hào giao lưu hòa giải, 'hội nhập' thì cũng quái.

Mấy anh bỏ chạy thì dễ rồi, nhưng, Gấu thử tưởng tượng một ông Đại Uý nhà văn chuyên môn bắt lính đào ngũ, thanh niên trốn quân dịch, khi gặp ông nhà văn Nê Nựu này, hai ông sẽ xưng hô ra sao?

Tuy nhiên, Gấu rất phục ông Lê Lựu. Ngụy là Ngụy, VC là VC.

Phải "chính danh" như vậy, rồi mới nói chuyện được.

Riêng về cái khoản ông Lê Lựu khoe ông rõ ràng và khoa học hơn so với ông Bảo Ninh, rồi lại khoe thêm thành tích giết người nhiều hơn [ở lính lâu quá], rồi từ đó, chê tài văn của ông Bảo Ninh, mới càng quái!

Cuộc chiến đã qua mấy chục năm. Đã có thêm một số dữ kiện, và cùng với nó, một số vấn đề mới được đặt ra.
Thí dụ, vụ Maddox, hoàn toàn là do Mẽo phịa ra, để có cớ dội bom Miền Bắc, không phải để leo thang chiến tranh, nhưng mà là để chấm dứt nó. Không có dội bom Bắc Việt, là không thể nào thúc vô đít mấy đồng chí Bắc Bộ Phủ, bắt ngồi vô bàn hội nghị.
Mẽo tìm mọi cách để rút ra, và Maddox là cách của họ.
Cũng thế, VC cũng có cách của họ, để nhử Mỹ vô.
Gấu thực sự tin rằng, chính Bắc Việt tìm đủ mọi cách để nhử Mỹ vô Miền Nam Việt Nam. Cái sự kiện,"có 'thằng' vào giết vợ anh, giết con anh, đốt con anh thì phải đánh lại chứ?", là do Bắc Việt gây ra, ngư ông hưởng lợi đủ đường là vậy.
Và cái cú nhử Mỹ vô, là phịa ra vụ đầu độc tù VC trong nhà tù Phú Lợi.
Đầu độc tù, rồi la lên, mới có cớ thành lập MTGP, coi đây là nội bộ Miền Nam. Mẽo sợ mất Miền Nam, đang chỉ có mấy anh cố vấn quèn, bèn đưa thêm quân vô, thế là Miền Bắc có cớ, động viên cả nước, phát động cuộc chiến thần thánh, muôn đời có một.
Cứ giả thử có đầu độc tù, thì cũng vẫn do VC tạo ra. Chết vài ba đồng chí mà nhử được Mẽo vô, rồi phát động cuộc chiến "thống nhất đất nước", thực hiện giấc mơ muôn đời của Miền Bắc, còn gì sướng hơn!
Cuộc chiến Việt Nam bắt buộc phải xẩy ra, theo cả hai nghĩa, tốt nhất và khốn nạn nhất, là như vậy!
Có thể, Miền Bắc chỉ nghĩ ra cái vụ Phú Lợi, sau khi biết, không có hiệp thương, theo như hiệp định Genève. Nhưng giả như có hiệp thương, thì Miền Nam vẫn là Miền Nam, không bị biến thành Ngụy.
Miền Bắc phải cám ơn Mẽo, là vậy. Không có mày vô, là không có vụ ăn cướp!
*

Nên nhớ, cái tâm ăn cướp là có thực, đừng nghĩ Gấu đổ tội oan.

Không phải tự nhiên mà Bùi Tín phán, chúng ông lấy sạch rồi, chúng mày còn cái gì mà đòi bàn giao.
Tự trong thâm tâm của ông, bật ra câu này.
Cũng thế, là câu phán của Võ Nguyên Giáp, đánh một trăm năm cũng phải đánh.
Tự thâm tâm, ông biết, phải như vậy. Đây là cơ may ngàn đời có một. Đốt sạch Trường Sơn cũng phải đốt, là cũng theo nghĩa đó.

Người ta chê Giáp, tướng mà sao tàn nhẫn. (1)
Không, ông ta nói câu đó không phải với tư cách một ông tướng, mà là một tên Yankee mũi tẹt, có thể con cháu của một tay họ Trịnh nào đó!

(1)

Gần đây, tôi tình cờ đọc được một nhận xét của tướng William Childs Westmoreland- Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam- về tướng Võ Nguyên Giáp của quân đội Bắc Việt như sau:

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...".

Xin được tạm dịch là: "Dĩ nhiên, ông ta là một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm....Với sự thừa nhận của chính ông ta, đến đầu năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất nửa triệu lính? Ông ta đã báo cáo điều này. Hiện tại, một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ (kẻ thù) ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự...."



The White House
Office of the Press Secretary
For Immediate Release May 03, 2012 Statement by the President on World Press Freedom Day (1)

On this World Press Freedom Day, the United States honors the role of a free press in creating sustainable democracies and prosperous societies. We pay special tribute to those journalists who have sacrificed their lives, freedom or personal well-being in pursuit of truth and justice.
Over sixty years after the Universal Declaration of Human Rights proclaimed the right of every person “to seek, receive and impart information and ideas through any media and regardless of frontiers,” that right remains in peril in far too many countries.
While this year has seen some positive developments, like the release of journalists along with hundreds of other political prisoners in Burma, arbitrary arrests and detentions of journalists continue across the globe. As we condemn recent detentions of journalists like Mazen Darwish, a leading proponent of free speech in Syria, and call for their immediate release, we must not forget others like blogger Dieu Cay, whose 2008 arrest coincided with a mass crackdown on citizen journalism in Vietnam, or journalist Dawit Isaak who has been held incommunicado by the Eritrean government for over a decade without formal charge or trial.
Threats and harassment, like that endured by Ecuadorian journalist Cesar Ricaurte and exiled Belarusian democratic activist Natalya Radzina, and indirect censorship, including through restrictions on freedom of movement like those imposed on Cuban blogger Yoani Sanchez, continue to have a chilling effect on freedom of expression and the press. We call on all governments to protect the ability of journalists, bloggers, and dissidents to write and speak freely without retribution and to stop the use of travel bans and other indirect forms of censorship to suppress the exercise of these universal rights.
In some cases, it is not just governments threatening the freedom of the press. It is also criminal gangs, terrorists, or political factions. No matter the cause, when journalists are intimidated, attacked, imprisoned, or disappeared, individuals begin to self-censor, fear replaces truth, and all of our societies suffer.  A culture of impunity for such actions must not be allowed to persist in any country.
This year, across the Middle East, North Africa and beyond, the world witnessed not only these perils, but also the promise that a free press holds for fostering innovative, successful, and stable democracies. On this World Press Freedom Day, we call upon all governments to seize that promise by recognizing the vital role of a free press and taking the necessary steps to create societies in which independent journalists can operate freely and without fear.

Note: Tông Tông Mẽo vinh danh Điếu Cày, nhân Ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới

GCC lèm bèm: Được, được!
TV sẽ có bản tiếng Việt, as soon as possible, liền tù tì.
Không biết VC có ngửi ra vụ này hay không, và bèn hoãn xử DC? (2)
Cái này thì phải hỏi bạn của Gấu là PXA mới được!

