|
SN_GCC_2017
Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau mấy năm rồi, cũng
vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa
chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè được,
hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là
nhiều . Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây
là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ
có tình là vĩ đại thôi .
*
Chỉ có tình
là vĩ đại thôi. Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại.
Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN tôi có đọc một
cuốn sách dịch chuyện tình Tầu. Chuyện nào cũng hay.
Có một chuyện, về một anh học trò nhà quê,
lên thành đô học, mê một em trong xóm,
chuộc em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một
anh lái buôn. Anh này thấy cô vợ đẹp quá
bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp, phải
bán vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác,
bèn mở mấy cái rương bạn bè trong xóm tặng ra,
hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ
thả xuống sông, rồi thả mình theo.
Có một lời bàn,
đẹp thế, sao ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà
theo!
Chuyện hơi giống chuyện
nàng Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục.
Nhưng chuyện TK có hậu hơn, anh chồng hối hận, lo nuôi
con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng,
tất nhiên, khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện
tình Mít kể, đương thời, thì có NNT. Truyện
số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc sản Miền Nam”, là
Một Mối Tình.
Truyện ngắn mới nhất,
Có con thuyền đã buông bờ
Lâu rồi mới viết chuyện tình mà
chẳng hay ư? Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng
trong chuyện tình. Cái cô Bê phải có
một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà
đi, và mối tình trắc trở này chắc là mắc mớ
tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản"
của NNT, như trong Một Mối Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận].
nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh
học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết như thế, thì Gấu này phải
chịu là Thầy!
Đặc sản Miền Bắc thì có em Phương, trong Nỗi Buồn
Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi tẹt, mày ngu quá,
đâu còn đêm nào như đêm nay…. Hay em trong
Trăng Goá, do sặc sụa mùi nước đái tại Ga Hàng
Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam chiến đấu mà nhận
lời cầu hôn Thủ Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu,
Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
Truoc khi di cho+i thi
cho hoi mot cau: "Vi sao giay phut uong ruou dau tien trong cuoc doi
cua cac van si - nhat la van si VN - la giay phut quyet dinh cho cuoc
doi ruou cua ho sau nay. Yeu to nao lam ho di vao con duong ruou: ban be,
co^ do+n, thie^u hu+ng...?"
Being
drunk is what separates us from the beasts
Uống rượu là
để phân biệt người khác thú.
Jeremy Clarkson
Sực nhớ
chữ cổ nhân bỉnh chúc.
Cao Bá Quát
Take care. NQT
Trong bài viết tưởng niệm Koestler,
La Morte d'Arthur, Steiner coi "drink", là 1 password khác,
trong những "intimates" của ông, trong khi từ "friend", bị gạt
bỏ.
Chess, cờ, OK.
Nhớ, lần đầu tiên tới khách
sạn Cửu Long, thăm Thanh Nam, khi còn độc thân. Đi với ông
anh vợ hụt, anh của BHD. Mang theo chai cordon bleu. Thanh Nam hình
như chỉ chạm môi 1 lần. Còn lại, là hai tên
làm sạch. Bữa sau, cả Sài Gòn biết tài uống
của GCC. Thanh Nam thực sự phục. Ông nói với TTT, rồi nói
với Phạm Đình Chương. Ông này nói với Nguyễn
Hoạt, ông anh rể của GCC. Ông nói lại với bà
vợ, thằng em của bà bây giờ nổi tiếng "phong nhã" trong chốn giang hồ rồi!
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Koestler_by_Steiner.html
Nhập nước Pháp, như là
một kẻ xa lạ chẳng ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết
Bóng đêm giữa ban ngày, cuốn
sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù viết
trên 30 cuốn sách, với đa số, ông chỉ là tác
giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm vén
màn cho độc giả Tây Phương nhìn thấy thành đồng
chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài
CS. Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát
phía đông Âu châu của Berlin, sau chiến tranh.
“Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,”
ông viết trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên điều
này, chẳng ai tin, và tôi có thể bị tống vô
nhà thương điên”. Ông trở thành cây trụ
cột của Hội nghị vì Tự do Văn hóa được thành lập bởi
bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950, để chống
lại tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết. Tranh cãi
sau đó liên quan tới hội nghị, là, liệu đám trí
thức, khi khởi sự có biết gì về nguồn tiền trợ cấp. Scammell,
tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không. Washington, bằng mọi giá, sẽ không
giúp Koestler. Vào lúc đó, Scammell nhận xét,
như nhìn rõ tim đen của Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng
ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn
nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền trợ cấp của Mẽo, trao
cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông kia,
có biết không?
Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không phải
lúc thoạt đầu, mà sau đó, chắc là do MT xì
ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS
tố nhóm Sáng Tạo nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và
luôn cả ở MT, có thể là do ảnh hưởng của ông
đối với đám viết lách liền sau ông, là HPA,
NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Và, tất nhiên, cũng đi lính như họ.
Mai Thảo không đọc sách,
nếu có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là
sự thực. Ông rành tiếng Tây, nhưng để đọc được đám
hiện sinh, thí dụ, không phải cứ giỏi tiếng Tây. Gấu
đã từng có kinh nghiệm này rồi, với ông anh
Hiếu Chân. Một bữa, ông phán, mày đưa tao thử
đọc cuốn La Nausée coi. Đọc chưa hết mấy
trang đầu, ông đã vứt trả lại, phán, tao không
hiểu được, tại sao tụi mày lại mê cuốn đó. Có
ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có thích
Brahms? Đăng từng kỳ trên tờ Điện Ảnh, khi làm tổng
thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông
đã từng nói ra, khi còn Sài Gòn, và
sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG cho biết,
khi đem bài tạp ghi của Gấu viết về ông vô cho ông
đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người gật gù, "bây
giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành
một chương cho Hội nghị Tự Do Văn Hóa, và tiền tài
trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện tiền bạc, chúng
ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô
thư ký Cynthia Jefferies. Khi họ quyết định cùng chết,
K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55, hoàn toàn khỏe mạnh.
Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness I enjoyed
in the last period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và hạnh
phúc tôi được hưởng vào khúc chót
của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K" phán,
trên đời này, chỉ có tình là đáng
kể, và tình thật đẹp là tình thật sến, theo
Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở nơi
cổng trường Đại học Khoa học Sài Gòn mà chẳng sến
ơi là sến sao?
Cái chai cordon bleu cũng có nguyên
uỷ của nó.
Của 1 anh Mẽo già, cực mê Dì Tám, của
Cô Mai, trong Những Ngày Ở Sài Gòn. Dì
Tám, thì là bồ nhí của ông trưởng đài
VTD, số 5 PDP Saigon. Khi ông bị mìn VC, cùng với
Gấu tại Mỹ Cảnh, cô khóc quá, mọi người mới biết. Anh
Mẽo già, mê cô quá, vô PX Mẽo mua đủ thứ
quà cho cô, nào thuốc lá, nào rượu, cô
nhận, cho Gấu hết. Gấu mê cô lắm, nhất là tiếng cười
của cô, trong vắt, không gợn một chút bụi. Thời gian
cô hết còn làm trên Đài, và được
đưa về Trung Tâm Bưu Điện ở công trường Kennedy, Gấu thường đợi
cô tan sở rồi đi thương xá TAX, thường là để mua quà
cho BHD.
Đầm đìa kỷ niệm, là vậy.
http://www.tanvien.net/New_Poems_Folder/NTST_Poems.html
Câu thơ "Có cô thiếu nữ qua Givral" thì
lại làm nhớ, lần đưa "cô bạn" và mấy đứa em của
cô vô đây.....
TAX, thì cũng đầm đìa kỷ niệm....
Phải mất 1 đêm trắng, thì Gấu mới nhớ ra được tên
của Dì Tám của Gấu. Cô Phụng. Cuộc tình này
cũng rất ư là thê lương, chấn động suốt 1 cõi Bưu Điện,
hà hà!
Cái vụ cô, và tất cả nữ điện thoại viên trên
Đài bị đưa xuống Trung Tâm BD ở quảng trường Kennedy, là
do tay kỹ sư Phương đề nghị với Tổng Giám Đốc Bưu Điện, là
Nguyễn Văn Điều, cũng 1 ông thầy dậy Gấu ở trường Quốc Gia Bưu Điện.
Tay Phương này, kỹ sư học ở Tây về, chẳng biết 1 tí
gì về kỹ thuật, mỗi lần lên Đài, là 1 lần ông
truởng đài TBT, sếp trực tiếp của GCC tìm cách lánh
mặt. Nhân cái vụ cô Phụng khóc, bèn xúc
hết xuống Bưu Điện chính.