Cứ như là Camus lên tiếng cho Hồ Hữu Tường!

Chúng ta phải không được quên Điếu Cày, và cái cú VC bắt ông vào năm 2008 trùng với cú đàn áp tập thể quyền tự do báo chí của công dân ở xứ Mít.
“Bác” Obama phẫn nộ lên tiếng!

(2)

Phiên xử ba bloggers Điếu Cày- Nguyễn Văn Hải, Anh Ba Sài Gòn- Phan Thanh Hải, và Tạ Phong Tần, dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 15 tháng 5 tới đây, đã bị hoãn lại.

Thông báo nóng hổi dành cho báo chí của
Tông Tông Mẽo nhân ngày Tự Do Báo Chí Toàn Cầu

Vào ngày TDBCTC, nuớc Mẽo chúng tôi vinh danh vai trò của một nền báo chí tự do trong việc tạo ra những nền dân chủ sống dai dai, không đến nỗi yểu tử, hữu sinh vô dưỡng, và những xã hội phồn vinh. Chúng tôi đi một đường vinh danh đặc biệt tới những ký giả đã hy sinh cuộc đời, sự tự do, hay cuộc sống cá nhân dễ chịu của mình trong việc truy tìm, theo đuổi sự thực và công lý.
Đã trên 60 niên kể từ khi Tuyên Ngôn Nhân Quyền ra đời, nó phán, mọi người, bất cứ 1 người, đều có quyền “tìm, nhận và truyền đạt thông tin và tư tưởng qua bất cứ một môi trường truyền thông đại chúng, phe lờ biên cương, biên giái hay bờ luỹ,” và cái quyền này gần đây thấy hơi bị được lâm nguy ở nhiều xứ sở. Trong năm nay, có tí tôn tốt, thí dụ, sự trao trả tự do cho những ký giả cùng hàng trăm tù nhân chính trị khác ở Miến Điện, nhưng cái sự thích thì bắt, và thích thì giam giới ký giả thì vẫn tiếp tục ở khắp nơi trên thế giới. Trong khi chúng ta kết án sự giam giữ, mới đây thôi, những ký giả như Mazen Darwish, một khuôn mặt hàng đầu tranh đấu cho tự do ngôn luận ở Syria, và kêu gọi thả ông ta, chúng ta phải không được quên những người khác như Điếu Cày, mà cú bắt ông trùng với cú đàn áp tập thể quyền tự do báo chí của công dân Mít ở xứ Mít, hay là ký giả
Dawit Isaak, đã bị bắt giữ, bịt miệng, cấm lèm bèm [incommunicado?] bởi chính quyền Eritrean cả chục năm nay, đếch thèm nói ông bị tội gì, và cũng đếch đưa ra tòa.
Hăm dọa, làm khó dễ đủ đường, như ký giả Ecuador, Cesar Ricaurte, và nhà hoạt động đòi hỏi dân chủ người Belarusia, Natalya Radzina, đã phải chịu đựng, và sự kiểm duyệt gián tiếp, bao gồm cả chuyện hạn chế tự do đi lại như đã được áp đặt lên nhà viết blog người Cu Ba, Yoani Sanchez, những điều này tiếp tục làm ngứa ngáy, gây bực bội, nếu không nói, gây hậu quả ớn lạnh lên quyền tự do diễn đạt và báo chí. Chúng tôi kêu gọi tất cả các chính quyền hãy bảo vệ khả năng của ký giả, bloggers, và những nhà ly khai, tha hồ viết, tha hồ nói thoải mái không lo bị thiến, biếm, cấm in ấn, xb… và hãy chấm dứt cái trò cấm du lịch nước ngoài, và những hình thức không trực tiếp khác của kiểm duyệt, và đếch cho thực tập, sử dụng những quyền phổ cập như trên đã nêu ra.
Trong vài trường hợp, không phải nhà cầm quyền hăm dọa tự do báo chí. Đây còn là công việc của những băng đảng, khủng bố, hay những thành phần chính trị. Bọn khốn nào thì cũng thế, nguyên do nào cũng vậy, một khi mà ký giả bị hỏi thăm sức khoẻ, bị ăn no đòn, bị tống vô tù, hay biến mất, những cá nhân từng con người bèn tự vung dao thiến tự do của mình, tự kiểm duyệt, và thế là sợ hãi bèn thay thế sợ [ự] thật, và tất cả những xã hội của chúng ta đau khổ. Một thứ văn hóa [bốn ngàn năm] miễn nhiễm cho những hành động khốn kiếp như thế, là đếch có được phép tồn tại, ở bất cứ 1 xứ sở.
Năm nay, xuyên qua vùng Trung Đông, B
ắc Phi, và quá nữa, thế giới chứng kiến không chỉ hiểm nguy mà còn hứa hẹn, rằng, một nền báo chí tự do sẽ mở ra nhiều xã hội mới mẻ, thành công, và ổn định. Vào Ngày Tự Do Báo Chí Toàn Cầu hôm nay, chúng tôi kêu gọi tất cả những chính quyền, nhà nước hãy nắm lấy lời hứa hẹn này bằng cách thừa nhận vai trò quan trọng, sống còn của tự do báo chí, qua đó, những ký giả độc lập có thể hành nghề một cách tự do và đếch còn sợ hãi [VC] nữa!

Hà, hà!

Chưa thấy phát ngôn viên của VC phản đối Bác Obama xâm phạm nội bộ nước Mít!

Thà nô lệ anh Yankee mũi lõ, còn hơn anh Yankee mũi tẹt

De Lattre nói với một tay phóng viên Mẽo:

Chúng tôi bỏ tất cả những vị trí thuộc địa. Có tí mỏ than, có tí vườn cao su chúng tôi không thể giữ được nữa. Nhưng cái gì có thể so sánh với máu của đám Tây mũi lõ con cháu của chúng tôi đổ ra, và 350 triệu phật lăng chi mỗi ngày cho Đông Dương? Cái việc chúng tôi đang làm là cứu vớt dân Mít. Và cái trò tuyên tuyền của Yankee mũi lõ các anh, coi chúng tôi chỉ là thực dân cũ làm chúng tôi đau lắm, thiệt hại lắm cho tất cả chúng ta - dân Mít, chính lũ Mẽo nhà các anh, và chúng tôi.

Và ông đọc diễn văn trước đám sinh viên Hà Lội:

Cuộc chiến này, dù tụi khốn mày có thích hay là không thích, thì nó vẫn là cuộc chiến của tụi mày, cho chính tụi mày. Và nước Pháp chỉ có thể gánh tí nào cho lũ chúng mày, nếu chúng mày ôm lấy nó... nếu chúng mày muốn chiến đấu cho Bác Hồ thì cút cha lên bưng, lên rừng đi!