Gấu, nhớ cô quá, vừa mới tháo “platre” do vụ ăn mìn
VC, nghe cô than, cái headfone của cô ở dưới đó
quá tệ, thế là Gấu bèn đem cái cô vẫn
dùng xuống.
Cũng đâu có dễ vô phòng làm việc của
cả 1 binh đoàn nữ điện thoại viên. Và viên trưởng
phòng xuất hiện, đích thân đưa Gấu vô, thì
Gấu bèn ngồi kế bên cô, suốt 1 buổi, chỉ để ngắm cô,
đếch thèm nhìn 1 ai!
Chúng bèn báo cáo với bà vợ của ông
Thạch.
“Cas” tối bữa đó, ông Thạch gọi, này, mày
nói chuyện với vợ tao, cho bà biết, tao đâu có
kêu mày xuống gặp cô Phụng...
Ui chao, lần gặp lại vợ chồng ông trưởng đài ở Quận Cam,
bả còn nhắc, về Sài Gòn, có gặp cô Phụng
cả hai anh em cùng mê không...
Không gặp.
Tránh không gặp, đúng hơn, dù có dịp.
Hưỡn hưỡn, kể tiếp.
Koestler by Steiner
Steiner, trong ai điếu “La Morte d’Arthur”,
viết:
Đêm giữa Ngọ
của Koestler là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển của thế
kỷ. Nó giáo dục những thế hệ về những ghê rợn của
chúng, it educated generations to theirs terrors. Di chúc
Tây Ban Nha, The Sapnish Testament (còn biết dưới cái
tít Chuyện trò với Thần Chết, Dialogue
with Death) thì cũng xấp xỉ cái thế giá đó.
Những kẻ mộng du, The Sleepwalkers - đặc biệt là
những chương về Kepler – là một trong những bữa tiệc hiếm của nhân
gian, về sự tái-sáng tạo tưởng tượng thuyết phục của khoa
học lớn, convincing imaginative re-creation of great science, về lô
gíc thơ của khám phá, poetic logic of discovery.
Tôi không chia sẻ những xác tín của ông
trong Trầm tư về tội treo cổ, Reflections of Hanging, nhưng nó
sẽ còn hoài như là một trong những dấu ấn lớn lao của
thời đại chúng ta, và thời điểm mấu chốt liên quan
đến cuộc tranh luận về án tử hình. Có những chương
có tính cổ điển như thế, ngay cả ở trong những tác
phẩm tự thuật như là Arrow in the Blue. Nhưng với Koestler,
có một cảm quan về một cái gì đó vượt lên
tổng số những gì ông viết ra. Có những con người, đàn
ông hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào
những xã hội, họ đưa mình ra, “đành làm”
chứng nhân thiết yếu, cần thiết, không có không
được, và chính là nhờ vào hiện hữu cá
nhân, cảm quan riêng tư của một con người như thế mà
những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được tập trung,
được xoáy chiếu, và trở nên sáng sủa, visible.
Trong thế kỷ đen tối…
Note: Đọc được câu này,
thật thú vị, trong bài viết B.B. của Steiner, về
Bertolt Brecht. [B.B]
Trả lời Walter Benjamin, sau khi
chạy thoát Nazi, và đi một đường thăm viếng Moscow, "Này
kiếm được mảnh vườn dưỡng đời ở đó chưa?", B.B. phán:
“Tớ là một tên CS, nhưng
đâu phải là một thằng ngu!"
[B.B. is said to have replied when
Walter Benjamin - himself soon to die a hounded fugitive - asked whether
the great playwright would seek haven in Moscow, "I am a Communist, not
an idiot"]
LA MORTE D' ARTHUR
ARTHUR KOESTLER'S DARKNESS AT
NOON is one of the classics of the century. It educated generations to
their terrors. The Spanish Testament
(also known as Dialogue with Death)
comes close to being of this same stature. The Sleepwalkers -particularly the chapters
on Kepler- is one of the rare feats of convincing imaginative re-creation
of great science, of the poetic logic of discovery. I do not share the
certitudes of Koestler's Reflections on
Hanging, but
it endures as one of the great polemic tracts of our time and a pivotal
moment in the debate on capital punishment. There are classic chapters
in such autobiographical works as Arrow in the Blue. But there is a sense
in which Arthur Koestler is more than the sum of his writings. There are
in epochs and societies men and women who bear essential witness, in whose
private sensibility and individual existence the larger meanings of the
age are concentrated and made visible. In this black century, the Central
European Jew has, more perhaps than any other tribe, borne the enormity
of enforced vision and experience. Koestler, who was born in Budapest in
1905, stood on the exact terrain where the nerve ends of twentieth-century
history, politics, language, and science touch. Their bitter and bracing
currents passed through him. Catalogue the major presences in modernity-the
politics of Marxism and of Fascist terror; psychoanalysis and the investigations
of the anatomies of the mind; the forward surge of the biological sciences;
the conflicts of ideology and the arts-and you will come upon not only Koestler's
many books but the man himself. He knew exile and prison, divorce and
the bullying solace of alcohol, the ambiguous struggle for privacy in
the world of the media. Koestler's cards of identity, genuine and forged,
the stamps and visas in his passports, his address books and desk diaries
make up the map and itinerary of the hunted in our century.