Debacle in Beijing

Băng Tan ở Bắc Kinh

Ian Johnson

The story of a blind Chinese lawyer’s flight to the US Embassy in Beijing is likely to ignite accusations and recriminations until the US presidential election in November. But what few will acknowledge is a harsher truth: that for all our desire to effect change, outsiders have little leverage to shape China’s future. This isn’t to say that China is permanently stuck in an authoritarian quagmire and outsiders can only watch. On the contrary, people like Chen Guangcheng show how China is changing: from the grassroots up, by ordinary citizens willing to assert their rights and push change.


Trong ABC’s, entry “Sự độc ác”, Cruelty, Milosz cho rằng, cái khuynh hướng khoái những chuyện khôi hài độc địa, “ma-cạp” [macabre jokes], khôi hài đen, là “đặc sản”, characteristic, của giới trí thức Ba Lan, trong thế kỷ này.
Và ông giải thích, điều này có thể là do những tai nạn lịch sử được ban cho phần đất này, của Âu Châu,

Ui chao, ông này cũng hơi bị méo mó, cứ cái gì xấu xa nhất là ban cho xứ của ông, người của ông.

GCC sợ rằng, những dòng trên có thể áp dụng cho đám tinh anh Bắc Kít.
Bạn không tin, thử đọc, nào NHT, nào Sến, nào pro-Sến, anti-Sến của đám đàn em đệ tử & thù nghịch…
Bạn thử kiếm cho GCC, chỉ 1 dòng thôi, được coi là “nhân hậu và cảm động” ở trong cõi văn xứ Bắc Kít?

Trong bài viết, Milosz nhớ lại một trong những cuốn phim của Sacha Guitry, mở ra bằng cảnh một chuỗi quan tài diễn hành, sau chót là một thằng cu tí, độc nhất sống sót trong gia đình, và ông giải thích lý do:

Anh Cu Gấu, thoát chết, là do quậy quá, bị phạt, bắt nhịn đói, trong khi “cả miền đất”, bữa cơm chiều hôm đó, [cái gì gì, “hoàng hôn của một miền đất”] ăn nấm độc có tên là Cỏ Cụ Hồ [chữ của Phan Khôi?], thế là đi tầu suốt tất tần tận Bắc Kít!

Hà, hà!

Duyên Anh: Đời lưu vong bi kịch

Nhân đang nói về Ác Bắc Kít, đọc bài này về Duyên Anh.

Tay này viết nhảm quá, về những gì anh ta đếch có biết. DA theo như GCC được biết, bị đấm có mỗi 1 cú, mà như chính ông viết lại sau đó, của 1 thằng phải là võ sĩ, may mà ông nghiêng mặt đi được một chút, thành ra thoát chết.
Viết cái gì không biết thì đừng phóng đại, tưởng tượng. DA có quá nhiều kẻ thù, thành thử khó mà biết ai đánh ông, đừng đổ vạ cho bất cứ ai, đảng phái nào.
Viết như thế, là độc giả nghi ngờ những dòng chân thật của bài viết.
Cái tít bài viết cũng hỏng. Bi kịch lưu vong, dẫu sao cũng đỡ hơn bi kịch không lưu vong. Thí dụ thì đầy ra đấy. Cớm VC muốn bắt ai thì bắt, cả một đất nước thê thảm, thê thảm hơn nhiều, so với bi kịch lưu vong.  

37 năm sau 30 Tháng Tư 1975, VC vẫn ngang nhiên bắt người, vẫn cho côn đồ giả danh nhân dân, bức xức đánh đập, làm nhục, bất cứ ai dám nói ngược lại VC; không chỉ bất cứ ai, mà bất cứ tập thể nào, kể cả tập thể những “VC hơn cả VC” - những ông tướng VC về hưu, thí dụ, vậy mà anh này vờ hết, chỉ nhắc tới vài trường hợp lẻ tẻ, khi đám kiêu binh VNCH còn đương thời.
Viết như thế, thì đúng là tự mình làm nhục ngòi viết của mình.
Trên TV hình như có nhắc tới cú DA bị đánh, nhưng họa biến thành phúc, ông trở nên khác hẳn, sau đó. Nhân quả khó lường. Hình như ông còn cám ơn kẻ đánh ông nữa.
Ông đâu cần anh nhóc VC viết báo Cớm VC giả đò“vinh danh” ông.

Hồi mới vô Sài Gòn, GCC ở Khu Chợ Vườn Chuối, cũng đã từng đi vài đường cảm khái, khi nhớ về bạn quí!
Nhưng sau đó, ở hẻm thì nhiều.
Hẻm Đội Có, Hẻm Mả Đỏ, khu Phú Nhuận, hay Hẻm Xóm Gà, khu nhà Bạn Chất… và trong giấc mơ của GCC khi về già, chúng vẫn lâu lâu trở lại, với dáng vẻ lầy lội của chúng, những ngày mưa, và cùng với chúng, là hình ảnh những cô gái, cầm dép guốc trên tay, xắn cao quần, vượt hẻm, ra đến ngoài đường lớn, kiếm 1 cái vòi nước công cộng, rửa sạch chân, và rồi thắng giày, dép, guốc cao gót.
Thế rồi chiến tranh xẩy ra, những con hẻm ngày một lột xác, cùng với 1 số khuôn mặt thanh niên biến mất: Hẻm càng canh tân bao nhiêu, chiến tranh càng leo thang bấy nhiêu. Người chết tăng theo, và sự sa đọa tăng theo. Những cô gái trong xóm, GCC gặp lại, ở snack bars, hoặc ở nghĩa địa, khi họ vô thăm viếng mộ chồng, con…

Nhìn Sài Gòn xa hoa, lộng lẫy bây giờ, qua hình ảnh trên net, GCC nghĩ thầm, không còn chiến tranh, đâu còn người chết, thì cái gì đã mất?
Lòng tự hào là 1 tên Mít của chúng ta.
Không phải thứ tự hào đỉnh cao, đánh thắng hai thằng đầu sỏ… mà là tự hào bình thường, như mọi giống dân, được sinh ra ở trên đời này.
Lòng tự hào bình thường đó, chúng ta không còn.
GCC không tin là bây giờ còn có nhiều người tự hào mình là Mít.
Lũ khốn kiếp VC lấy của dân Mít lòng tự hào.
Cái tên VC nằm vùng viết bài này, hắn ta biết rất rõ, cả hai chế độ. Vậy mà vẫn trâng tráo viết như trên.
Bi kịch lưu vong.