This is why Arthur and Cynthia Koestler's
double suicide, on or immediately before March 3, 1983, reverberates
still. This is why it took on so compelling
a force of suggestion. Here again, the particular message was writ large.
Austerely but poignantly recounted in George Mikes' brief memoir, Arthur
Koestler: The Story of a Friendship (Andre Deutsch), the suicide had immediate
motives. A progressive, terminal illness would before too long have reduced
Koestler to servile pain. But, as always in Koestler's existence, the personal
act was prepared for and underwritten by a deliberate and public reflection.
Koestler had voiced strong sympathy with the views of a group seeking to
clarify the legal and moral issues of freely chosen death. Having faced
so much of death in its cruelest and most involuntary forms, having fought
so hard against the cold-blooded infliction of judicial death on convicted
men and women, Koestler attached enormous value to human freedom, to human
dignity in respect of death. A sane man should be allowed the chance to
make of his end an act consonant with the crucial worth of liberty of mind
and conscience. The legal punishment of failed suicide, as it stands on
so many statute books, seemed to Arthur Koestler a barbaric impertinence.
The actual suicide note was written as early
as June, 1982. It includes the following passage:
I
wish my friends to know that I am leaving their company in a peaceful
frame of mind, with some timid hopes for a depersonalized after-life
beyond due confines of space, time and matter and beyond the limits of
our comprehension. This "oceanic feeling" has often sustained me at
difficult moments, and does so now, while I am writing this.
In fact, and as is well known,
Koestler's hopes-or, rather, wishful speculations-were far from "timid."
His "oceanic feeling" (the phrase stems from Freud) focused on the deepening
conviction that there were, "out there," psychic presences, ordering energies
of a transcendent kind-inaccessible as yet in their occult force, but
approachable, or in some ways discernible at the edges of our empirical
notice and awareness. Hence Koestler's urgent, often publicly defiant
interest in parapsychology, in extrasensory perception, in phenomena extending
from spoon-bending to poltergeists. Hence his ardent assembling of "inexplicable"
cases of coincidence. Had not Lincoln's secretary, called Kennedy, implored
the President not to go to the theatre; had not Kennedy’s secretary, called
Lincoln, begged the President not to go to Dallas; had Booth not shot Lincoln
in a theatre and fled to a warehouse; had Oswald not shot Kennedy from a
warehouse and then fled to a theatre? (When Koestler first put this concatenation
to me, a wonderfully teasing, ironic, but also obsessed intensity seemed
to vibrate in him. And as I hesitated, that smoldering, ironically insistent
voice added, "And were they not both succeeded by Presidents named Johnson?")
Koestler left a substantial part of his estate for the underwriting of
a university chair in parasychological studies.
Friends, acquaintances who would not follow
him along this murky road were more or less gently excluded from intimacy.
Koestler knew full well that his belief in telekinesis and the extrasensory
was making him an outlaw in the world of the exact and natural sciences.
He would never be elected a Fellow of the Royal Society. Together with
the Nobel Prize, for which he was indeed nominated, that fellowship was
his supreme wish. Interestingly, these same two honors also eluded H. G.
Wells, who is in some regards Koestler's only true predecessor. Yet both
writers had done far more than the great majority of professional scientists
to make the stringent beauty and political importance of the sciences available
to the literate community.
Another password in Koestler's choice of
his intimates was drink. Mikes is affectionately blunt on this matter.