1958. Học xong Trung học tôi thi vô Trường Quốc Gia Bưu Điện vừa mới được thành lập sau một năm lân la làm quen cái không khí đầy nao nức của tương lai như đang giục giã ở ngay đầu ngã tư của cuộc đời, ở đại giảng đường Đại Học Khoa Học. Bạn thử tưởng tượng một học sinh nghèo, sống chui rúc ở cuối con hẻm Đội Có, Phú Nhuận, nơi đám người nghèo khổ bám quanh thành phố, khi chiến tranh chưa dồn dập đem những tiện nghi đến tận giường ngủ, xó bếp, rồi lấy đi một số người thân, quanh năm chỉ biết xài đèn dầu, uống nước giếng. Đám thanh niên, ngoài những lúc tự an ủi lẫn nhau bằng những mối tình tưởng tượng, bằng những tiếng hát nhái theo giọng Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch quanh cây đàn ghi ta bên cạnh giếng nước, vào những lúc con xóm sau một ngày mệt lả, mặc tình cho bóng đêm và muỗi đói hành hạ; buổi sáng chỉ còn cách kéo nhau ra mấy dẫy nhà lụp xụp, mặc tình ngắm nghía mấy cô gái họ vẫn thường trầm trồ, mỗi lần thoáng thấy bóng. Các cô lúc này xắn quần cao, thoăn thoắt giữa đám rau muống xanh um phủ kín mấy vũng nước đen ngòm, nguồn lợi thứ nhì sau mấy ao cá, một nơi chốn hẹn hò khác nữa của các cô cậu choai choai, và của đám con nít; bỗng một ngày đẹp trời, thấy như Alice lạc vào xứ thần tiên, lạc vào trường Đại Học Khoa Học.

Phở hồi đó ba đồng một tô. Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt. Những buổi sáng hiếm hoi trong túi có mấy đồng bạc cắc bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước bán hết mấy món đồ xi cho mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, vẫn thường xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê chiếc vòng mã não, chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy nghệ sĩ cải lương... tôi có cảm tưởng cả con hẻm, khu phố cũng xôn xao cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của nó: Tô phở nơi đình làng Phú Nhuận, trong hơi phở có chút hiền từ của khói nhang, của những lời cầu khấn, mấy bà mấy cô đi chợ tiện thể ghé đình lạy Phật và dùng điểm tâm. Dĩa bánh ướt của cô gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con hẻm mươi, lăm phút rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ nhà, khi ra tới nơi chỉ còn kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng cử chỉ quen thuộc của cô còn nán lại phía sau lưng đòn gánh. Khi đã đi làm, có lương tháng, có nhà ở, do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không cho ngoái cổ nhìn lại con hẻm xưa, có những buổi sáng chạy xe vòng vòng đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết đâu còn sót lại qua dĩa bánh cuốn Thanh Trì, nơi con hẻm đường Trần Khắc Chân, khu Tân Định. Thứ bánh cuốn mỏng tanh, không nhân, chấm nước mắm nhĩ màu mật, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa. Chủ nhật đổi món bún thang dậy mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng chút thơm tho của đôi ba giọt cà cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù... Nhìn bước đi thời gian trên khuôn mặt xinh tươi của mấy cô con gái bà chủ tiệm, mới ngày nào còn tranh giành đồ chơi, còn tị nạnh đùn đẩy nhau trong việc phục vụ khách, bây giờ đã biết đỏ mặt trước mấy cậu thanh niên. Tự nhủ thầm hay là tới 79 đợi một tô phở đặc biệt sau khi len lỏi qua các dẫy bàn chật cứng thực khách, cố tìm một cái ghế trống. Hay tới quán bà Ba Bủng để rồi lưỡng lự, giữa một tô bún ốc; cố tìm lại hình bóng con ốc nhồi ngày xưa, tại một vùng quê của xứ Bắc Kỳ xa lơ xa lắc, chỉ muốn quên đi, chỉ muốn chối từ nhưng cuối cùng khám phá ra, trong đáy sâu âm u của tâm hồn, của tiềm thức, của quá khứ, hiện tại, tương lai, của hy vọng, thất vọng, của hạnh phúc, khổ đau... vẫn có một con ốc nhồi ẩn náu dưới mớ bèo trên mặt ao đầy váng; giữa một tô bún riêu, hay một tô bún chả thơm phức vẫn còn chút dư vị chợ Đồng Xuân, mới ngày nào được về Hà-nội ăn học. Ôi tất cả, chỉ vì thèm nghe cho được cái âm thanh ấm áp của mấy đồng bạc cắc reo vui suốt con hẻm Đội Có, Bà Trẻ cho, ngày nào, ngày nào...

Note: Đoạn văn trên, GCC viết khi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, gửi đăng ở 1 tờ báo ở Canada, làm “tài liệu khi đi thanh lọc”.


Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng Quê của Kafka

NQL: “Những bức ảnh dưới đây cho chúng ta nhìn lại Chiến tranh Việt nam từ lúc Mỹ leo thang can thiệp đầu những năm 1960 đến lúc chính quyền Sài Gòn cũ sụp đổ”. Denverpost chỉ giới thiệu một câu vậy thôi nhưng xem phóng sự ảnh dưới đây ta thấy cả cuộc chiến tranh Việt Nam đã được dựng lại rất sinh động và xác thực, thật tuyệt vời! Cảm ơn KTS Võ Thanh Lân đã gửi cho đường link và Bs Nguyễn Hải Phong đã dịch phóng sự ảnh này. (Đọc tiếp…)

Những bức hình dưới đây, thì cả thế giới đều biết từ khuya rồi, tính sinh động, xác thực thì cũng thế, nhưng cái xác thực, trước và sau những tấm hình, thì lại đếch có.

Xác thực thứ nhất, chính VC nhử Mẽo vô Nam Việt Nam, để có cớ xâm lăng, bằng cú ngụy tạo đầu độc tù Phú Lợi.
Xác thực thứ nhì, 3 triệu người xác thực chết, để tạo ra xác thực là 1 nước VC bây giờ, muốn bắt ai thì bắt.

Khoe khoang thành quả 30 Tháng Tư hoài, sao không khoe nhục nhã?
Có 1 cái blog mà phải khóa lại, sao không khoe?

Kít!

*

Người cha ôm xác con hỏi lính VNCH: Tại sao?

Từ "xác thực", đã nhảm, nhưng từ "tuyệt vời" đại khốn nạn.
Bạn nhìn cái hình người cha ôm xác đứa bé hỏi đám Ngụy, "Tại sao?", có cảm thấy “Tuyệt vời” không?
Nhìn nỗi đau của người khác mà cảm thấy tuyệt vời!

Kít thật!

NQT

Trong những bức hình chiến tranh Việt Nam thường xuất hiện trên báo chí thế giới, dạng Radiophoto [gửi bằng vô tuyến điện, làn sóng ngắn, short waves] có thể nói, GCC là chủ nhân một nửa!
Nói cho dzui, sự thực GCC là người gửi 1 nửa tổng số hình của UPI, còn nửa kia, là do ông Hưng, AP man gửi.
GCC gặp lại chúng hoài, nhưng có 1 bức, tuyệt tích giang hồ. Bức này, có thể nói, bảnh hơn ["tuyệt vời" hơn, chữ của ông nhà văn VC/ NQL], bức Tướng Loan xử VC trên đường phố Sài Gòn.
Loan xử có 1 tên VC, còn VC xử tập thể chừng trên một chục ký giả báo chí quốc tế, ngồi xe Jeep lùn, bị chúng tóm được trong trận Mậu Thân ở Chợ Lớn.

Xe Jeep lùn của báo chí sử dụng khác hẳn xe Jeep thường dùng của quân đội VNCH.
Nó lùn tịt.
Thành thử khi bị xử, đám báo chí cố bò ra khỏi xe, nằm chết trong xe, trên mặt đường, có anh nằm vắt ngang, nửa trong xe, nửa trên mặt lộ.
Tuyệt vời!

1969 (1)

Những đêm trực ở Đài, hoặc ngủ ngay sau khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu thuyết, nghe lơ đãng một điệu nhạc, một giọng hát, chập chờn theo khói thuốc rồi ngủ lúc nào không hay. Có khi ngủ luôn tới sáng. Đó là những đêm thành phố may mắn không bị pháo kích, tình hình chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu như đêm nào cũng bị dựng dậy. Khi thì nhân viên viễn ký hai hãng AP, UPI yêu cầu chỉnh lại tín hiệu. Hoặc đồng nghiệp trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ thay đổi tần số liên lạc. Có khi một đồng nghiệp Phi Luật Tân ở mãi Manila réo chuông máy viễn ký liên hồi, chỉ để hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ con gia đình, hay nhờ dịch giùm một message bằng tiếng Pháp của hãng SITA than phiền nhân viên RCA Manila làm ăn cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận để điện thoại ngay kế bên, và chỉ giật mình thức giấc khi nghe tiếng đập cửa ầm ầm: Anh chàng Mẽo trưởng phòng tin tức AP và nhân viên viễn ký, cũng đồng nghiệp Bưu Điện làm ngoài giờ cho hãng thông tấn ngoại quốc, một đỏ gay tức giận, một lắc đầu ái ngại, hình như vào lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống Johnson tại đảo Midway. Hôm sau bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may còn là thầy dậy cũ khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, gọi lên văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là trong Mậu Thân đợt hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng mọi giá phải chuyển ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục ký giả, phóng viên ngoại quốc, ngồi xe díp lùn có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không may bị Việt Cộng tóm được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là thảm sát. Người gục chết trên vô lăng, kẻ vắt nửa khúc đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt lộ. Sau này, khi cuộc chiến nghiêng về phía Miền Bắc, dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ cảnh tướng Loan xử bắn tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass, trưởng phòng hình ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền với Trưởng Đài Vô Tuyến Điện Thoại, anh viết văn thư tố cáo gã chuyên viên trẻ, Jeune Technicien, nhân viên Bưu Điện làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm. Sau cùng mọi chuyện cũng ổn thỏa, vì ngay những ngày đầu biến cố Mậu Thân, khi hai bên đang tranh giành từng viên gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày Biệt Động Thành, ai chết trước tại Đài Phát Thanh Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh Mỹ đang vật lộn tay đôi với Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cách đó cũng không xa, gã chuyên viên trẻ do nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên đã một mình "tử thủ", sau thêm tay phóng viên AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở vòng kẽm gai cho vào bên trong phòng tuyến. Gã chuyên viên trẻ đã chuyển hình cho AP, giùm ông bạn già trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh Quân Đội cho đi nằm ấp một thời gian dài, khi được thả bị Bưu Điện cho về hưu non, do có kẻ tố cáo ông là Việt Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông bị một đồng nghiệp mưu hại chỉ vì nhất định không vào đảng Cần Lao hay tham gia phong trào Cách Mạng Quốc Gia. Những ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông từ chối.

Cái tay nhà văn ưa nói tục, không nói tục thì nhạt miệng này, cũng thuộc loại được quá nhiều ân huệ của nhà nước VC.
Bởi là vì 37 năm qua rồi, đất nước ngày một băng hoại, cái gọi là “xác thực”, phải có… vấn đề.
Có 1 cái gì đó khiến từ “xác thực” này trở thành khốn kiếp.
Đó là con số 3 triệu người chết, ở cả hai bên, con số xác thực đó, và thực tại xác thực một nước Mít như hiện nay, chửi bố từ “xác thực”.

Trường hợp ở đây làm GCC nhớ tới trường hợp Anne Frank và bài viết của Cynthia Ozick, “Ai sở hữu Anne Frank” :

Yet any projection of Anne Frank as a contemporary figure is an unholy speculation: it tampers with history, with reality, with deadly truth.
Cynthia Ozick:
Who Owns Anne Frank? [Ai sở hữu Anne Frank?]
[Phỏng dịch: Mọi phóng chiếu Anne Frank, như một hình tượng đương thời đều là trò đầu cơ khốn nạn của đám tà ma ác quỉ. Bởi làm thế là đụng chạm tới lịch sử, tới thực tại, tới chân lý chết người].

Bạn chỉ thay đổi đi 1 chút là ra cái ý mà GCC định nói: Lũ VC khốn nạn đã đụng chạm tới lịch sử, tới thực tại, tới chân lý chết người.
Giả như sau 30 Tháng Tư 1975, chúng ta có 1 nước Mít, nhà Mít to lớn hơn, cái nhân phẩm của Mít đẹp đẽ hơn, thì OK. Nếu không, thì phải coi lại, có cái gì không đúng.

Cái hình tượng đương thời của một nước Mít chửi bố mọi huênh hoang bốc phét về cuộc chiến.

Anne Frank

Thông Điệp của Anne Frank

Anne Frank, một ghi nhận

Anne Frank bị bắt và đưa vào trại tập trung cùng với chị và mẹ như hàng triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt, qua một chương trình đã được tính toán để bảo đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ ma nhất của con người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt, xóa sạch khỏi cuộc đời, không để lại mộ chí, không một ký hiệu, không một dấu vết, bất kể loại gì. Lỗi của cô - tội ác của cô, là người Do thái, và như vậy cô bị xếp vào trong những kẻ không có quyền được hiện hữu, không còn là một vấn đề người, không được như một giống dân hạ cấp, ngay cả làm nô lệ cũng không luôn. Thoát bị đưa vô phòng hơi ngạt, cô chết vì bệnh ban đỏ (bệnh chấy rận), một tháng trước khi giải phóng.

Nhật ký, cho dù thế nào cũng không thể coi là câu chuyện của Anne Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần cuối bị mất. Và bởi vì phần cuối bị mất cho nên câu chuyện của Anne Frank trong vòng 50 năm, kể từ khi "Nhật Ký của một Cô Gái Trẻ" lần đầu tiên được in ra, đã bị vặn vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật, gia giảm, giả mạo, trẻ con hóa, ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng nhất hóa, cảm tính hoá... và sự thực, đã bị chối bỏ, một cách thật thô lỗ. Trong số những người làm giả gồm có những nhà bi kịch, những ông giám đốc, những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và ngay cả, công chúng, kể luôn cả những độc giả, những khán giả phim ảnh, kịch nghệ, trên toàn cõi địa cầu. Một tác- phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đã biến thành một dụng cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực. Gần như mọi bàn tay đụng vào tập nhật ký, với một thiện ý in nó ra, đều đã góp phần làm chuyện bậy, đảo ngược lịch sử.