It soon became clear to both my wife and me that we could not keep up
with the whiskeys before dinner, the wine at dinner, and the numerous
brandies thereafter which paced Koestler's evenings. This meant that an
acquaintance, an exchange of views, a frequent round of mutual visits
extended over the years could not ripen into unguarded closeness. A further
obstacle, not alluded to by Mikes, was chess. Koestler played rapidly and
sharply. But rather than lose to someone patently his inferior in intelligence,
in talent, in knowledge of life, he would break off the game or refuse
to play. This also came to be an undeclared cloud on our reciprocal trust,
on the simple ease of being together. I ran up against exactly the same
inhibition with Jacob Bronowski, that other master from Central Europe,
whose death, together with Koestler's, does seem to have reduced palpably
the sum of general, of polymathic, intelligence in our affairs. And he was a brilliant player.
Koestler's brandies, the spasms of irritation
and of exasperated sarcasm which could chill and humiliate those nearest
to him had their legitimate source. "A happy man," remarks Mikes, "was
a strange curiosity, almost a mystery for him." How could a thinking,
a feeling man or woman be happy amid the bestial follies, the waste, the
suicidal blindness of contemporary history? To Arthur Koestler, official
rationalism was complacency and an unacceptable pose. Was it really possible
to found liberal politics on some fiction of reason, to pursue science
on some unexamined basis of positivism, when the real world was so manifestly
in the grip of inhuman, inexplicable impulses? If after the early nineteen-fifties
Koestler ceased from intervening publicly in political debates (he abstained
even at the moment of the Soviet invasion of Hungary), it was out of bleakness.
Where they spoke out, the voices of reason were mocked.
Yet on good days Koestler radiated a rare
passion for life, a deep merriment in the face of the unknown. He seemed
to exemplify Nietzsche's insight that there is in men and women a motivation
stronger even than love or hatred or fear. It is that of being interested-in
a body of knowledge, in a problem, in a hobby, in tomorrow's newspaper.
Koestler was supremely interested. I imagine that he arranged his appointment
with death with that same watchful, challenging art of attention which
he had lavished on literature and the sciences, on politics and psychology,
on the lost tribes of Israel and French cooking.
George Mikes, himself a Hungarian exile, is
too modest about his own many skills and achievements. He is the author
of that classic tract How to Be
an Alien and
of a whole number of delightful books on the perils of modern times.
This is a wise and a witty portrait of one to whom he meant much. Let
me, just for the record, amend a story as Mikes tells it. Koestler had
an eagle's aerie of a house at Alpbach, in the Austrian mountains. During
a summer colloquium there, he asked me to bring him into contact with a minor
Hungarian official who was taking part in the proceedings. The three of us
met at nightfall across a cafe table. Rather abruptly, Koestler asked if
it would be possible for him to revisit Budapest and stand once more on
native ground. After some thought, the Hungarian said that such a homecoming
would be a veritable triumph for Koestler, and that the regime would
give him discreet welcome. But he also said that Koestler's name stood
high on a very short list (it also included Silone) of those whom the Soviet
authorities so loathed that they might come after them even in Budapest.
His safety could not be absolutely guaranteed. The K.G.B. had a way of crossing
borders. As Koestler and I walked back to his house, under a tumult of
stars and in the clear mountain air, I said to him that to be on that list
seemed to me a greater distinction than either a Nobel or a Fellowship
of the Royal Society. He stopped short, gave me a characteristic side glance,
and said nothing. But he seemed, momentarily, at peace.
June 11, 1984
Em này là tác giả cái
tít cuốn sách của VTH: Đêm giữa ban ngày!
Cái tít Đêm giữa Ngọ, như trong cuốn tiểu sử
K của Scammell cho biết, K. nghĩ rằng, được trích dẫn từ Samson Agonistes của Milton: “Oh dark, dark, dark, amid the
blaze of noon”. Thực sự, Daphne được gợi hứng từ Sách
của [Book of] Job: “They meet with darkness in the daytime, and grope
in the noonday as in the night” [Job 5:14]
K. mở ra ‘cái
gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa,
là Xịa. ST có là nhờ nó. Chương trình WJC
chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong
tôi bừng nắng hạ!] Bộ sách
vĩ đại Văn Học Miền Nam của VP chắc cũng là
từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi
địa khác! Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là
đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of
Koestler is: one third genius, one third blackguard, and one third lunatic”,
[Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê
tiện, và 1/3 khủng, mát] tay cảnh sát chìm
giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với
K, tại nhà tù Pentonville, báo cáo với sếp.
|
|