Nhật ký được coi như một tài liệu về Lò Thiêu. Điều quan trọng cần nói, là nó không phải như vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những vòng hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của con người". Có một sự chế diễu, trò hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật ký chưa hoàn tất, hoặc đã được hoàn tất bởi những nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Hòa Lan, nơi những người Do thái Hòa-lan bị tống xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi những ngọn gió tàn khốc của Bergen-Belsen. Chính tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật", những tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đã xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột con số, những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất trong những dòng chữ viết tay của những thủ thư đẹp trai; những cuốn sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank đã được chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào phòng hơi, có một người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào phòng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong vòng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đã có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về phòng ngạt, và phá huỷ lò thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách.

Đến với nhật ký mà bỏ qua những Đêm, của Elie Wiesel, hay Những Kẻ Chết Đuối và Những Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ nhắc tới hai chứng nhân), hay những cột con số, những chuyến hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... thì đúng là tự cho phép mình được quyền ngây thơ một cách xấu xa, không thể tin được! Những ngợi ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị huỷ diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm và hứng khởi"... sự thực chỉ là những trò ru ngủ. Sự thành công, chiến thắng, của Bergen-Belsen, chính là nó đã thổi sạch, cái gọi là khả tính can đảm, nó cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di chúc lâu dài của nó.

"Hier ist kein Warum", một lính gác ở Auschwitz đã cảnh cáo: ở đây không có "tại sao", không câu hỏi, không câu trả lời, chỉ là một mầu u tối của không-lý lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne Frank, được kể lại, rất thực, là không cứu chuộc, không thể cứu chuộc. Và đó là thông điệp của Anne Frank.

Thông Điệp của Anne Frank

Nhật ký, cho dù thế nào cũng không thể coi là câu chuyện của Anne Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần cuối bị mất.

Cũng thế, là cuộc chiến Mít.
Phần cuối bị mất.
Đếch có tiếng nói của một nửa đất nước, của 1 triệu người buồn!

The Anger of Exile

By Colm Tóibín

The Hakawati
by Rabih Alameddine
Anchor, 513 pp., $16.00 (paper)
Cockroach
by Rawi Hage
Norton, 305 pp., $23.95

"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann

Gấu ở đâu Mít ở đó!

And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.

But the hills are still the same
Grey-blue above
Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.

Derek Mahon

Giận dữ lưu vong

Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích

Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!

Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì


Among the Exiles

One met former cabinet ministers,
University professors, defrocked priests and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting into foreign newspapers
And telling anyone who happened to ask
Not to bother their heads about the truth 

On the use of murder to improve the world
They had many vivid memories
As they huddled in their dim kitchens,
Clipping supermarket coupons,
Shifting the loose dentures in their mouths
While waiting for the teakettle to boil. 

They ate in restaurants with waiters older than themselves,
Musicians whose fingers bled
As they picked at their instruments
Making some tipsy widow burst into sobs
On hearing a tune her husband the general loved,
The one who sent thousands to their deaths. 

Giữa đám Lưu Vong

Người ta gặp những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại học, tu sĩ mất áo tu, sĩ quan mất quân phục,
Cho bồ câu ăn ở băng ghế công viên,
Liếc tờ báo chợ
Và biểu người nào tính hỏi,
Này, đừng có bực mình, lúc lắc cái đầu, khi biết sự thực

Về cái việc sử dụng sát nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều kỷ niệm sống động
Khi quay mòng mòng trong căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy cái phiếu siêu thị
Xốc xốc bộ răng giả trong miệng
Trong khi chờ ấm nước pha trà sôi

Họ ăn trong những tiệm bồi bàn già hơn họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón tay rướm máu (1)
Làm một bà góa ngà ngà say, khóc nức nở
Khi chơi một điệu nhạc mà ông chồng đại tướng ngày nào của bà thích nghe
Ông tướng này đã từng ra lệnh làm thịt hàng ngàn người 

Charles Simic: Master of Disguises 

(1)
Charles Simic chắc là có đọc Kiều rồi, nên thuổng, như đám mũi lõ thuổng nhạc Trịnh, “nghi án” đang gây chấn động trong giới giang hồ Mít ở trong nước: "bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay" !!!
Ui chao, Gấu lại nhớ đến cảnh nàng Kiều họ Trịnh hầu đàn Sáu Dân, Hồ Tôn Hiến, những ngày sau 30 Tháng Tư 1975

PAINTINGS

FOR ZBYLUT GRZYWACZ

Countless paintings hung on the walls
of the apartment on Krakow Street. (Why
Krakow Street in Krakow? The city
didn't know how to get home?)

None of it matters now-
the names of streets, your patriotic passion
for Kazimierz, your loyal photos
of old houses, dilapidated gates.

Even that apartment is gone now.
On canvases: human faces, women's bodies,
gray and pink, the world's yellow stains.
Drawings and sketches of acts, studies of aging,

natures mortes, some dust-covered
and doubly dead, others fresh
as fruit at market stands, gleaming
in June's remembered light.

In summer light strikes objects
directly, while in winter it hides
lazily in wardrobes, sleeps on the stove,
like minerals on museum shelves.

A champion talker, a fan of Caravaggio
you vanished after a few months of illness
of suffering and strength in dying.
Paintings and friendship remain,

canvases, which don't understand
their loneliness, their dusk,
and friendship, which of course
lives on-but as a widow now.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Họa phẩm

Hằng hà trên tường trong căn phòng
Ở Phố Sài Gòn
[Tại sao Phố Sài Gòn trong Sài Gòn?
Thành phố quên mẹ nó tên, hay quên mẹ đường về nhà?]

Mà bây giờ để ý làm chó gì -
Những tên đường, lòng đam mê ái quốc của bạn dành cho
Kazimierz,
Những bức hình trung thành của bạn về những căn nhà cổ,
Những cái cổng xiêu vẹo.

Ngay cả căn phòng thì bây giờ cũng đâu còn
Trên những tấm vải bố: những mặt người, những cơ thể đàn bà,
Xám và hồng, những vết màu vàng của thế giới.
Những vạch, những phác của những hành động,
Những nghiên cứu về già lão,

Tĩnh vật, một số bụi phủ
Và chết hai lần, những bức khác tươi mát,
Như trái cây ở chợ, long lanh trong ánh sáng tưởng nhớ của Tháng Sáu.
Mùa hạ ánh sáng đập thẳng thừng lên những đồ vật,
Trong khi mùa đông, nó ẩn náu một cách lười biếng ở trong tủ áo,
Ngủ ở trong lò,
Như khoáng vật trên những giá ở viện bảo tàng 

Vua đấu láo, đệ tử của Caravaggio
Bạn biến mất sau vài tháng bịnh
Chiến đấu kiên cường trong khi chờ đi xa
Tranh và bạn bè thì còn ở lại

Những tấm vải bố, chúng không hiểu nỗi cô đơn của chúng,
Buổi chạng vạng của chúng
Và tình bạn, lẽ tất nhiên
Tiếp tục sống – nhưng như là một góa phụ.


30.4.2012

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...".

William Childs Westmoreland (Xin coi Blog Tin Văn)


NQL: “Những bức ảnh dưới đây cho chúng ta nhìn lại Chiến tranh Việt nam từ lúc Mỹ leo thang can thiệp đầu những năm 1960 đến lúc chính quyền Sài Gòn cũ sụp đổ”. Denverpost chỉ giới thiệu một câu vậy thôi nhưng xem phóng sự ảnh dưới đây ta thấy cả cuộc chiến tranh Việt Nam đã được dựng lại rất sinh động và xác thực, thật tuyệt vời! Cảm ơn KTS Võ Thanh Lân đã gửi cho đường link và Bs Nguyễn Hải Phong đã dịch phóng sự ảnh này. (Đọc tiếp…)

Những bức hình dưới đây, thì cả thế giới đều biết từ khuya rồi, tính sinh động, xác thực thì cũng thế, nhưng cái xác thực, trước và sau những tấm hình, thì lại đếch có.

Xác thực thứ nhất, chính VC nhử Mẽo vô Nam Việt Nam, để có cớ xâm lăng, bằng cú ngụy tạo đầu độc tù Phú Lợi.
Xác thực thứ nhì, 3 triệu người xác thực chết, để tạo ra xác thực là 1 nước VC bây giờ, muốn bắt ai thì bắt.

Khoe khoang thành quả 30 Tháng Tư hoài, sao không khoe nhục nhã?
Có 1 cái blog mà phải khóa lại, sao không khoe?

Kít!

*

Người cha ôm xác con hỏi lính VNCH: Tại sao?

Từ "xác thực", đã nhảm, nhưng từ "tuyệt vời" đại khốn nạn.
Bạn nhìn cái hình người cha ôm xác đứa bé hỏi đám Ngụy, "Tại sao?", có cảm thấy “Tuyệt vời” không?
Nhìn nỗi đau của người khác mà cảm thấy tuyệt vời!

Kít thật!

NQT


*

Dirck Halstead, tác giả bức hình là sếp UPI của GCC
Blog TV

Ngày 28 hay 29 tháng 4 bố không còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người sếp cũ, lúc này làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản. Lúc đó cơ quan DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có thể đi bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được thôi. Bố không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người dân Sài-gòn.


NNT chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom! của Faulkner
Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges
Tuyệt!

Khen 1 tác phẩm của Faulkner, bằng 1 tác phẩm khác, cũng của Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư Thiếu Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà sư nổi danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh Đỉnh, để cứu cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!
Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công của chính Ngài!
Ẩn tàng trong giai thoại trên, là bí mật của sáng tạo: Mi muốn viết văn là phải kiếm ra vị Thầy của mi, và mi sẽ dùng chính môn võ công của Thầy mi dậy mi đó, để làm thịt Thầy!

Tôi cầu mong đám trẻ chôn tôi! Trần Dần phán.
*

Kiều, làm sao có, nếu không có Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng khi viết xong Kiều, thì Nguyễn Du cũng làm thịt xong anh Tẫu sư phụ của ông!
Thập thành con đĩ mắc mưu quan.
Chu Mạnh Trinh hình như đã từng chửi Kiều như vậy?

Khi còn học trung học với Thầy Vũ Hoàng Chương, thi sĩ đã giải thích cho thằng học trò sau này thành nhà văn nhớn Gấu Nhà Văn, Kiều mắc bẫy HTH là do cái policy của Trung Ương Đảng, của Bắc Bộ Phủ.
Mấy ông vua Tầu, khi gặp đám giặc cỏ ở ngoài biên cương như Từ Hải, dẹp không được, thì bèn chiêu hàng và thí cho một chức quan nào đó. Kiều bị lừa là vậy. Em cũng muốn bỏ chốn giang hồ, về đời, làm phu nhân một ông quan phủ họ Từ.

Cả Miền Nam bị lừa, cũng y chang!
Nước Mít phải là một! Miền Nam phải là một phần của nước Mít.
Miền Nam bị Hồ Tôn Hiến Sáu Dân và đám MTGP lừa, vì cái chân lý đó. (2)


Warning: e-mail TV [yahoo.com] bị virus, [nhiều người bị], tự động gửi/nhận e-mail loạn cào cào. Bạn đọc/bạn bè xin lưu ý.

Thống Kê

25 Apr 2012 424
26 Apr 2012 540

Không biết có phải vì ngày 30 Tháng Tư sắp tới, số khách viếng TV, bữa nay, giờ này, 6:18 PM, local time, là 540 visitors.
Như thế, tới nửa đêm về sáng, hẳn là còn bảnh hơn nữa.
Một con số kỷ lục!
Tks.  TV/NQT

Tổng cộng: 627 visitors/26.4.2012.
Tks again. NQT



*

"Tay này không học bơi, theo chiều, hay nguợc chiều dòng nước"
Hannah Arendt

Trong bài viết về ông, trên tờ Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín, 2009, có một chi tiết sai: ông mất ở Port-Bou, thuộc Tây Ban Nha, không phải Pháp.

Những Kỳ Tích về Walter Benjamin

Từ một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.

"To great writers, finished works weigh lighter than those fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)

Ui chao, câu trên mà đề tặng Gấu Nhà Văn thì thật là tuyệt:
Bài viết nào cũng nhếch nhác, chẳng bài nào hoàn tất, chẳng biết khúc nào Gấu viết, khúc nào Gấu chôm chĩa!
Vẫn thua giấc đại mộng của Benjamin: Viết một đại tác phẩm, toàn trích đoạn, chôm của kẻ khác!

*

My hero: Walter Benjamin

by Elif Shafak

'One doesn't read him to feel better – one reads him to feel'

Walter Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính cái gọi là vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái" (17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka. "Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những tư tưởng hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời: Thượng Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,' Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng Đế, một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những nhân vật thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng tròn gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là loài vật; ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb hay Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm của người cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên ngoài vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this circle).

Một chuyến đi

Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật Tâm, trong Bếp Lửa, khi đã bỏ chạy thoát cái nước Mít khốn nạn, viết về cho Thanh, cô bạn gái, người em họ, cô ca sĩ:

Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.

Thanh,

Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.

Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.

Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956

Bếp Lửa
 
Tôi là sinh viên cao đẳng khi bắt đầu đọc WB. Nhà phê bình văn học, triết gia, tiểu luận gia, ông là 1 người của những con chữ. Là một người Đức Do Thái, sinh vào thời nhiễu nhương, vào cuối thế kỷ 19, và ở một nơi chốn nguy hiểm nhất, Berlin.
Khi còn sống, ông được chỉ một dúm người biết tới, và sau khi chết, danh tiếng của ông thì bắn đi như 1 trái hoả tiễn. Tôi còn nhớ, mình kiên nhẫn đợi khủng như thế nào, bản tiếng Thổ “Dự Án Vòm” của ông.
Cuốn sách du lịch mọi nơi cùng với chủ của nó, là tôi, tất nhiên, trang nhàu nát, góc xoắn tít, thời gian nhấm nháp, tàn thuốc ăn lủng, mặt đầy tàn nhang, là những giọt cà phê, và một lần, trong 1 buổi hòa nhạc rốc, chủ của nó bỏ mặc nó dưới mưa.
Trong tất cả những cuốn sách mà tôi đọc trong năm dó, giả tưởng hay không giả tưởng, không có cuốn nào được yêu thương bằng 1 cách thương đau, một cách rã rời, tả tơi như Dự Án Vòm!
Benjamin là một nhà luyện kim kiểu này hoặc kiểu nọ, một nhà trí thức Mác Xít quái đản nhất, con cừu đen ở mọi bày đàn. Ông quậy văn chương vô triết học, những câu hỏi được tôn giáo nêu ra với những câu trả lời từ thế tục, đối lập tả phái với chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa lý tưởng Đức với duy vật lịch sử, chán chường, tuyệt vọng với sáng tạo… Ông là một chuyên gia về Goethe, Proust, Kafka, va Baudelaire, nhưng cũng còn viết rộng rãi về những điều nhỏ bé, bình thường ở đời. Ông không phải thứ triết gia tháp ngà. Một khi bạn tiếp tục đọc ông thì hầu như bạn đang theo dõi ông lang thang trên đường phố, lắng nghe những con người, loay hoay ghi chép, làm những phác họa, hoài hoài thâu gom, nhặt nhạnh.
Người ta không đọc ông để cảm thấy khá hơn. Người ta đọc ông để “cảm thấy”. Trong vũ trụ của ông không điều gì xuất hiện như là nó xuất hiện, có đó, và có một sự cần thiết sống còn, cực kỳ quan trọng, là, vượt quá những bề mặt và móc nối với nhân loại. Sống là bước trên đống đổ nát, lắng nghe bất cứ dấu hiệu của đời sống từ bên dưới điêu tàn vọng ra. Buồn bã tạo nên phần nội của hiện hữu của ông. Một buổi chiều, một tên bạn trai tôn thờ hư vô chủ nghĩa, nhậu say, nhìn bức hình Benjamin trên tường la lớn: “Cười đi, me-xừ Mr. Walter!” Đâu cần ông vác thế giới trên đôi vai của ông. Ông chết rồi mà, hãy relax!” Anh ta sau đó ném ly rượu vang vào ông. Tôi nghi là anh ta tính quăng vào mặt tôi. Tôi lau dọn sạch sẽ bằng xà bông giặt đồ, một vệt dơ rượu vang nằm ỳ trên mắt kiếng, khiến như ông nhìn mọi vật qua cặp kiếng màu đỏ.

Elif Shafak 

Walter Benjamin là ‘hero’của Gấu Già, so với những Lukacs, Henri Lefebvre, Roland Barthes… của một Gấu Trẻ, thời mới lớn ở Sài Gòn.
Đám đệ tử của Thầy Cuốc thì cứ đổ diệt, thầy của mi là TTT, là Camus…, và về già, do mi muốn hồi đầu VC, thì là “hitman” HPNT, thí dụ.
Hay thằng nhóc VC, CVD!
Chả là Gấu đã từng viết bài Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân, trong có khen văn tài của đao phủ thủ HPNT.
Chúng cứ thấy khen VC là chịu không nổi!

Hà, hà!

Cái từ “vòm” này, chỉ dân “ken” mới hiểu được.
GCC đọc bài viết của cái em Thổ xưng tụng hero của mình, bèn nhớ ra,WB còn là bạn của GCC, bạn hút, và cùng lúc, nhớ ra cuốn sách trên của ông, viết về thú đi mây về gió.
Trong văn chương, nó đã từng được Nguyên Hồng sử dụng, trong Bỉ Vỏ, “cái gì gì”, "anh đây công tử không vòm", câu hát một tay anh chị ngân nga khi bị bắt vô tù.... Nhờ câu hát, bà vợ hoàn lương, lấy anh cai tù, bèn bỏ chồng mới, cứu chồng cũ, và cùng nhau trở lại cõi giang hồ.

GCC đã từng đòi phen toan tính sử dụng “kỹ thuật viết “của Walter Benjamin, hay đúng hơn, tham vọng, hay, giấc đại mộng của ông, làm sao viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn trích dẫn.

Lần bạn quí nhờ đỡ cho 1 tay, do đang đau ốm gì đó, đi 1 đường trên mục anh phụ trách, trên Blog VOA.

Bèn, 1 công đôi ba việc:

Viết về nhạc vàng, nhạc lính, nhạc sến, làm sao làm bật ra chân lý: cái hồn của văn học Miền Nam nằm trong những câu hát của nhạc sến.

Và bị độc giả & bạn quí [LTL, anh của KT] & đệ tử Thầy Cuốc chửi tơi bời hoa lá [thí dụ, thường, đọc nhiều, hiểu nhiều, phải tiêu hóa của hay vật lạ thành cái của riêng mình. Chứ bạ đâu cũng mượn tên ông Nga này, bà Tây nọ nhét vào bài viết, tựa như gái quê khoe của..]

Bài viết ngắn của Gấu về “nhịp thời gian”, khi nhắc tới câu của Brodsky vinh danh Mandelstam, khi nhắc tới Kinh Cầu của Akhmatova, là để đặt chúng vào hai đỉnh của một tam giác, đỉnh thứ ba là bài Rừng Lá Thấp.

Chẳng có vấn đề tiêu hóa, ăn thức ăn mũi lõ rồi ị ra cứt Mít ở đây.

Cấu trúc bài viết, mô phỏng Walter Benjamin, khi ông mơ, viết được một tác phẩm, gồm toàn trích dẫn, và nếu có gì của ông ở trong đó, thì chúng giống như dàn giáo.
Nhà dựng xong, là tháo gỡ bỏ.
Nói rõ hơn, chẳng có cái chó gì của Gấu ở trong đó!
Nếu có thì đều là những 'câu bất thành cú', toàn là đồ vứt đi, sau khi dựng xong căn nhà!
*

Ở Việt Nam, có một điều rất chi thú vị: tôi nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi, rất dị ứng, rất nổi da gà da vịt trước những gì không hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ phải thật là uốn éo dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn tên là chứng bạo dâm bệnh lý: một người đọc "trí thức" ở Việt Nam luôn luôn có xu hướng đè bẹp tác giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải thấp thấp một tí, ẻo ẻo một tí, để mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ cho những người như Lê Hoàng hay Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này không giúp gì cho việc tiếp cận, đọc thực sự những người như Coetzee. Hic, giải thích khó nhỉ, các bác cứ thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách nào đó của Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi muốn nói gì.
Blog NL

Cuốn Thương Xá [tức Dự Án Vòm] của Walter Benjamin, khổng lồ, gồm toàn trích dẫn.
Độc giả Mít, đọc, chắc là phát điên lên được.
Tây mũi lõ cũng phát điên chứ đừng nói Mít.

Đọc bài biết của Coetzee về cuốn này, khi đăng trên NYRB, "Điểm sách New York", số đề ngày 11.1.2001, là Gấu bèn dịch liền tù tì, vốn liếng tiếng Anh ăn đong, phải viện tới NTV.
Gấu đã kể kỷ niệm tuyệt vời này rồi, hai thằng ngồi quán cá phê Tầu, Coffee Time, ở Phố Tầu Đông, cãi nhau ỏm tỏi, chủ quán bèn đuổi cổ ra công viên gần đó…
Bài này sau in trong Inner Workings, cuốn sách bạn NL đang giới thiệu